Percy Jackson Tập 5: Vị Thần Cuối Cùng
Chương 22: Tôi bị quẳng xuống hồ
Không ai được trộm con pegasus của tôi. Rachel cũng không ngoại lệ. Tôi không chắc liệu tôi giận dữ, kinh ngạc hay lo lắng hơn.
“Cô ta đang nghĩ chuyện gì thế?” Annabeth nói khi chúng tôi chạy đến con sông. Không may, biết rõ Rachel định làm gì và điều đó làm tôi sợ chết khiếp.
Tình hình giao thông thật tệ hại. Mọi người đều đổ xô ra các con đường và ngẩn người xem các thiệt hại ở vùng chiến sự. Xe cảnh sát vang lên ở mỗi dãy nhà. Không thể nào bắt được xe taxi, và các con pegasus đều đã bay khỏi nơi này. Tôi sẽ tìm một vài người th Đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng, nhưng họ đã biến mất cùng với hầu hết phần bia xá xị ở khu Midtown. Vì thế chúng tôi chạy, chen lấn xuyên qua đám đông những người đang sững sờ lấp kín cả hai bên vỉa hè.
“Cô ta sẽ không bao giờ đi qua được hàng rào bảo vệ,” Annabeth bảo nói. “Peleus sẽ nhai sống cô ta.”
Tôi đã không nghĩ đến điều đó. Màn Sương Mù sẽ không lừa được Rachel như nó làm với hầu hết mọi người. Cô ấy sẽ dễ dàng tìm thấy trại. Nhưng tôi đang hy vọng các vành đai phép thuật của trại sẽ chỉ giữ cô ấy bên ngoài như một trường lực. Tôi đã không nghĩ đến việc con Peleus có thể tấn công.
“Chúng ta phải nhanh lên mới kịp.” Tôi liếc nhìn Nico. “Anh không chắc em còn có thể triệu hồi một vài con ngựa xương đâu nhỉ?”
Cậu ta vừa chạy vừa thở khò khè như người lên cơn hen. “Quá mệt mỏi... không thể triệu hồi nổi một mẩu xương cho chó.”
Cuối cùng chúng tôi cũng lết đến được bờ sông và tôi phát ra một tiếng huýt sáo lớn. Tôi ghét phải làm điều này. Ngay cả với nửa đồng sand dollar có phép làm sạch ma thuật tôi đã đưa cho Sông Đông, nước ở đây vẫn khá ô nhiễm. Tôi không muốn làm cho bất cứ động vật biển nào bị ốm, nhưng chúng đến theo lời gọi của tôi.
Ba dòng nước khuấy động cả mặt nước xám xịt. Và một tốp ngựa cá trồi lên mặt nước. Chúng hý vang không chút vui vẻ, lắc thật mạnh bùn sông đang bám trên bờm của chúng. Chúng là những sinh vật thật xinh đẹp, với những chiếc đuôi cá đầy màu sắc, đầu và hai chân trước giống một con bạch mã. Con ngựa cá bơi phía trước to hơn nhiều so với những con khác – nó là vật cưỡi phù hợp cho một Cyclops.
“Cầu vồng!” tôi gọi lớn. “Mọi chuyện thế nào rồi, anh bạn?”
Nó hí vang một lời than phiền.
“Ừm, tớ xin lỗi nhé,” tôi nói. “Nhưng việc này gấp lắm. Bọn tớ cần về trại.”
Nó khịt mũi.
“Tyson à?” tôi nói. “Tyson vẫn ổn! Tớ xin lỗi là cậu ấy không có ở đây. Giờ cậu ấy là đại tướng quân của đội quân Cyclops.
“HÍ HÍ HÍ HÍ...!”
“Ừ! Tớ chắc cậu ấy sẽ mang táo về đãi các cậu. Giờ ta đi nhé...”
Loáng cái, Annabeth, Nico và tôi phóng vèo vèo trên mặt Sông Đông, còn nhanh hơn những chiếc mô tô nước nữa. Chúng tôi lao vút qua gầm cầu Throg’s Neck và tiến thẳng đến Long Island Sound.
Quãng đường như kéo dài mãi cho đến khi chúng tôi nhìn thấy bãi biển của trại. Chúng tôi cám ơn tốp ngựa cá và lội vào bờ. Chỉ mình anh Argus ra đón chúng tôi. Anh đứng khoanh tay trên bờ cát, hàng trăm con mắt trên người anh chăm chú nhìn chúng tôi.
“Cô ấy ở đây?” tôi hỏi.
Anh gật đầu dứt khoát.
“Mọi chuyện vẫn ổn hả anh?” Annabeth hỏi tiếp.
Anh Argus lắc đầu.
Ba đứa tôi theo anh lên con đường mòn. Tôi cảm thấy thật kỳ lại khi quay trở lại trại vì mọi thứ trông thật thanh bình – không có những tòa nhà đang cháy, không có các chiến binh bị thương. Các ngôi nhà của chúng tôi rực rỡ dưới ánh nắng và các cánh đồng lấp lánh sương mai. Nhưng nơi này gần như hoàn toàn trống không.
Ở phía trên Nhà Lớn, có điều gì đó hoàn toàn không ổn. Ánh sáng màu xanh lục phát ra từ các cánh cửa sổ, giống hệt điều tôi đã nhìn thấy về bà May Castellan trong các giấc mơ của tôi. Sương mù – loại ma quái – cuộn xoáy khắp mặt sân. Ở sân bóng chuyền, bác Chiron nằm trên chiếc cáng có kích thước bằng một con ngựa, một nhóm các thần rừng đang đứng quanh bác ấy. Blackjack lo lắng chạy nước kiệu nhỏ ở bãi cỏ.
Đừng trách tội tôi, sếp! nó van vỉ khi nhìn thấy tôi. Cô gái kỳ lạ đó buộc tôi phải làm thế!
Rachel Elizabeth Dare đứng ở phía dưới bậc thềm của mái hiên. Hai tay cô ấy đưa lên như thể cô ấy đang chờ ai đó từ bên trong nhà ném quả bóng ra cho cô.
“Cô ta đang làm gì thế?” Annabeth gay gắt. “Sao cô ta vượt qua được các hàng rào bảo vệ
“Cô ta đã bay qua,” một trong số các thần rừng nói, nhìn Blackjack với vẻ cáo buộc. “Ngay phía trên con rồng, ngay phía trên các hàng rào ma thuật.”
“Rachel!” Tôi gọi lớn, nhưng các thần rừng đã ngăn tôi lại khi tôi cố đến gần hơn.
“Percy, đừng,” bác Chiron cảnh báo. Bác ấy cau mày khi cố di chuyển. Cánh tay trái của bác ấy được cố định bằng băng đeo, hai chân sau được bó nẹp và đầu bác ấy quấn băng trắng xóa. “Cháu không thể can thiệp vào.”
“Cháu nghĩ bác đã giải thích mọi chuyện cho cô ấy!”
“Bác đã làm. Và bác đã mời cô ấy đến đây.”
Tôi nhìn chằm chằm vào bác ấy đầy hoài nghi. “Bác đã nói sẽ không bao giờ để cho bất cứ ai thử làm điều đó lần nữa! Bác đã nói...”
“Bác biết những gì mình đã nói, Percy. Nhưng bác đã sai. Rachel đã có cảnh mộng về lời nguyền của thần Hades. Cô bé tin giờ nó đã hết linh nghiệm. Cô bé thuyết phục bác rằng cô bé đáng có được cơ hội này.”
“Và nếu lời nguyền vẫn còn linh nghiệm thì sao ạ? Nếu thần Hades chưa giải nguyền, cô ấy sẽ mất trí!”
Màn Sương Mù quấn quanh Rachel. Cô bé run bần bật như thể đang bị động kinh.
“Này!” tôi thét lên. “Ngừng lại!”
Tôi chạy về phía cô ấy, gạt đi các thần rừng đang ngăn cản. Tôi đến được không quá ba mét và bị ném trúng bởi một thứ gì đó như quả bóng bãi biển vô hình vậy. Tôi bật ngược lại, ngã lăn trên cỏ.
Rachel mở mắt ra và xoay người lại. Cô ấy trông như thể đang mộng du – như thể cô ấy có thể nhìn thấy tôi, nhưng chỉ là trong một giấc mơ.
“Tớ không sao đâu.” Giọng cô ấy nghe như từ xa vọng tới. “Đây là lý do tớ đã đến đây.”
“Cậu sẽ bị tiêu diệt!”
Cô ấy đầu. “Đây là nơi tớ thuộc về, Percy. Cuối cùng tớ đã hiểu được nguyên do.”
Rachel nói khá giống những gì bà May Castellan đã nói. Tôi phải can cô ấy lại, nhưng tôi thậm chí còn không thể đứng lên.
Căn nhà rung chuyển. Cửa trước bật mở và ánh sáng màu xanh lục ùa ra. Tôi nhận ra mùi mốc ấm áp của những con rắn.
Sương mù cuộn thành một trăm con rắn bằng khói, trườn lên các cột ở mái hiên, cuộn tròn quanh ngôi nhà. Rồi Oracle xuất hiện ở cửa.
Xác ướp khô héo lê chân về phía trước trong bộ váy cầu vồng của bà ta. Bà ta trông đáng sợ hơn mọi khi, điều đó nói lên khá nhiều điều. Mái tóc bà ta đang rớt xuống thành từng vốc. Làn da nhăn nheo của bà ta giờ đang rạn nứt như ghế chiếc xe buýt cũ. Cặp mắt vô hồn của bà ta nhìn bâng quơ vào trong không gian, nhưng tôi có cảm giác sởn cả gai ốc rằng bà ta đang dần đi thẳng về phía Rachel.
Không hề sợ hãi, Rachel bình thản chìa hai tay mình ra.
“Ngươi phải chờ quá lâu,” Rachel nói. “Nhưng giờ ta đã ở đây.”
Ánh mặt trời như chiếu sáng hơn. Một người đàn ông hiện ra phía trên mái hiên, lơ lửng giữa không trung – một anh chàng tóc vàng trong chiếc áo toga trắng, đi kèm với kính mát và một nụ cười đầy tự mãn.
“Thần Apollo,” tôi nói.
Ông ta nháy mắt với tôi, nhưng đưa ngón tay lên môi.
“Rachel Elizabeth Dare,” ông nói. “Ngươi có được tài tiên tri. Nhưng đó đồng thời cũng là một lời nguyền. Ngươi có chắc là ngươi muốn điều này không?”
Rachel gật đầu. “Đó là số phận của tôi.”
“Ngươi có chấp nhận cả rủi ro không?”
“Có.”
“Vậy bắt đầu đi,” thần Apollo nói.
Rachel nhắm mắt lại. “Tôi chấp nhận vai trò này. Tôi xin nguyện trung thành thần Apollo, thần của các nhà tiên tri. Tôi mở mắt nhìn về phía tương lai và chấp nhận quá khứ. Tôi chấp nhận linh hồn của Delphi, người phát ngôn của các vị thần, người nói ra các điều bí ẩn, người nhìn thấu vận mệnh.”
Tôi không biết cô ấy lấy những lời đó từ đâu, nhưng chúng tuôn ra từ miệng cô khi Màn Sương Mù càng dày đặc thêm. Một cột khói màu xanh lục, trông như một con trăn khổng lồ, duỗi người ra từ miệng của xác ướp và trượt xuống cầu thang, quấn quít đầy âu yếm quanh chân Rachel. Cái xác ướp của Oracle vỡ vụn, rơi lả tả cho đến khi nó chẳng còn gì ngoài một đống bụi trong chiếc áo đầm nhuộm tie-dye cũ kỹ.. Sương mù bao lấy Rachel thành một cột khói.
Trông một thoáng, tôi không thể nào nhìn thấy Rachel. Rồi sau đó khói tan biến đi.
Rachel ngã xuống và cuộn người lại như tư thế của một bào thai. Annabeth, Nico và tôi chạy vội tới, nhưng thần Apollo nói, “Ngừng lại! Đây là thời điểm nhạy cảm nhất.”
Tôi sốt ruột hỏi. “Chuyện gì đang xảy ra? Ý người là gì?”
Thần Apollo lo âu nhìn Rachel. “Là lúc linh hồn quyết định có nên nhận, hay không nên nhận vật chủ.”
Annabeth hỏi. “Và nếu không thì sao ạ?”
“Năm từ,” thần Apollo nói, đếm chúng trên các ngón tay của mình. “Sẽ thật sự tồi tệ.”
Bất chấp lời cảnh báo của thần Apollo, tôi chạy về phía trước và quỳ bên trên Rachel. Mùi của gác xép đã biến mất. Màn Sương Mù chìm sâu vào trong đất và ánh sáng xanh lục đang mờ dần. Nhưng Rachel vẫn rất xanh xao. Hơi thở của cô ấy cực kỳ mong manh.
Rồi mắt cô ấy run rẩy mở ra. Cô ấy tập trung nhìn tôi đầy khó khăn. “Percy.”
“Cậu ổn không?”
Cô ấy cố gượng ngồi dậy. “Ối!” Cô ấy ép mạnh hai tay vào hai bên thái dương.
“Chị Rachel,” Nico nói, “quầng sáng sinh lực của chị gần như hoàn toàn biến mất. Em có thể nhìn thấy chị đang chết.”
“C không sao,” cô ấy khẽ nói. “Làm ơn, nâng tớ dậy. Các cảnh mộng – chúng hơi mất phương hướng.”
“Cậu có chắc là cậu ổn không?” tôi hỏi.
Thần Apollo lướt từ mái hiên xuống. “Các quý bà và quý ông thân mến, cho phép ta được giới thiệu với mọi người, đây là Oracle mới của Delphi.”
“Không đùa chứ,” Annabeth nói.
Rachel mỉm cười yếu ớt. “Điều đó cũng hơi ngạc nhiên đối với tớ, nhưng đây là số mệnh của tớ. Tớ đã nhìn thấy nó khi tớ còn ở New York. Tớ đã hiểu lý do tại sao tớ được sinh ra với cái nhìn chân thật. Tớ được sinh ra để trở thành Oracle.”
Tôi chớp mắt. “Ý cậu là hiện cậu có thể nói về tương lai sao?”
“Không phải lúc nào cũng thế,” cô ấy nói. “Nhưng có các cảnh mộng, hình ảnh, và từ ngữ tràn ngập trong đầu tớ. Khi ai đó hỏi tớ một câu hỏi, tớ... ôi... không...”
Thần Apollo thông báo. “Bắt đầu rồi đấy.”
Rachel khom người lại như thể vừa bị đấm vào bụng. Sau đó, cô ấy đứng thẳng dậy và đôi mắt cô phát ra ánh sáng của con rắn màu xanh lục.
Khi cô ấy nói, giọng cô ấy như được nhân ba lên – như thể có đến ba Rachel nói cùng một lúc:
“Bảy con lai sẽ đáp lại lời hiệu triệu.
Mang giông bão đến hoặc thiêu cháy thế giới phải sụp đổ
Một lời thề được giữ với một hơi thở cuối cùng
Và các kẻ thù hướng các cánh quân về phía Cánh cửa Cái chết.”
Vừa dứt lời, Rachel ngã quỵ xuống. Nico và tôi bắt lấy cô ấy và giúp cô ấy lên phía trên mái hiên. Da cô ấy nóng rẫy như người sốt cao.
“Tớ ổn mà,” cô ấy nói, giọng cô ấy bắt đầu quay trở lại bình thường.“Điều đó là gì thế?” tôi hỏi.
Rachel lắc đầu, bối rối. “Điều đó là gì?”
“Ta tin,” thần Apollo nói, “rằng chúng ta vừa mới nghe lời Đại Tiên Tri tiếp theo.”
“Nó có nghĩa là gì?” Tôi thắc mắc.
Rachel cau mày. “Tớ thậm chí không nhớ được những gì tớ vừa nói.”
“Không phải,” thần Apollo đăm chiêu. “Linh hồn sẽ chỉ thỉnh thoảng mới nói thông qua cô bé. Phần lớn thời gian, Rachel của chúng ta sẽ giống như bình thường vậy. Sẽ không có ích gì khi tra hỏi cô bé, ngay cả khi cô bé vừa mới nói ra lời tiên tri quan trọng cho tương lai của thế giới.”
“Sao lại thế?” tôi nói. “Nhưng...”
“Percy,” thần Apollo nói, “ta sẽ không lo lắng quá nhiều. Lời Đại Tiên Tri vừa qua về cậu phải mất gần bảy mươi năm mới hoàn tất đấy. Lời tiên tri lần này có thể thậm chí còn không xảy ra trong cuộc đời của cậu.”
Tôi nghĩ về những lời Rachel đã nói với cái giọng sởn gai ốc ấy – về cơn giông bão và lửa và cánh cửa cái chết. “Có lẽ thế,” tôi nói, “nhưng nó nghe chẳng tốt lành tí nào.”
“Không,” thần Apollo vui vẻ nói. “Tất nhiên là không rồi. Cô bé sẽ là một Oracle tuyệt vời!”
Thật khó để bỏ qua chủ đề đó, nhưng thần Apollo cứ khăng khăng rằng Rachel cần nghỉ ngơi, và cô ấy trông khá bối rối.
“Tớ xin lỗi, Percy,” cô ấy nói. “Lúc còn ở Olympus, tớ đã không giải thích hết mọi chuyện với cậu, nhưng sự triệu hồi đó làm tớ sợ chết khiếp được. Tớ không nghĩ cậu sẽ hiểu được điều đó.”
Tôi thú nhận. “Giờ tớ vẫn không hiểu. Nhưng tớ đoán là tớ mừng cho cậu.”
Rachel mỉm cười. “Vui mừng chắc chắn không phải là từ đúng lắm. Việc nhìn thấy tương lai sẽ không dễ dàng gì, nhưng nó là số mệnh của tớ. Tớ chỉ hy vọng gia đình tớ...”
Cô bé bỏ lửng c nói.
Tôi hỏi, “Thế cậu vẫn sẽ theo học ở Học viện Clarion à?”
“Tớ đã hứa với cha tớ rồi. Tớ đoán tớ sẽ phải cố trở thành một đứa trẻ bình thường trong suốt thời gian ở trường, nhưng...”
“Nhưng ngay bây giờ cô bé cần phải ngủ,” thần Apollo trách mắng. “Chiron này, ta không nghĩ gác xép này là nơi thích hợp dành cho Oracle mới của chúng ta, ý ông thế nào?”
“Không, quả thật là như thế.” Bác Chiron giờ đã khá hơn nhiều sau khi thần Apollo thực hiện một vài phép thuật chữa bệnh trên người bác ấy. “Rachel tạm thời có thể sử dụng phòng khách trong Nhà Lớn, cho đến khi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về việc đó.”
“Ta lại nghĩ đến một cái hang trên những ngọn đồi,” thần Apollo suy tưởng. “Với những ngọn đuốc và một tấm màn màu tía lớn phủ ở lối vào... cực kỳ thần bí. Nhưng bên trong, là một nơi ở được trang trí với một phòng chơi game và một trong các hệ thống rạp hát tại gia.”
Bác Chiron đằng hắng thật to.
Thần Apollo gắt. “Gì chứ?”
Rachel hôn lên má tôi. “Tạm biệt Percy,” cô ấy thì thầm. “Và việc tớ nhìn thấy tương lai không phải để nói cho cậu biết những gì cần phải làm ngay bây giờ, phải không?”
Đôi mắt cô ấy dường như sắc bén hơn nhiều so với trước đây.
Tôi đỏ mặt. “Không đâu.”
“Tốt,” cô ấy nói. Rồi cô ấy quay lưng lại và đi theo thần Apollo vào Nhà Lớn.
Phần còn lại của ngày cũng kỳ lạ như lúc sáng sớm. Các trại viên dần dần quay về từ New York bằng đủ các loại phương tiện – xe hơi, pegasus, và cỗ xe ngựa. Những người bị thương đều đã được chăm sóc. Những người chết được tổ chức lễ tang theo đúng nghi thức ở bên bếp lửa trại.
Vải liệm của Silena có màu hồng đậm, nhưng được thêu cây giáo điện. Cả nhà thần Ares và nữ thần Aphrodite đều công nhận cô ấy là một người anh hùng, và cùng nhau đốt vải ấy ai nhắc đến từ gián điệp. Bí mật ấy được đốt cháy thành tro khi làn khói có mùi nước hoa được thiết kế riêng dành cho cô ấy được gió cuốn đi vào bầu trời.
Thậm chí Ethan Nakamura cũng được ban vải liệm – đó là một tấm vải liệm bằng lụa đen, với một biểu trưng hai thanh kiếm vắt chéo nhau bên dưới một cái cân. Khi tấm vải liệm của cậu ấy cháy lên trong ngọn lửa, tôi hy vọng Ethan biết cậu ta cũng đã làm được điều gì đó quan trọng vào phút cuối. Cậu ta đã trả giá nhiều hơn một con mắt, nhưng các tiểu thần cuối cùng cũng sẽ có được sự tôn trọng mà họ xứng đáng được nhận.
Buổi tối diễn ra không quá sôi nổi. Điều nổi bật duy nhất đó chính là nữ thần cây Juniper, người hét lên, “Grover!” và tặng cho anh bạn trai mình một cú ôm ngang người, khiến mọi người reo hò cổ vũ. Sau đó họ cùng nhau đi xuống bãi biển để đi dạo dưới ánh trăng, và tôi cảm thấy hạnh phúc cho họ. Mặc dầu cảnh đó gợi cho tôi nhớ lại về Silena và anh Beckendorf, và lòng tôi chợt thoáng buồn.
Con O’Leary vui vẻ chạy nhảy nô đùa khắp nơi, ăn bất cứ đồ ăn thừa nào của mọi người. Nico ngồi ở bàn chính cùng bác Chiron và ngài D. và không ai thèm nghĩ rằng điều đó là không đúng. Mọi người đang vỗ vào lưng cậu ta, ca ngợi sự chiến đấu của cậu ta. Ngay cả những người con của thần Ares cũng nghĩ rằng Nico khá là tuyệt. Này, hãy xuất hiện với một đội quân gồm các chiến binh người chết để cứu thế giới, thì đột nhiên bạn sẽ là một người bạn tốt của mọi người.
Dần dần, mọi người đến ăn tối xong đều lần lượt tản đi. Một vài người rủ nhau ca hát bên đống lửa trại. Những người khác đi ngủ sớm. Tôi ngồi một mình ở bàn của nhà thần Poseidon, và ngắm trăng lên phía trên Long Island Sound. Tôi có thể thấy Grover và Juniper đang nắm tay đi dạo trên bãi biển, vừa đi vừa trò chuyện. Khung cảnh thật thanh bình.
“Này.” Annabeth nhẹ nhàng ngồi xuống kế bên tôi trên ghế băng. “Chúc mừng sinh nhật.”
Cô ấy đang cầm một chiếc bánh nướng méo mó to hự với lớp phủ màu xanh biển trên bề mặt.
Tôi trợn mắt. “Gì chứ?”
“Hôm nay là ngày 18 tháng Tám,” cô ấy nói. “Sinh nhật cậu, đúng không?”
Tô lặng người đi. Điều này chưa bao giờ xảy đến với tôi, nhưng cô ấy nói đúng. Tôi đã tròn mười sáu tuổi vào sáng nay – đúng buổi sáng tôi quyết định đưa con dao cho Luke. Lời nguyền đã thành sự thật đúng với thời hạn quy định, và tôi thậm chí đã không nghĩ đến sự thật rằng hôm nay là ngày sinh nhật của tôi.
Bạn tôi giục. “Cậu ước điều gì đi.”
“Cậu đã tự tay nướng bánh này à?” tôi hỏi.
“Tyson có giúp đấy.”
“Điều đó giải thích tại sao nó trông giống một viên gạch bằng sô cô la,” tôi nói. “Cộng thêm lớp xi măng màu xanh.”
Annabeth bật cười.
Tôi suy nghĩ một giây rồi thổi nến.
Chúng tôi cắt bánh làm đôi và chia mỗi người một nửa. Hai đứa đều dùng tay ăn bánh. Annabeth ngồi sát bên cùng tôi ngắm cảnh đại dương. Tiếng dế và quái vật đang tạo ra các âm thanh ầm ĩ trong các khu rừng, ngoài ra khắp nơi đều yên tĩnh.
“Cậu đã cứu thế giới,” cô ấy nói.
“Chúng ta đã cứu thế giới.”
“Và Rachel là Oracle mới, điều đó có nghĩa là cô ấy sẽ không được hẹn hò với bất cứ ai.”
Tôi nhận xét. “Nghe giọng cậu thì hình như cậu không quá buồn vì tin ấy.”
Annabeth nhún vai. “Tớ không quan tâm.”
“Ừ hử.”
Cô ấy nhướn mày. “Cậu có điều gì muốn nói với tớ hả, Óc Tảo Biển?”
“Cậu chắc sẽ đá mông tớ mất thôi.”
“Cậu biết là tớ sẽ đá mông cậu à?”
Tôi phủi vụn bánh ra khỏi hai tay. “Khi tớ trầm mình trong dòng Sông Styx, biến thành bất khả chiến bại... Nico đã dặn tớ hãy tập trung nghĩ về một điều sẽ úp tớ gắn chặt với thế giới, rằng điều đó khiến tớ muốn là một con người.”
Annabeth đăm đăm nhìn về phía chân trời xa xăm. “Ừ?”
“Rồi khi ở đỉnh Olympus,” tôi nói. “Khi họ muốn tớ trở thành một vị thần và những điều khác nữa, tớ vẫn tiếp tục nghĩ...”
“Ồ, vậy cậu thực sự muốn điều đó.”
“Ừm, có lẽ có một chút. Nhưng tớ đã từ chối, vì tớ đã nghĩ – tớ không muốn mọi thứ cứ mãi như cũ vì sự bất tử, vì mọi điều luôn có thể trở nên tốt hơn. Và tớ đang nghĩ...” Tôi cảm thấy cổ mình thật sự khô đắng.
“Đến ai đó đặc biệt sao?” Annabeth hỏi, giọng cô ấy mềm như nhung.
Tôi nhìn qua và thấy cô ấy đang cố nhịn cười.
“Cậu đang cười tớ,” tôi oán trách.
“Tớ không có!”
“Cậu đang làm cho chuyện này trở nên không dễ dàng chút nào.”
Rồi cô ấy thật sự cười lớn, và quàng hai tay quanh cổ tôi. “Tớ sẽ không bao giờ, chưa bao giờ làm mọi chuyện trở nên dễ dàng với cậu, Óc Tảo Biển. Hãy quen với điều đó đi nhé.”
Và cô ấy hôn tôi, tôi có cảm giác rằng bộ não của tôi hiện đang tan chảy khắp cơ thể tôi.
Tôi có thể ở mãi trong tình trạng đó, nếu như không có một giọng nói gào lên phía sau chúng tôi. “Được rồi, đã đến lúc!”
Đột nhiên cả khu vực nhà ăn đầy những đuốc và các trại viên. Clarisse dẫn đầu khi toán rình trộm tấn công bọn tôi và nhấc bổng cả hai chúng tôi lên vai họ.
“Ôi, thôi nào!” Tôi phàn nàn. “Ở đây chẳng có tí riêng tư nào sao?”
“Những kẻ si tình này cần phải được hạ nhiệt!” Clarisse nói với sự khoái chí.
“Đến hồ xui!” Connor Stoll xúi bẩy.
Với một tiếng reo hò vang dội, họ công kênh chúng tôi đi xuống đồi, nhưng họ đi đủ gần để hai đứa nắm được tay nhau. Annabeth đang cười đầy vui sướng, và tôi cũng không thể không cười theo, mặc dù mặt tôi đỏ như gấc.
Chúng tôi vẫn nắm tay nhau cho đến lúc họ quăng hai đứa xuống hồ.
Sau đấy, tôi đã cười lần cuối. Tôi tạo ra một bong bóng không khí ở dưới đáy hồ. Các bạn tôi vẫn đang đợi chúng tôi ngoi lên, nhưng này – khi bạn là con trai thần Poseidon, bạn không cần phải vội.
Và chắc chắn đó là nụ hôn dưới nước tuyệt nhất mọi thời đại.
“Cô ta đang nghĩ chuyện gì thế?” Annabeth nói khi chúng tôi chạy đến con sông. Không may, biết rõ Rachel định làm gì và điều đó làm tôi sợ chết khiếp.
Tình hình giao thông thật tệ hại. Mọi người đều đổ xô ra các con đường và ngẩn người xem các thiệt hại ở vùng chiến sự. Xe cảnh sát vang lên ở mỗi dãy nhà. Không thể nào bắt được xe taxi, và các con pegasus đều đã bay khỏi nơi này. Tôi sẽ tìm một vài người th Đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng, nhưng họ đã biến mất cùng với hầu hết phần bia xá xị ở khu Midtown. Vì thế chúng tôi chạy, chen lấn xuyên qua đám đông những người đang sững sờ lấp kín cả hai bên vỉa hè.
“Cô ta sẽ không bao giờ đi qua được hàng rào bảo vệ,” Annabeth bảo nói. “Peleus sẽ nhai sống cô ta.”
Tôi đã không nghĩ đến điều đó. Màn Sương Mù sẽ không lừa được Rachel như nó làm với hầu hết mọi người. Cô ấy sẽ dễ dàng tìm thấy trại. Nhưng tôi đang hy vọng các vành đai phép thuật của trại sẽ chỉ giữ cô ấy bên ngoài như một trường lực. Tôi đã không nghĩ đến việc con Peleus có thể tấn công.
“Chúng ta phải nhanh lên mới kịp.” Tôi liếc nhìn Nico. “Anh không chắc em còn có thể triệu hồi một vài con ngựa xương đâu nhỉ?”
Cậu ta vừa chạy vừa thở khò khè như người lên cơn hen. “Quá mệt mỏi... không thể triệu hồi nổi một mẩu xương cho chó.”
Cuối cùng chúng tôi cũng lết đến được bờ sông và tôi phát ra một tiếng huýt sáo lớn. Tôi ghét phải làm điều này. Ngay cả với nửa đồng sand dollar có phép làm sạch ma thuật tôi đã đưa cho Sông Đông, nước ở đây vẫn khá ô nhiễm. Tôi không muốn làm cho bất cứ động vật biển nào bị ốm, nhưng chúng đến theo lời gọi của tôi.
Ba dòng nước khuấy động cả mặt nước xám xịt. Và một tốp ngựa cá trồi lên mặt nước. Chúng hý vang không chút vui vẻ, lắc thật mạnh bùn sông đang bám trên bờm của chúng. Chúng là những sinh vật thật xinh đẹp, với những chiếc đuôi cá đầy màu sắc, đầu và hai chân trước giống một con bạch mã. Con ngựa cá bơi phía trước to hơn nhiều so với những con khác – nó là vật cưỡi phù hợp cho một Cyclops.
“Cầu vồng!” tôi gọi lớn. “Mọi chuyện thế nào rồi, anh bạn?”
Nó hí vang một lời than phiền.
“Ừm, tớ xin lỗi nhé,” tôi nói. “Nhưng việc này gấp lắm. Bọn tớ cần về trại.”
Nó khịt mũi.
“Tyson à?” tôi nói. “Tyson vẫn ổn! Tớ xin lỗi là cậu ấy không có ở đây. Giờ cậu ấy là đại tướng quân của đội quân Cyclops.
“HÍ HÍ HÍ HÍ...!”
“Ừ! Tớ chắc cậu ấy sẽ mang táo về đãi các cậu. Giờ ta đi nhé...”
Loáng cái, Annabeth, Nico và tôi phóng vèo vèo trên mặt Sông Đông, còn nhanh hơn những chiếc mô tô nước nữa. Chúng tôi lao vút qua gầm cầu Throg’s Neck và tiến thẳng đến Long Island Sound.
Quãng đường như kéo dài mãi cho đến khi chúng tôi nhìn thấy bãi biển của trại. Chúng tôi cám ơn tốp ngựa cá và lội vào bờ. Chỉ mình anh Argus ra đón chúng tôi. Anh đứng khoanh tay trên bờ cát, hàng trăm con mắt trên người anh chăm chú nhìn chúng tôi.
“Cô ấy ở đây?” tôi hỏi.
Anh gật đầu dứt khoát.
“Mọi chuyện vẫn ổn hả anh?” Annabeth hỏi tiếp.
Anh Argus lắc đầu.
Ba đứa tôi theo anh lên con đường mòn. Tôi cảm thấy thật kỳ lại khi quay trở lại trại vì mọi thứ trông thật thanh bình – không có những tòa nhà đang cháy, không có các chiến binh bị thương. Các ngôi nhà của chúng tôi rực rỡ dưới ánh nắng và các cánh đồng lấp lánh sương mai. Nhưng nơi này gần như hoàn toàn trống không.
Ở phía trên Nhà Lớn, có điều gì đó hoàn toàn không ổn. Ánh sáng màu xanh lục phát ra từ các cánh cửa sổ, giống hệt điều tôi đã nhìn thấy về bà May Castellan trong các giấc mơ của tôi. Sương mù – loại ma quái – cuộn xoáy khắp mặt sân. Ở sân bóng chuyền, bác Chiron nằm trên chiếc cáng có kích thước bằng một con ngựa, một nhóm các thần rừng đang đứng quanh bác ấy. Blackjack lo lắng chạy nước kiệu nhỏ ở bãi cỏ.
Đừng trách tội tôi, sếp! nó van vỉ khi nhìn thấy tôi. Cô gái kỳ lạ đó buộc tôi phải làm thế!
Rachel Elizabeth Dare đứng ở phía dưới bậc thềm của mái hiên. Hai tay cô ấy đưa lên như thể cô ấy đang chờ ai đó từ bên trong nhà ném quả bóng ra cho cô.
“Cô ta đang làm gì thế?” Annabeth gay gắt. “Sao cô ta vượt qua được các hàng rào bảo vệ
“Cô ta đã bay qua,” một trong số các thần rừng nói, nhìn Blackjack với vẻ cáo buộc. “Ngay phía trên con rồng, ngay phía trên các hàng rào ma thuật.”
“Rachel!” Tôi gọi lớn, nhưng các thần rừng đã ngăn tôi lại khi tôi cố đến gần hơn.
“Percy, đừng,” bác Chiron cảnh báo. Bác ấy cau mày khi cố di chuyển. Cánh tay trái của bác ấy được cố định bằng băng đeo, hai chân sau được bó nẹp và đầu bác ấy quấn băng trắng xóa. “Cháu không thể can thiệp vào.”
“Cháu nghĩ bác đã giải thích mọi chuyện cho cô ấy!”
“Bác đã làm. Và bác đã mời cô ấy đến đây.”
Tôi nhìn chằm chằm vào bác ấy đầy hoài nghi. “Bác đã nói sẽ không bao giờ để cho bất cứ ai thử làm điều đó lần nữa! Bác đã nói...”
“Bác biết những gì mình đã nói, Percy. Nhưng bác đã sai. Rachel đã có cảnh mộng về lời nguyền của thần Hades. Cô bé tin giờ nó đã hết linh nghiệm. Cô bé thuyết phục bác rằng cô bé đáng có được cơ hội này.”
“Và nếu lời nguyền vẫn còn linh nghiệm thì sao ạ? Nếu thần Hades chưa giải nguyền, cô ấy sẽ mất trí!”
Màn Sương Mù quấn quanh Rachel. Cô bé run bần bật như thể đang bị động kinh.
“Này!” tôi thét lên. “Ngừng lại!”
Tôi chạy về phía cô ấy, gạt đi các thần rừng đang ngăn cản. Tôi đến được không quá ba mét và bị ném trúng bởi một thứ gì đó như quả bóng bãi biển vô hình vậy. Tôi bật ngược lại, ngã lăn trên cỏ.
Rachel mở mắt ra và xoay người lại. Cô ấy trông như thể đang mộng du – như thể cô ấy có thể nhìn thấy tôi, nhưng chỉ là trong một giấc mơ.
“Tớ không sao đâu.” Giọng cô ấy nghe như từ xa vọng tới. “Đây là lý do tớ đã đến đây.”
“Cậu sẽ bị tiêu diệt!”
Cô ấy đầu. “Đây là nơi tớ thuộc về, Percy. Cuối cùng tớ đã hiểu được nguyên do.”
Rachel nói khá giống những gì bà May Castellan đã nói. Tôi phải can cô ấy lại, nhưng tôi thậm chí còn không thể đứng lên.
Căn nhà rung chuyển. Cửa trước bật mở và ánh sáng màu xanh lục ùa ra. Tôi nhận ra mùi mốc ấm áp của những con rắn.
Sương mù cuộn thành một trăm con rắn bằng khói, trườn lên các cột ở mái hiên, cuộn tròn quanh ngôi nhà. Rồi Oracle xuất hiện ở cửa.
Xác ướp khô héo lê chân về phía trước trong bộ váy cầu vồng của bà ta. Bà ta trông đáng sợ hơn mọi khi, điều đó nói lên khá nhiều điều. Mái tóc bà ta đang rớt xuống thành từng vốc. Làn da nhăn nheo của bà ta giờ đang rạn nứt như ghế chiếc xe buýt cũ. Cặp mắt vô hồn của bà ta nhìn bâng quơ vào trong không gian, nhưng tôi có cảm giác sởn cả gai ốc rằng bà ta đang dần đi thẳng về phía Rachel.
Không hề sợ hãi, Rachel bình thản chìa hai tay mình ra.
“Ngươi phải chờ quá lâu,” Rachel nói. “Nhưng giờ ta đã ở đây.”
Ánh mặt trời như chiếu sáng hơn. Một người đàn ông hiện ra phía trên mái hiên, lơ lửng giữa không trung – một anh chàng tóc vàng trong chiếc áo toga trắng, đi kèm với kính mát và một nụ cười đầy tự mãn.
“Thần Apollo,” tôi nói.
Ông ta nháy mắt với tôi, nhưng đưa ngón tay lên môi.
“Rachel Elizabeth Dare,” ông nói. “Ngươi có được tài tiên tri. Nhưng đó đồng thời cũng là một lời nguyền. Ngươi có chắc là ngươi muốn điều này không?”
Rachel gật đầu. “Đó là số phận của tôi.”
“Ngươi có chấp nhận cả rủi ro không?”
“Có.”
“Vậy bắt đầu đi,” thần Apollo nói.
Rachel nhắm mắt lại. “Tôi chấp nhận vai trò này. Tôi xin nguyện trung thành thần Apollo, thần của các nhà tiên tri. Tôi mở mắt nhìn về phía tương lai và chấp nhận quá khứ. Tôi chấp nhận linh hồn của Delphi, người phát ngôn của các vị thần, người nói ra các điều bí ẩn, người nhìn thấu vận mệnh.”
Tôi không biết cô ấy lấy những lời đó từ đâu, nhưng chúng tuôn ra từ miệng cô khi Màn Sương Mù càng dày đặc thêm. Một cột khói màu xanh lục, trông như một con trăn khổng lồ, duỗi người ra từ miệng của xác ướp và trượt xuống cầu thang, quấn quít đầy âu yếm quanh chân Rachel. Cái xác ướp của Oracle vỡ vụn, rơi lả tả cho đến khi nó chẳng còn gì ngoài một đống bụi trong chiếc áo đầm nhuộm tie-dye cũ kỹ.. Sương mù bao lấy Rachel thành một cột khói.
Trông một thoáng, tôi không thể nào nhìn thấy Rachel. Rồi sau đó khói tan biến đi.
Rachel ngã xuống và cuộn người lại như tư thế của một bào thai. Annabeth, Nico và tôi chạy vội tới, nhưng thần Apollo nói, “Ngừng lại! Đây là thời điểm nhạy cảm nhất.”
Tôi sốt ruột hỏi. “Chuyện gì đang xảy ra? Ý người là gì?”
Thần Apollo lo âu nhìn Rachel. “Là lúc linh hồn quyết định có nên nhận, hay không nên nhận vật chủ.”
Annabeth hỏi. “Và nếu không thì sao ạ?”
“Năm từ,” thần Apollo nói, đếm chúng trên các ngón tay của mình. “Sẽ thật sự tồi tệ.”
Bất chấp lời cảnh báo của thần Apollo, tôi chạy về phía trước và quỳ bên trên Rachel. Mùi của gác xép đã biến mất. Màn Sương Mù chìm sâu vào trong đất và ánh sáng xanh lục đang mờ dần. Nhưng Rachel vẫn rất xanh xao. Hơi thở của cô ấy cực kỳ mong manh.
Rồi mắt cô ấy run rẩy mở ra. Cô ấy tập trung nhìn tôi đầy khó khăn. “Percy.”
“Cậu ổn không?”
Cô ấy cố gượng ngồi dậy. “Ối!” Cô ấy ép mạnh hai tay vào hai bên thái dương.
“Chị Rachel,” Nico nói, “quầng sáng sinh lực của chị gần như hoàn toàn biến mất. Em có thể nhìn thấy chị đang chết.”
“C không sao,” cô ấy khẽ nói. “Làm ơn, nâng tớ dậy. Các cảnh mộng – chúng hơi mất phương hướng.”
“Cậu có chắc là cậu ổn không?” tôi hỏi.
Thần Apollo lướt từ mái hiên xuống. “Các quý bà và quý ông thân mến, cho phép ta được giới thiệu với mọi người, đây là Oracle mới của Delphi.”
“Không đùa chứ,” Annabeth nói.
Rachel mỉm cười yếu ớt. “Điều đó cũng hơi ngạc nhiên đối với tớ, nhưng đây là số mệnh của tớ. Tớ đã nhìn thấy nó khi tớ còn ở New York. Tớ đã hiểu lý do tại sao tớ được sinh ra với cái nhìn chân thật. Tớ được sinh ra để trở thành Oracle.”
Tôi chớp mắt. “Ý cậu là hiện cậu có thể nói về tương lai sao?”
“Không phải lúc nào cũng thế,” cô ấy nói. “Nhưng có các cảnh mộng, hình ảnh, và từ ngữ tràn ngập trong đầu tớ. Khi ai đó hỏi tớ một câu hỏi, tớ... ôi... không...”
Thần Apollo thông báo. “Bắt đầu rồi đấy.”
Rachel khom người lại như thể vừa bị đấm vào bụng. Sau đó, cô ấy đứng thẳng dậy và đôi mắt cô phát ra ánh sáng của con rắn màu xanh lục.
Khi cô ấy nói, giọng cô ấy như được nhân ba lên – như thể có đến ba Rachel nói cùng một lúc:
“Bảy con lai sẽ đáp lại lời hiệu triệu.
Mang giông bão đến hoặc thiêu cháy thế giới phải sụp đổ
Một lời thề được giữ với một hơi thở cuối cùng
Và các kẻ thù hướng các cánh quân về phía Cánh cửa Cái chết.”
Vừa dứt lời, Rachel ngã quỵ xuống. Nico và tôi bắt lấy cô ấy và giúp cô ấy lên phía trên mái hiên. Da cô ấy nóng rẫy như người sốt cao.
“Tớ ổn mà,” cô ấy nói, giọng cô ấy bắt đầu quay trở lại bình thường.“Điều đó là gì thế?” tôi hỏi.
Rachel lắc đầu, bối rối. “Điều đó là gì?”
“Ta tin,” thần Apollo nói, “rằng chúng ta vừa mới nghe lời Đại Tiên Tri tiếp theo.”
“Nó có nghĩa là gì?” Tôi thắc mắc.
Rachel cau mày. “Tớ thậm chí không nhớ được những gì tớ vừa nói.”
“Không phải,” thần Apollo đăm chiêu. “Linh hồn sẽ chỉ thỉnh thoảng mới nói thông qua cô bé. Phần lớn thời gian, Rachel của chúng ta sẽ giống như bình thường vậy. Sẽ không có ích gì khi tra hỏi cô bé, ngay cả khi cô bé vừa mới nói ra lời tiên tri quan trọng cho tương lai của thế giới.”
“Sao lại thế?” tôi nói. “Nhưng...”
“Percy,” thần Apollo nói, “ta sẽ không lo lắng quá nhiều. Lời Đại Tiên Tri vừa qua về cậu phải mất gần bảy mươi năm mới hoàn tất đấy. Lời tiên tri lần này có thể thậm chí còn không xảy ra trong cuộc đời của cậu.”
Tôi nghĩ về những lời Rachel đã nói với cái giọng sởn gai ốc ấy – về cơn giông bão và lửa và cánh cửa cái chết. “Có lẽ thế,” tôi nói, “nhưng nó nghe chẳng tốt lành tí nào.”
“Không,” thần Apollo vui vẻ nói. “Tất nhiên là không rồi. Cô bé sẽ là một Oracle tuyệt vời!”
Thật khó để bỏ qua chủ đề đó, nhưng thần Apollo cứ khăng khăng rằng Rachel cần nghỉ ngơi, và cô ấy trông khá bối rối.
“Tớ xin lỗi, Percy,” cô ấy nói. “Lúc còn ở Olympus, tớ đã không giải thích hết mọi chuyện với cậu, nhưng sự triệu hồi đó làm tớ sợ chết khiếp được. Tớ không nghĩ cậu sẽ hiểu được điều đó.”
Tôi thú nhận. “Giờ tớ vẫn không hiểu. Nhưng tớ đoán là tớ mừng cho cậu.”
Rachel mỉm cười. “Vui mừng chắc chắn không phải là từ đúng lắm. Việc nhìn thấy tương lai sẽ không dễ dàng gì, nhưng nó là số mệnh của tớ. Tớ chỉ hy vọng gia đình tớ...”
Cô bé bỏ lửng c nói.
Tôi hỏi, “Thế cậu vẫn sẽ theo học ở Học viện Clarion à?”
“Tớ đã hứa với cha tớ rồi. Tớ đoán tớ sẽ phải cố trở thành một đứa trẻ bình thường trong suốt thời gian ở trường, nhưng...”
“Nhưng ngay bây giờ cô bé cần phải ngủ,” thần Apollo trách mắng. “Chiron này, ta không nghĩ gác xép này là nơi thích hợp dành cho Oracle mới của chúng ta, ý ông thế nào?”
“Không, quả thật là như thế.” Bác Chiron giờ đã khá hơn nhiều sau khi thần Apollo thực hiện một vài phép thuật chữa bệnh trên người bác ấy. “Rachel tạm thời có thể sử dụng phòng khách trong Nhà Lớn, cho đến khi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về việc đó.”
“Ta lại nghĩ đến một cái hang trên những ngọn đồi,” thần Apollo suy tưởng. “Với những ngọn đuốc và một tấm màn màu tía lớn phủ ở lối vào... cực kỳ thần bí. Nhưng bên trong, là một nơi ở được trang trí với một phòng chơi game và một trong các hệ thống rạp hát tại gia.”
Bác Chiron đằng hắng thật to.
Thần Apollo gắt. “Gì chứ?”
Rachel hôn lên má tôi. “Tạm biệt Percy,” cô ấy thì thầm. “Và việc tớ nhìn thấy tương lai không phải để nói cho cậu biết những gì cần phải làm ngay bây giờ, phải không?”
Đôi mắt cô ấy dường như sắc bén hơn nhiều so với trước đây.
Tôi đỏ mặt. “Không đâu.”
“Tốt,” cô ấy nói. Rồi cô ấy quay lưng lại và đi theo thần Apollo vào Nhà Lớn.
Phần còn lại của ngày cũng kỳ lạ như lúc sáng sớm. Các trại viên dần dần quay về từ New York bằng đủ các loại phương tiện – xe hơi, pegasus, và cỗ xe ngựa. Những người bị thương đều đã được chăm sóc. Những người chết được tổ chức lễ tang theo đúng nghi thức ở bên bếp lửa trại.
Vải liệm của Silena có màu hồng đậm, nhưng được thêu cây giáo điện. Cả nhà thần Ares và nữ thần Aphrodite đều công nhận cô ấy là một người anh hùng, và cùng nhau đốt vải ấy ai nhắc đến từ gián điệp. Bí mật ấy được đốt cháy thành tro khi làn khói có mùi nước hoa được thiết kế riêng dành cho cô ấy được gió cuốn đi vào bầu trời.
Thậm chí Ethan Nakamura cũng được ban vải liệm – đó là một tấm vải liệm bằng lụa đen, với một biểu trưng hai thanh kiếm vắt chéo nhau bên dưới một cái cân. Khi tấm vải liệm của cậu ấy cháy lên trong ngọn lửa, tôi hy vọng Ethan biết cậu ta cũng đã làm được điều gì đó quan trọng vào phút cuối. Cậu ta đã trả giá nhiều hơn một con mắt, nhưng các tiểu thần cuối cùng cũng sẽ có được sự tôn trọng mà họ xứng đáng được nhận.
Buổi tối diễn ra không quá sôi nổi. Điều nổi bật duy nhất đó chính là nữ thần cây Juniper, người hét lên, “Grover!” và tặng cho anh bạn trai mình một cú ôm ngang người, khiến mọi người reo hò cổ vũ. Sau đó họ cùng nhau đi xuống bãi biển để đi dạo dưới ánh trăng, và tôi cảm thấy hạnh phúc cho họ. Mặc dầu cảnh đó gợi cho tôi nhớ lại về Silena và anh Beckendorf, và lòng tôi chợt thoáng buồn.
Con O’Leary vui vẻ chạy nhảy nô đùa khắp nơi, ăn bất cứ đồ ăn thừa nào của mọi người. Nico ngồi ở bàn chính cùng bác Chiron và ngài D. và không ai thèm nghĩ rằng điều đó là không đúng. Mọi người đang vỗ vào lưng cậu ta, ca ngợi sự chiến đấu của cậu ta. Ngay cả những người con của thần Ares cũng nghĩ rằng Nico khá là tuyệt. Này, hãy xuất hiện với một đội quân gồm các chiến binh người chết để cứu thế giới, thì đột nhiên bạn sẽ là một người bạn tốt của mọi người.
Dần dần, mọi người đến ăn tối xong đều lần lượt tản đi. Một vài người rủ nhau ca hát bên đống lửa trại. Những người khác đi ngủ sớm. Tôi ngồi một mình ở bàn của nhà thần Poseidon, và ngắm trăng lên phía trên Long Island Sound. Tôi có thể thấy Grover và Juniper đang nắm tay đi dạo trên bãi biển, vừa đi vừa trò chuyện. Khung cảnh thật thanh bình.
“Này.” Annabeth nhẹ nhàng ngồi xuống kế bên tôi trên ghế băng. “Chúc mừng sinh nhật.”
Cô ấy đang cầm một chiếc bánh nướng méo mó to hự với lớp phủ màu xanh biển trên bề mặt.
Tôi trợn mắt. “Gì chứ?”
“Hôm nay là ngày 18 tháng Tám,” cô ấy nói. “Sinh nhật cậu, đúng không?”
Tô lặng người đi. Điều này chưa bao giờ xảy đến với tôi, nhưng cô ấy nói đúng. Tôi đã tròn mười sáu tuổi vào sáng nay – đúng buổi sáng tôi quyết định đưa con dao cho Luke. Lời nguyền đã thành sự thật đúng với thời hạn quy định, và tôi thậm chí đã không nghĩ đến sự thật rằng hôm nay là ngày sinh nhật của tôi.
Bạn tôi giục. “Cậu ước điều gì đi.”
“Cậu đã tự tay nướng bánh này à?” tôi hỏi.
“Tyson có giúp đấy.”
“Điều đó giải thích tại sao nó trông giống một viên gạch bằng sô cô la,” tôi nói. “Cộng thêm lớp xi măng màu xanh.”
Annabeth bật cười.
Tôi suy nghĩ một giây rồi thổi nến.
Chúng tôi cắt bánh làm đôi và chia mỗi người một nửa. Hai đứa đều dùng tay ăn bánh. Annabeth ngồi sát bên cùng tôi ngắm cảnh đại dương. Tiếng dế và quái vật đang tạo ra các âm thanh ầm ĩ trong các khu rừng, ngoài ra khắp nơi đều yên tĩnh.
“Cậu đã cứu thế giới,” cô ấy nói.
“Chúng ta đã cứu thế giới.”
“Và Rachel là Oracle mới, điều đó có nghĩa là cô ấy sẽ không được hẹn hò với bất cứ ai.”
Tôi nhận xét. “Nghe giọng cậu thì hình như cậu không quá buồn vì tin ấy.”
Annabeth nhún vai. “Tớ không quan tâm.”
“Ừ hử.”
Cô ấy nhướn mày. “Cậu có điều gì muốn nói với tớ hả, Óc Tảo Biển?”
“Cậu chắc sẽ đá mông tớ mất thôi.”
“Cậu biết là tớ sẽ đá mông cậu à?”
Tôi phủi vụn bánh ra khỏi hai tay. “Khi tớ trầm mình trong dòng Sông Styx, biến thành bất khả chiến bại... Nico đã dặn tớ hãy tập trung nghĩ về một điều sẽ úp tớ gắn chặt với thế giới, rằng điều đó khiến tớ muốn là một con người.”
Annabeth đăm đăm nhìn về phía chân trời xa xăm. “Ừ?”
“Rồi khi ở đỉnh Olympus,” tôi nói. “Khi họ muốn tớ trở thành một vị thần và những điều khác nữa, tớ vẫn tiếp tục nghĩ...”
“Ồ, vậy cậu thực sự muốn điều đó.”
“Ừm, có lẽ có một chút. Nhưng tớ đã từ chối, vì tớ đã nghĩ – tớ không muốn mọi thứ cứ mãi như cũ vì sự bất tử, vì mọi điều luôn có thể trở nên tốt hơn. Và tớ đang nghĩ...” Tôi cảm thấy cổ mình thật sự khô đắng.
“Đến ai đó đặc biệt sao?” Annabeth hỏi, giọng cô ấy mềm như nhung.
Tôi nhìn qua và thấy cô ấy đang cố nhịn cười.
“Cậu đang cười tớ,” tôi oán trách.
“Tớ không có!”
“Cậu đang làm cho chuyện này trở nên không dễ dàng chút nào.”
Rồi cô ấy thật sự cười lớn, và quàng hai tay quanh cổ tôi. “Tớ sẽ không bao giờ, chưa bao giờ làm mọi chuyện trở nên dễ dàng với cậu, Óc Tảo Biển. Hãy quen với điều đó đi nhé.”
Và cô ấy hôn tôi, tôi có cảm giác rằng bộ não của tôi hiện đang tan chảy khắp cơ thể tôi.
Tôi có thể ở mãi trong tình trạng đó, nếu như không có một giọng nói gào lên phía sau chúng tôi. “Được rồi, đã đến lúc!”
Đột nhiên cả khu vực nhà ăn đầy những đuốc và các trại viên. Clarisse dẫn đầu khi toán rình trộm tấn công bọn tôi và nhấc bổng cả hai chúng tôi lên vai họ.
“Ôi, thôi nào!” Tôi phàn nàn. “Ở đây chẳng có tí riêng tư nào sao?”
“Những kẻ si tình này cần phải được hạ nhiệt!” Clarisse nói với sự khoái chí.
“Đến hồ xui!” Connor Stoll xúi bẩy.
Với một tiếng reo hò vang dội, họ công kênh chúng tôi đi xuống đồi, nhưng họ đi đủ gần để hai đứa nắm được tay nhau. Annabeth đang cười đầy vui sướng, và tôi cũng không thể không cười theo, mặc dù mặt tôi đỏ như gấc.
Chúng tôi vẫn nắm tay nhau cho đến lúc họ quăng hai đứa xuống hồ.
Sau đấy, tôi đã cười lần cuối. Tôi tạo ra một bong bóng không khí ở dưới đáy hồ. Các bạn tôi vẫn đang đợi chúng tôi ngoi lên, nhưng này – khi bạn là con trai thần Poseidon, bạn không cần phải vội.
Và chắc chắn đó là nụ hôn dưới nước tuyệt nhất mọi thời đại.
Bình luận truyện