Quỷ Cái Vận Đồ Prada (The Devil Wears Prada)
Chương 9
Mười hai tuần lễ trôi qua cho đến khi tôi bắt đầu tích trữ quần áo hàng hiệu mà Runway gần như ấn vào tay. Mười hai tuần dài đằng đẵng với ngày làm việc kéo dài mười bốn tiếng và đêm ngủ lâu nhất là năm tiếng. Mười hai tuần dài lê thê mà hằng ngày tôi bị xét nét từ đầu đến chân, không được nghe lấy một lời khen ngợi hay ít nhất cũng khích lệ đã làm được việc. Mười hai tuần dài kinh hãi với cảm giác là mình ngu dốt, bất tài và ngô nghê đủ mọi mặt. Bắt đầu vào tháng thứ tư ở Runway ( may quá, chỉ còn chín tháng nữa thôi! ) thì tôi quyết định trở thành một cô gái mới và ăn mặc đúng lệ bộ.
Cho đến nay thì tôi khốn khổ nhất khi chọn quần mỗi sáng. Ngay một người như tôi cũng phải ngộ ra là mặc đồ “ chính thống” đỡ phiền toái hơn nhiều. Sáng sớm nào cũng khó nhọc, nhưng khó nhọc nhất vẫn là chuyện quần áo. Đồng hồ báo thức réo chuông sớm đến mức tôi không dám kể chuyện ấy cho ai, tựa như nhắc đến thời điểm đó đã đủ đau hết mình mẩy. Sáng nào cũng đúng bảy giờ có mặt ở văn phòng đã là một thử thách lớn đến phát khóc. Tất nhiên là đã có lúc tôi trèo khỏi giường trước bảy giờ, ví dụ như để ra kịp chuyến máy bay nào đó hay cố ôn thi vào phút cuối cùng. Chứ ngoài ra tôi chỉ biết thời gian đó như điểm kết của một đêm dạ hội, không có gì đáng sợ khi người ta có cả một ngày hôm sau để được thoải mái ngủ bù. Nhưng bây giờ thì khác. Đây là một kiểu mất ngủ liên tục, đều đặn và vô nhân đạo mà tôi thì không sao lên giường được trước nửa đêm. Hai tuần vừa rồi mới thật là lắm stress, vì công việc chuẩn bị ra số báo mùa xuân đang đi vào giai đoạn quyết định và có hôm tôi ngồi đợi đến gần mười một giờ đêm ở ban biên tập để đợi lấy SÁCH. Về đến nhà thì thường là đã xong đâu, tôi còn phải ăn chút gì đó và cởi quần áo trước khi lăn ra ngủ như chết.
Đúng năm rưỡi, một tiếng chuông xé tai chấm dứt giấc ngủ - tiếng động duy nhất mà tôi không lờ đi nổi. Tôi cố thò một chân ra khỏi chăn và duỗi về hướng đồng hồ báo thức ( được bố trí một cách chiến lược để tôi phải chuyển động mới với tới). Tôi lọ mọ dùng ngón chân tìm nút tắt để sau vài lần ấn trượt thì rồi cũng ngắt được chuông. Cứ sau bảy phút nó lại kêu lần nữa, và đúng 6 giờ 04 tôi hoảng hốt vùng dậy để lao vào nhà tắm.
Tiếp theo là cuộc chiến với tủ quần áo, thông thường từ 6 giờ 30 đến 6 giờ 37. Lily vốn quen đồng phục thống nhất ở trường là quần Jeans, áo pull, dây chuyền sợi gai và dĩ nhiên không phải chuyên gia thời trang; cô luôn ngạc nhiên khi chúng tôi gặp nhau: “ Tớ vẫn không rõ cậu mặc đồ gì đến chỗ làm việc? Quần áo của cậu thì okay, nhưng làm sao mặc đến Runway được?”
Tôi không tiết lộ với cô rằng từ mấy tháng nay tôi chủ tâm dậy sớm và lì lợm quyết định sửa đổi phong thái thể thao của mình theo hướng Runway. Sáng nào tôi cũng đứng nửa tiếng trước tủ quần áo, tay cầm tách cà phê lấy trong lò vi sóng ra, lưỡng lự giữa đống bốt và thắt lưng, len và sợi micro. Sau khi thay tất năm lần để chọn được tông màu thích hợp thì mới nhớ ra là không được đi tất. Gót giầy của tôi luôn lùn quá, rộng quá, to quá. Tôi không có lấy một thứ đồ nào bằng len cashmere. Do chưa hề biết khái niệm xi líp dây nên tôi bận rộn rất lâu để chọn cái quần lót nào không hằn vết ra ngoài – một trong những chuyện được ưa đem ra đàm tiếu nhất trong giờ giải lao. Và cho dù đã ngập ngừng nhiều lần nhưng tôi vẫn chưa dám mặc áo không dây đến văn phòng.
Sau ba tháng thì tôi đầu hàng. Mệt mỏi quá. Việc chọn lựa trang phục hằng ngày đã làm tôi kiệt quệ về thể xác lẫn linh hồn. Sáng nào cũng thế, một tay tôi cầm tách cà phê đứng trước tủ, tay kia lục trong đống quần áo ưa thích ngày xưa. Sao phải khổ thế? Tôi tự hỏi. Đơn giản khoát hàng hiệu lên người không nhất thiết có nghĩa là tôi bán rẻ linh hồn mình. Sau khi bị nghe những câu góp ý ngày càng cay nghiệt hơn về vẻ bề ngoài của mình, tôi tự hỏi là liệu mình có vì vậy mà mất việc như chơi. Tôi ngắm mình trong tấm gương cao đến đầu và bật cười: cô gái trong chiếc áo nịt Maidenform ( tôi!) và xi líp vải bông Jockey kia ( cũng là tôi! ) định bước chân vào làng Runway hay sao? Cho vào thùng rác được rồi. Chả gì thì tôi cũng làm việc ở Runway, tạp chí thời trang có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Chỉ ăn mặc sạch sẽ và đứng đắn thôi chưa đủ. Tôi gạt mấy thứ đồ ngán ngẩm sang một bên, lấy ra chiếc váy đen tuýt Prada, áo cổ lọ đen Prada và đôi bốt thấp cổ Prada mà James đưa hôm buổi tối ngồi đợi lấy SÁCH.
“Gì thế?” Tôi hỏi khi mở bao đựng quần áo.
“Đồ để chị mặc. Andy ạ, nếu chị không muốn bị mất việc,” anh mỉm cười nhưng tránh nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Sao cơ?”
“Thế này nhé. Tôi nghĩ là chị cũng biết rằng kiểu… kiểu ăn mặc của chị không hẳn giống mọi người ở đây. Tôi hiểu, chơi hàng hiệu là thú vui đắt đỏ, nhưng đã có cách. Tôi có rất lắm đồ trong kho quần áo, sẽ chẳng ai nhận ra là chị thỉnh thoảng … mượn vài thứ.” Anh lấy ngón tay ra hiệu cho chữ mượn vào ngoặc kép. “ Và đương nhiên là chị cũng nên gọi bên phòng quan hệ đại chúng để lấy thẻ giảm giá khi mua hàng hiệu. Tôi chỉ được giảm giá 30% thôi, nhưng chị làm việc cho Miranda nên tôi không tin là họ tính tiền với chị đâu. Chả có lý do gì để chị cố giữ phong cách… sinh viên của mình cả.”
Tôi không muốn phải giải thích là mang đồ Nine West thay cho Manolo hay quần bò trẻ con ở hiệu Macy’s chứ không mua ở tầng tám hiệu Barney sang trọng chính để chứng tỏ với mọi người xung quanh là tôi không bị lóa mắt bởi thế giới Runway. Ai xúi James làm việc này với tôi nhỉ? Emily? Hay chính Miranda? Nhưng ai giật dây cũng thế thôi. Nói cho cùng thì tôi đã sống sót qua ba tháng ở Runway, và nếu chiếc áo cổ lọ Prada chứ không phải đồ rẻ của Urban Outfitters giúp tôi vượt qua nốt chín tháng sắp tới thì cũng tốt thôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay chỉ mang đồ mới tử tế hơn.
6 giờ 50 tôi ra khỏi nhà và cực kỳ hài lòng với bộ cánh của mình. Mấy gã ở quầy bán quà sáng cạnh nhà huýt sáo theo, và chưa đi tiếp lấy mười bước chân nữa thì một cô gái nói với tôi là cô vẫn băn khoăn từ ba tháng nay trước quyết định mua chính đôi bốt của tôi. Mi sẽ thích tình trạng này, tôi nghĩ bụng. Nói cho cùng thì chẳng ai trần truồng đi làm cả, cũng phải mặc thứ gì đó lên người, và mang đồ này tôi cảm thấy cao cấp hơn hẳn những quần áo ngày xưa của mình. Đến góc phố tôi lên taxi, lần này không phải vì trường hợp khẩn cấp nữa mà thành thói quen. Trong xe ấm áp dễ chịu nhưng tôi quá mệt mỏi để có sức mà vui mừng khi không phải chen chúc lên tàu điện ngầm với những người đi làm khác. Tôi nói khản đặc: “ 640 Madison, nhanh lên nhé.” Người lái xe nhìn tôi trong gương hậu – tôi thề là với ánh mắt đồng cảm – và hỏi: “Tòa nhà Elias Clark, đúng không?” Anh nhấn ga. Xe lao vun vút lên phố 97, rẽ qua Lex, bay xuyên qua hàng đèn của phố 59 về hướng Tây đến Madison. Sau đúng sáu phút – giờ này xe cộ thưa thớt – taxi phanh kít trước khối bê tông cao vút mảnh mai mà những người làm trong đó có vẻ muốn ganh đua thân hình với nó. Giá taxi hôm nào cũng 6,40 dollar, tôi đưa lái xe tờ 10 dollar và nói: “ Cứ giữ chỗ tiền thừa.” Và cũng như mọi hôm, tôi vui mừng nhìn bộ mặt ngạc nhiên và vui mừng của anh ta. “ Runway cám ơn.”
Cũng là chuyện thường. Sau tuần đầu tiên ở Runway tôi đã nhận ra thanh toán công tác phí không phải là mặt mạnh của Elias Clark. Ngày nào cũng 10 dollar tiền taxi? Không sao cả. Các công ty khác ắt sẽ kiểm tra xem tôi có được phép đi taxi đến chỗ làm không. Ở Elias Clark người ta chỉ ngạc nhiên tại sao tôi sử dụng mấy cái taxi vớ vẩn mà không gọi xe của công ty đến đón. Mỗi ngày xơi của Runway 10 dollar làm tôi cực kỳ khoái chí, cho dù công ty coi đó như muỗi đốt sắt. Người khác có thể cho là một dạng phản kháng ngầm, tôi gọi việc này là tái phân chia thu nhập.
Sung sướng vì ít nhất cũng làm cho một người vui vẻ bắt đầu ngày làm việc, tôi nhảy khỏi xe và đi về hướng 640 Madison. Tòa nhà tuy tên là Elias Clark Building nhưng phân nửa diện tích cho JS Bergmann, nhà băng danh tiếng nhất thành phố, thuê. Tuy hai bên không chung chạ gì, ngay cả thang máy cũng tách riêng, nhưng không tránh khỏi các nhân viên nhà băng phong lưu và người đẹp của làng thời trang cắt đường nhau ở tiền sảnh và để mắt nhòm ngó nhau.
Tôi đang thầm chuẩn bị cuộc trạm trán hằng ngày với Eduardo thì một giọng mệt mỏi và chán nản từ sau lưng làm tôi bất ngờ: “ Ê, Andy! Khỏe không? Lâu ngày không gặp.” Tôi quay lại thấy Benjamin, một trong vô số bạn trai ngày xưa của Lily ở trường đại học. Anh ngả người đánh phịch bên cạnh cửa vào tòa nhà, thậm chí có vẻ không phiền lòng là mình đang ngồi bệt trên vỉa hè. Anh chỉ là một trong nhiều bạn trai của Lily, nhưng là người đầu tiên mà Lily mến thực sự và chân thành. Tôi không hề tiếp xúc với Benji ( anh rất ghét bị gọi như thế ) từ khi Lily bắt quả tang anh ta với hai cô gái đang nằm ườn trong phòng ký túc xá. Hai cô này cùng hát với Lily ở dàn đồng ca accapella, một giọng cao và một giọng trầm, sau đó không dám nhìn thẳng vào mắt Lily nữa. Tôi cố giải thích cho Lily là họ chỉ định đùa ác, nhưng cô không tin và khóc ti tỉ mấy ngày liền, sau đó bắt tôi hứa không được kể cho ai chuyện mà cô phát hiện ra. Tôi giữ lời, bù lại thì Benji rêu rao khắp nơi thành tích đã “ đóng đinh hai con bé xướng ca vô loài” trong khi “con bé thứ ba ngồi nhìn,” cứ như là Lily tự nguyện chiêm ngưỡng màn diễn của sư phụ. Sau vụ này Lily thề không bao giờ thèm yêu nữa, và cho đến nay có vẻ như cô vẫn trung thành với lời thề đó. Cô lôi nhiều chàng lên giường, nhưng cũng tống tiễn họ ra cửa sớm vì sợ nhỡ đâu lại sa vào mê lộ của tình yêu.
Tôi nhìn xuống anh, cố tìm lại Benji ngày xưa trên khuôn mặt này. Anh ấy là người thể thao và lanh lợi như trăm nghìn người khác. Nhưng công việc ở Bergmann đã vắt kiệt anh. Bộ com lê của anh nhàu nhĩ và rộng thùng thình, anh rít điếu Marlboro một cách thèm khát như bị ma túy vật. Mặc dù mới bảy giờ nhưng trông anh đã mệt rũ, vẻ ngoài tàn tạ ấy làm tôi thấy trong người phấn chấn hơn. Vì nó cũng là một dạng trả đũa cho sự điểu cáng của anh đối với Lily và tôi không phải là đứa ngu xuẩn duy nhất phải đi làm vào lúc nhọ mặt người này. Chắc anh ta được trả mỗi năm 150.000 dollar để xuống dốc thê thảm như vậy, nhưng kệ xác.
Benji vẫy tôi với điếu thuốc trong tay, ra hiệu gọi tôi lại, đầu thuốc vẽ một vòng sáng trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sớm mùa đông. Tôi ngập ngừng vì không muốn đến muộn, nhưng Eduardo đã phát tín hiệu “ không lo, bà ấy chưa đi làm đâu, cứ bình tĩnh” và tôi đi ra chỗ Benji. Trông anh lờ đờ và tuyệt vọng. Rõ ràng anh cho là anh có một ông sếp hà khắc. Nếu như anh biết mọi chuyện! Tôi suýt phá ra cười.
“Này, tôi nhận thấy hằng ngày chị là người duy nhất đến làm việc sớm như vậy,” anh lầm bầm nói trong khi tôi lục lọi túi xách tìm thỏi son môi trước khi đi tới thang máy. “Tại sao thế?”
Trông anh mệt mỏi và kiệt quệ làm lòng tôi trào lên chút thương cảm. Nhưng tôi cũng mệt chết đi được, và tôi nhớ lại vẻ mặt của Lily khi được một người trong số bạn thể thao của Benji hỏi là lúc xem mấy người kia làm tình có thích không hay cũng muốn tham gia, và chút thương cảm ấy cũng biến mất luôn.
“Tại sao à? Vì tôi làm việc cho một bà sếp có đòi hỏi rất khắc nghiệt nên phải đến sớm hơn tất cả mọi người ở tòa báo những hai tiếng rưỡi để chuẩn bị mọi việc,” tôi đáp với giọng đầy cay nghiệt.
“Thôi, tôi chỉ hỏi thôi mà, xin lỗi chị. Nhưng nghe có vẻ tệ quá, chị làm cho báo nào vậy?”
“Tôi làm cho Miranda Priestly,” tôi nói và cầu mong đừng thấy phản ứng gì. Tôi luôn thích thú khi gặp một người tương đối có đầu óc mà chẳng hề biết Miranda là ai cả, thích lắm. Cực kì thích là đằng khác. Và quả thật, lần này Benji không làm tôi thất vọng. Anh nhún vai, hít một hơi thuốc và nhìn tôi dò hỏi.
“Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway,” tôi hạ giọng và khoái trá kể tiếp, “ và là mụ già ghê gớm nhất mà tôi từng gặp. Trước đó tôi không tưởng tượng ra có loại người như thế, thậm chí không phải là người nữa.” Tôi chỉ muốn tuôn hết bài ca thán về bà ta cho Benji nghe, nhưng trước khi hăng hái vào cuộc thì cơ chế thụt vòi ở Runway đã lại thắng thế. Lập tức tôi luống cuống, thậm chí khiếp sợ rằng con người ngây ngô và lạnh nhạt kia biết đâu là tay sai của Miranda hay cây bút của một tờ lá cải kiểu Observer và Page Six đến săn tin. Tôi biết đó là chuyện ngớ ngẩn và vô lý, vì tôi quen Benji từ nhiều năm nay và tin chắc rằng anh ta không làm việc cho Miranda ở bất kỳ tư cách nào. Nhưng sao mà tuyệt đối yên tâm được? Có thể ai đó sau lưng trong mấy giây vừa rồi đã nghe thấy những lời độc địa của tôi thì sao? Phải bắt tay vào hạn chế thiệt hại ngay mới được.
“Tất nhiên, bà ấy LÀ người phụ nữ có quyền lực nhất trong giới thời trang và xuất bản, và không ai suốt ngày dịu dàng phân phát bánh kẹo mà leo lên được đỉnh cao của hai lĩnh vực chính yếu ấy của New York City. Vào địa vị bà ấy thì tôi cũng làm thế. Thôi nhé, tôi phải đi đây. Tạm biệt.” Thế là tôi biến luôn, hệt như khi nói chuyện với ai đó trong những tuần qua. Chỉ khi tán gẫu với Lily, Alex hay bố mẹ là tôi mới thoải mái chửi bới mụ phù thủy ấy.
“Đừng phiền muộn quá đáng như thế, Andy,” Benji gọi với theo khi tôi đi về phía thang máy. “Tôi ngồi từ sáng thứ Năm ở đây rồi cơ,” anh thả rơi mẫu thuốc xuống đất và hờ hững dí mũi giầy lên.
“Chào Eduardo,” tôi nói và nhìn ông với cặp mắt mệt mỏi cố toát ra cảm xúc. “Sao mà tôi ghét những ngày thứ Hai thế.”
“Kìa cục cưng, đừng bực bội thế. Ít nhất thì hôm nay chị cũng đến sớm hơn sếp,” ông mỉm cười. Ông ám chỉ những buổi sớm chết tiệt mà Miranda xuất hiện từ năm giờ sáng và đòi có bảo vệ đưa lên tầng vì bà không bao giờ chịu đem thẻ thông hành theo người. Rồi bà lồng lộn đi lại trong văn phòng và nhấc điện thoại, liên tục tấn công tôi và Emily cho đến khi một trong hai chúng tôi vùng dậy mặc quần áo và phi đến chỗ làm việc, cứ như là vừa ban bố tình trạng khẩn cấp toàn quốc.
Tôi ấn vào cửa xoay, hy vọng vào ngày thứ Hai này được ông ta cho qua mà không cần rút thẻ. Nhầm to.
“Yo, tell me what you want, what you really, really want,” ông hát với nụ cười toe toét và pha khẩu ngữ Tây Ban Nha. Thế là tiêu tan mọi niềm vui của tôi từng làm người lái taxi sung sướng và đến văn phòng sớm hơn Miranda. Như mọi hôm, tôi điên tiết đứng trước cửa xoay và chỉ muốn vặn cổ Eduardo. Nhưng vì tôi là người dễ tính và Eduardo thuộc vào nhúm bạn bè ít ỏi trong tòa nhà này nên tôi cắn răng phục tùng số phận: “I’ll tell you what I want, what I really, really want, I wanna - I wanna - I wanna - I wanna – I really, really wanna zigga zig aaaaahhhh,” tôi ngoan ngoãn tỏ lòng kính trọng với ca khúc đỉnh của Spice Girls hồi thập kỷ 90. Và Eduardo ngoác miệng cười, ấn nút cho tôi qua.
“Nhớ ngày mười sáu tháng Bảy đấy,” ông gọi theo.
“Tôi biết rồi, mười sáu tháng Bảy...” tôi đáp lại, nhớ rằng đó là hôm chúng tôi cùng có sinh nhật. Không rõ bằng cách nào mà ông ta biết ngày sinh của tôi trùng với ông. Vì lý do nào đó, chuyện này trở thành một phần trong nghi lễ hàng ngày của riêng chúng tôi, thật ngớ ngẩn.
Tòa nhà phía công ty Elias Clark có tám thang máy, một nửa cho các tầng từ một đến mười bảy, nửa kia cho các tầng trên. Thật ra chỉ có bốn thang máy đầu tiên là quan trọng vì ban biên tập của các tạp chí danh tiếng nhất đều ở mười bảy tầng dưới. Trên các cửa thang máy có biển lớn sáng đèn, chỉ rõ địa chỉ từng văn phòng. Ở tầng hai là một phòng tập thể hình cực hiện đại cho nhân viên sử dụng miễn phí, trong đó có đủ kỹ thuật tối tân như máy luyện cơ chống đau lưng, tối thiểu một trăm máy tập leo thang, băng chạy và máy đạp xe. Chưa kể đến phòng tắm khô, bồn tắm kiểu Nhật, xông hơi, bên cạnh khu vực thay quần áo là phòng chăm sóc sắc đẹp, khi cần có thể chăm sóc móng tay móng chân hay đắp mặt nạ. Thậm chí người sử dụng không cần đem khăn riêng theo, nhưng đó là tôi nghe kể lại mà thôi – không chỉ vì tôi chẳng có thì giờ, mà còn vì từ sáu giờ sáng đến mười giờ tối ở đây chật cứng, không có chỗ đặt chân. Bất kể người viết bài, biên tập viên hay trợ lý kinh doanh đều phải gọi điện trước ba ngày để đặt chỗ ở lớp Yoga hay tập võ, nhưng vẫn có nguy cơ bị mất chỗ nếu không đến sớm mười lăm phút trước giờ vào lớp. Như hầu hết mọi lời mời nhằm cải thiện cuộc sống của nhân viên Elias Clark, tôi thấy tập luyện ở đây chỉ gây thêm stress.
Tôi cũng nghe phong phanh là ở tầng trệt có nhà gửi trẻ, nhưng tôi chẳng quen ai có con cả nên chưa biết thông tin đó có chính xác không. Tầng ba mới thực sự đáng chú ý với phòng căng tin. Miranda không đặt chân tới đó bao giờ, trừ những lần hẹn ăn trưa với Irv Ravitz, chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark – ông thích ra vẻ thân mật dùng bữa cùng với nhân viên của mình.
Thang máy lên cao, cao nữa, lướt qua các danh vị khả kính. Hầu hết trong số họ dùng chung tầng, nhưng khu lễ tân thì tách riêng hẳn. Tôi ra khỏi thang máy trên tầng mười bảy, liếc nhìn bóng mình phản chiếu trong kính. Ở 640 Midison các kiến trúc sư nhạy cảm và thiên tài đã bỏ hẳn giương trong thang máy! Lại lần nữa tôi quên cái thẻ thông hành – vốn sinh ra để theo dõi mọi chuyển động, mua bán và hiện diện của chúng tôi trong tòa nhà – nên chỉ còn cách đột nhập vào văn phòng thôi. Sophy thì chín giờ mới đến, tôi phải tự lực vậy. Tôi luồn xuống dưới mặt quầy, ấn nút mở cửa và lấy đà lao qua khe cửa trước khi tấm kính tự đóng lại. Nhiều hôm tôi cần đến ba, bốn lần thử mới qua được cửa, hôm nay hai lần là đủ.
Như mọi hôm, tôi đi qua hành lang giờ này còn tối om đến phòng mình. Bên trái là ban quảng cáo, nơi các nữ nhân viên ưa diện T-shirt hiệu Chloé và bốt cao gót chạy đi chạy lại phân phát danh thiếp in chữ “Runway” to tướng. Họ sống và làm việc trong một thế giới riêng, chẳng dính dáng gì đến nửa bên kia hành lang dành cho bộ phận biên tập. Ban biên tập lựa ra mẫu quần áo cho các trang mốt, tìm cách lôi kéo các cây bút giỏi, thống nhất phụ kiện với trang phục, sửa bài, trang trí đồ họa và mời thợ nhiếp ảnh. Biên tập viên đến mọi ngóc ngách đẹp nhất thế giới để bố trí chụp hình, được các nhà tạo mốt dúi cho đủ quà tặng và phiếu giảm giá, bám sát các xu hướng thời trang cũng như mọi sự kiện quan trọng, vì họ “phải điều tra xem ai mặc gì”.
Bộ phận kinh doanh quảng cáo có nhiệm vụ bán diện tích đăng quảng cáo. Đôi khi họ tổ chức lễ hội, nhưng do chưa có nhân vật danh tiếng nào xuất hiện ở đó nên chẳng dân New York có máu mặt nào (như Emily cay độc tiết lộ cho tôi biết) thèm đến. Tôi chỉ biết đến các buổi tiệc ấy khi người ngoài kể lại, khi điện thoại réo chuông suốt ngày vì những nhân vật tầm tầm hy vọng tôi kiếm hộ giấy mời. “Nghe nói Runway tổ chức tiệc, sao tôi không có giấy mời nhỉ?” Các biên tập viên không khi nào có giấy mời, vì đằng nào thì chúng tôi cũng không đến. Lũ đàn bà ở Runway chuyên khinh miệt, khủng bố và kỳ thị người ngoài, nhưng vẫn chưa đủ, họ còn tự dựng những rào cản giữa các thứ bậc nội bộ.
Sau bộ phận kinh doanh quảng cáo là một hành lang hẹp, dài hun hút, dẫn đến một phòng bếp nhỏ xíu. Ở đây có đủ loại trà, cà phê, thậm chí cả một tủ lạnh cho những người đem bữa trưa từ nhà đến. Dịch vụ này lẽ ra là thừa, từ khi Starbucks độc quyền cung cấp cà phê hằng ngày, các bữa ăn được cẩn thận lấy từ căng tin hay từ hàng nghìn dịch vụ cơm hộp trong thành phố. Nhưng căn bếp có gì đó dễ thương, dường như Elias Clark muốn nói: “ Xem này, chúng tôi lo mọi bề cho nhân viên! Ở đây có trà Lipton, đường ăn kiêng, cả lò vi sóng để hâm món để lại từ đêm qua! Chúng ta là người nhà cả mà!”
Đúng 7 giờ 05 thì tôi cũng vào đến ốc đảo của Miranda, mệt không lê nổi bước nữa. Công việc đầu tiên hằng ngày là mở khóa phòng Miranda. Tôi nhìn ra ngoài trời còn tối, ngắm ánh điện của New York City và thấy mình như đang trong một cuốn phim (có các cặp tình nhân ôm nhau trên sân thượng bao la của căn hộ sáu triệu dollar với tầm nhìn ra sông), trên đỉnh cao thế giới, để khi ấn nút bật hết đèn lên thì giấc mơ ngày của tôi cũng chấm dứt cùng với cảm giác thăng hoa trong thành phố New York của mọi khả năng vô tận, thay vào đó là ảnh khuôn mặt cười giống nhau như đúc của cặp song sinh Caroline và Cassidy.
Tiếp theo là mở khóa tủ tường ngoài sảnh, nơi tôi treo chiếc măng tô thú của Miranda (hoặc măng tô của tôi, nếu hôm đó bà không tình cờ mặc lông thú. Miranda không ưa để áo của bà treo bên cạnh áo len mạt hạng của Emily hay của tôi) và cất giữ vô số các đồ khác: măng tô và quần áo bị loại bỏ có giá trị hàng chục nghìn dollar, đồ giặt là để đưa đến nhà Miranda, tối thiểu 300 chiếc khăn trắng Hermès khét tiếng. Emily cho biết là cô đã quyết định mua hết loại khăn này mà hồi đó có thể tìm được. Cô giải thích rằng nhờ vậy Miranda không bao giờ thiếu khăn và chúng tôi sẽ tránh được tình cảnh hốt hoảng đi mua sắm khi cần. Với cách suy luận đơn giản đó, cô mua hết 500 chiếc khăn tại toàn bộ thị trường Mỹ và Pháp. Tôi còn chưa kể với ai là đã mở một bức thư của ban lãnh đạo công ty Hermès từ Paris gửi đến cho “Madame Priestly,” họ lải nhải dài dòng về niềm hân hạnh được Miranda chọn dùng khăn quàng của mình, rằng bà đã tôn vinh mác Hermès nhiều hơn bà tưởng, và họ vô cùng áy náy khi không còn sự lựa chọn nào khác là phải dùng mẫu hàng hơi khác mẫu mà bà vẫn ưa dùng. Trong phong bì có nửa tá mẫu lụa trắng kèm với mẫu Miranda vẫn thích xưa nay – một nghĩa cử xoa dịu nỗi bực dọc của Miranda trong giai đoạn khó khăn này. Tôi săm soi đến hai mươi phút mà không nhận ra sự khác biệt nào giữa các mẫu vải, nhưng tôi biết, Miranda liếc qua là nhận ra ngay. Đương nhiên là bức thư và mẫu vải vẫn nằm dưới đống giấy tờ vô thưởng vô phạt trong ngăn bàn tôi, thực sự tôi không biết làm gì khi chỗ khăn dự trữ bị dùng hết.
Miranda vứt khăn khắp nơi: ở nhà hàng, rạp phim, nơi trình diễn thời trang, phòng họp hay trên taxi. Bà bỏ quên chúng trên máy bay, ở trường của lũ trẻ hay sân tennis. Tất nhiên không bao giờ bà ra khỏi nhà mà lại thiếu chiếc khăn Hermès sang trọng, điều đó không có nghĩa là bà biết chúng biến đâu mất. Hay là bà sử dụng chúng như khăn giấy? Nhất định bà cho rằng đây là sản phẩm dùng một lần rồi vứt đi, và không ai dám cải chính! Elias Clark trả hàng trăm dollar cho mỗi chiếc khăn, còn Miranda tiêu thụ chúng nhanh như khăn giấy. Nếu bà còn tiếp tục như thế thì hai năm nữa là chẳng còn lấy một chiếc mà dùng.
Trong tủ tường vẫn còn nhiều hộp bìa cứng màu da cam. Cứ ba, bốn hôm một lần, khi đi ăn là Miranda lại gọi: “Aaa-dree-aa, tôi cần khăn mới.” Niềm an ủi lớn của tôi là khi chỗ khăn này đã hết sạch thì tôi cũng đã biến khỏi đây từ lâu rồi. Người kế nhiệm mà tôi chưa biết sẽ là kẻ bất hạnh phải thông báo cho Miranda biết rằng không còn khăn quàng Hermès trắng nữa. Chỉ nghĩ đến đã thấy khiếp.
Tôi chuẩn bị xong mọi thứ thì Yuri gọi điện.
“Andrea? A lô, a lô. Yuri đây. Chị xuống tầng trệt được không? Tôi đang ở phố 58 gần Park Avenue, trước New York Sports Club.”
Cho dù không chắc chắn tuyệt đối, cuộc gọi là một thông báo hữu hiệu rằng Miranda sắp đến nơi rồi. Có thể thế. Phần nhiều bà cho Yuri đến trước để đưa đồ giặt, báo, các bài viết bà đã biên tập ở nhà, giày và túi đem đi sửa, và cuốn SÁCH. Tôi khuân đống đồ ấy lên gác và làm mọi việc cần thiết để bà không bị quấy rầy bởi mấy chuyện vặt vãnh. Bình thường thì bà đến sau đó khoảng nửa giờ. Yuri giao đồ cho tôi rồi quay lại ngay để đón bà.
Không rõ Yuri đón bà ở đâu, vì như Emily kể thì bà không ngủ bao giờ. Thoạt tiên tôi không tin, cho đến một hôm tôi đi làm trước Emily và phải nghe các tin nhắn trong hộp thoại. Mỗi đêm, không hề có ngoại lệ, từ một đến sáu giờ sáng Miranda gửi cho chúng tôi tám đến mười tin nhắn khá mập mờ, đại loại như: “Cassidy thích một cái túi nylon như bọn con gái bây giờ hay dùng. Chị đặt mua một cái cỡ trung bình, màu mà nó vẫn thích,” hay: “Tôi cần số điện và địa chỉ của cửa hàng đồ cổ ở giữa phố 70 và phố 80 có cái tủ cánh cong mà tôi đã thấy.” Cứ làm như chúng tôi đương nhiên phải biết trẻ con mười tuổi dạo này thích mốt túi nylon nào, hoặc cửa hàng nào trong số hàng trăm cửa hàng đồ cổ có thứ hàng nào đó mà bà đã nhìn thấy. Tuy nhiên sáng nào tôi cũng ngoan ngoãn chép lại các tin nhắn từ băng ghi âm – một việc không đơn giản, vì tôi phải tua đi tua lại đoạn băng hàng chục lần mới hiểu được giọng Anh của bà cũng như tinh thần của các mệnh lệnh mà không phải trực tiếp hỏi lại cho rõ.
Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị Emily gọi Miranda hỏi lại, và hình phạt là tia nhìn giết người của cô. Trực tiếp hỏi Miranda cho rõ chuyện là một việc không tưởng. Tốt nhất là cứ lọ mọ làm tiếp và sau đó nghe chửi vì lại hiểu sai lệnh. Tôi mất hai ngày rưỡi đi tìm cái tủ đồ cổ cánh cong mà Miranda thích, bắt xe chở đi vòng quanh Manhattan và chạy dọc hai chiều công viên. Bỏ qua đại lộ York (toàn nhà ở) lên phố 1, xuống phố 2, lên phố 3, xuống Lex. Bỏ qua Park (cũng toàn nhà ở) nhưng vẫn lên Madison rồi lặp lại từ đầu bên West Side. Trong tay bút giấy lăm lăm, mắt như cú vọ, sổ điện thoại mở sẵn trên đùi và sẵn sàng lao ra khi thấy một cửa hàng bán đồ cổ. Tôi đích thân vào từng cửa hàng kể cả nhiều hiệu bán đồ mới. Tới hiệu thứ tư thì tôi đã tìm ra kỹ thuật hỏi.
“Xin chào, ở đây có tủ cánh cong cổ không ạ?” Vừa qua cửa là tôi đã réo lên. Tới cửa hàng thứ sáu, tôi dừng chân ngoài cửa. Một con bé bán hàng nhìn tôi từ đầu xuống chân – chuyện dễ hiểu! – ước lượng xem có bõ công trả lời tôi không. Sau đó thì đa số cũng nhìn thấy chiếc Limousine đợi tôi ngoài đường và miễn cưỡng đáp “có” hay “không”. Vài người khác còn bắt tôi miêu tả chi tiết loại tủ muốn tìm.
Nếu họ có đồ gỗ đúng như tôi hỏi bằng hai từ (tủ + cổ) tôi tiếp ngay: “Miranda Priestly hôm nọ mới vào đây phải không ạ?” Ai trước đó chưa đoán là tôi dở hơi thì bây giờ cũng chuẩn bị gọi cảnh sát. Nhiều người chưa nghe tên ấy bao giờ, tôi càng vui vì hai lẽ: thứ nhất là tôi được gặp những người bình thường, cuộc đời họ không bị Miranda chế ngự, sau nữa là tôi có thể đi ngay mà không phải tranh luận dài dòng. Những người ngô nghê có biết tên Miranda thì dỏng ngay tai lên. Nhiều khi họ muốn biết tôi là phóng viên cho tờ lá cải nào. Dù cho tôi bịa ra chuyện gì thì cũng chẳng ai thấy mặt bà ở cửa hàng của họ (trừ ba cửa hàng đã không thấy mặt bà từ vài tháng rồi, ôi, sao lâu quá chưa thấy đến lại! Xin chuyển lời chào nồng nhiệt của Franck/Charlotte/Sarabeth nhé!)
Sau khi hoài công đi tìm, trưa ngày thứ ba Emily bật đèn xanh cho phép tôi đến văn phòng hỏi Miranda lần nữa. Xe đỗ trước tòa nhà là tôi đã túa mồ hôi, và khi Eduardo không mở ngay cửa xoay thì tôi dọa sẽ trèo qua. Tôi lên tầng, áo ướt đẫm, tay run rẩy khi vào đến văn phòng, lúng túng quên tiệt những câu đã sắp sẵn trong óc để trình bày (Chào Miranda, tôi khỏe, xin cám ơn. Bà có khỏe không? Vâng, tôi muốn trình bày là tôi đã vất vả đi tìm cửa hàng đồ cổ như bà nói nhưng không gặp may. Bà có thể cho biết là nó bên Tây hay Đông Manhattan được không ạ? Hay bà nói lại lần nữa tên cửa hàng là gì ạ?). Thay vì viết ra giấy các câu hỏi và đem nộp như thường lệ, tôi xin gặp bà trực tiếp ở bàn giấy, và – có lẽ bị bất ngờ vì tôi không được hỏi mà vẫn lên tiếng – bà đồng ý cho gặp. Phần cuối tôi tóm gọn lại như sau: Miranda thở dài và chặc lưỡi và chán nản một cách lịch thiệp rất riêng của bà, rốt cuộc bà mở cuốn sổ da Hermès màu đen ghi kế hoạch (buộc bằng chiếc khăn Hermès trắng một cách bất tiện nhưng rất đẹp) và lấy ra… tấm danh thiếp của cửa hàng.
“Aan-dree-aa, tôi đã đọc địa chỉ cửa hàng cho chị vào băng rồi mà. Tôi nghĩ là khó khăn gì mà chị không chép lại chứ?” Tôi ước gì được vớ lấy tấm thiếp và quật lên mặt bà ta, song chỉ lẳng lặng gật đầu nghe lời trách cứ. Khi nhìn thấy địa chỉ trên thiếp, thiếu chút nữa thì tôi phát điên: 244 phố 68! Thảo nào tôi không tìm ra. Tôi mất toi ba mươi ba tiếng đồng hồ đi tìm cửa hàng ở một khu phố khác hẳn!
Tôi cứ nghĩ đến chuyện này trong khi chép lại những tin nhắn đêm qua của bà. Sau đó tôi vội xuống tầng trệt để nhận đồ ở chỗ hẹn với Yuri. Mỗi sáng ông báo chính xác địa điểm đỗ xe, nhưng tôi có nhanh chân đến mấy thì khi xuống đến nơi Yuri cũng đã lấy hết đồ khỏi xe và khuân vào nhà để tôi đỡ mất công tìm ông lâu. Hôm nay cũng thế. Ông đã đứng đợi tôi như một người ông hiền từ ở tiền sảnh trước cửa xoay, tay ôm đầy túi nylon, quần áo và sách báo.
“Đừng chạy nhanh thế, nghe chưa,” ông nói đặc giọng Nga. “Suốt ngày tôi thấy chị chạy và chạy và chạy, chị vất vả quá đấy. Vì vậy tôi đem đồ tận tay cho chị,” ông giúp tôi chất hết các túi và hộp lên tay. “Chị là một cô bé ngoan, nghe chưa. Chúc chị một ngày tốt lành.”
Tôi nhìn ông đầy hàm ơn, ngó qua Eduardo với tia mắt nửa đùa nửa thật báo hiệu tôi sẽ bóp cổ ông nếu ông lại định bắt tôi diễn trò như mọi hôm, và bằng lòng thấy Eduardo nhấn nút cho tôi qua cửa xoay mà không nói một lời nào. Lạ lùng là tôi nhớ đảo qua quầy Ahmed để nhận báo. Mặc dù phòng báo chí cứ chín giờ sáng là chuyển báo cho Miranda, tôi vẫn phải lấy thêm một tập để bảo đảm cho bà không phải ngồi ở bàn lấy một giây thiếu báo đọc. Các tuần san cũng thế. Dường như không ai ngạc nhiên khi chúng tôi mua mỗi ngày chín tờ nhật báo và mỗi tuần bảy tạp chí cho bà sếp vốn chỉ quan tâm tới cột buôn chuyện và thời trang.
Trước hết tôi đẩy tất cả xuống gầm bàn, vì đã đến giờ đặt hàng rồi. Tôi quay số đã thuộc lòng của cửa hàng điểm tâm cao cấp Mangia ở trung tâm. Như mọi khi, Jorge nhấc máy.
“ Chào ông anh, em đây,” tôi kẹp ống nghe dưới cằm để rảnh tay kiểm tra e-mail. “ Ta bắt đầu nào.” Jorge và tôi rất thân nhau. Sáng nào cũng gọi điện cho nhau bốn, năm lần thì người ta dễ thành bạn.
“ Chào bé con. Anh cho một cậu đến ngay chỗ cô đây. Bà ấy đến chưa?” Anh hỏi. Dù biết “ bà ấy” là bà sếp điên dở của tôi và làm ở Runway, nhưng chắc anh không rõ người sắp dùng đồ ăn sáng mà tôi vừa đặt là người như thế nào. Jorge là một trong những người mà tôi ưa gọi điện buổi sáng. Eduardo, Juri, Jorge và Ahmed đảm bảo cho ngày làm việc khởi đầu tử tế. Điểm hay nhất ở họ là thật ra họ chẳng liên quan gì tới Runway, dù là sự tồn tại của họ có vẻ như chỉ xoay quanh việc kiến tạo cuộc sống hoàn hảo cho bà sếp của tôi. Không ai trong họ mảy may biết gì về quyền lực và danh tiếng của Miranda.
Gói quà sáng đầu tiên chỉ mấy giây sau là lên đường tới 640 Madison, song chắc cũng bị ném vào thùng rác ngay. Mỗi sáng Miranda dùng bốn lát ba chỉ dày mỡ, hai xúc xích nhỏ, pho mát, và cho tất cả xuống dạ dày theo một cốc cà phê sữa to đùng của Starbucks ( nhớ thêm hai viên đường mía!) Ở văn phòng, mọi người tranh cãi nhau về chuyện này. Người thì bảo Miranda luôn theo chế độ ăn kiêng kiểu Atkins, người khác cho rằng bà là người hạnh phúc vì bộ gene trao đổi chất siêu việt. Dù thế nào thì bà cũng không tăng lấy một gam trong khi ăn những đồ nhiều mỡ nhất, nhiều đường nhất, bổ béo nhất thế giới – một tội lỗi mà không người bình thường nào dám phạm. Vì quà sáng chỉ giữ nóng tối đa được mười phút, tôi liên tục đặt mới cho đến khi bà có mặt, đồ cũ cho vào thùng rác. Đã có lần tôi làm nóng lại trong lò vi sóng, chỉ mất có năm phút thôi ( nhưng đã bị gọi: Aan-dree-aa, tởm quá. Chị lấy cho tôi đồ tươi đi.”) Cứ khoảng hai mươi phút là tôi lại đặt đồ mới, cho đến khi bà gọi từ điện thoại di động sai tôi đặt đồ ăn sáng (Aan-dree-aa, tôi sắp đến văn phòng. Gọi quà sáng đi.”)
Điện thoại đổ chuông. Giờ này chỉ có thể của Miranda.
“ Văn phòng Miranda Priestly đây”, tôi ríu rít, không mong đợi gì tốt lành.
“ Emily, mười phút nữa tôi đến nơi, chị nhớ làm quà sáng sẵn sàng.”
Bà đã quen gọi cả hai chúng tôi cùng là Emily, qua đó cho thấy – hoàn toàn có lý – hai người chẳng khác nhau điểm nào và hoàn toàn có thể tráo cho nhau được. Tôi thấy khá bị xúc phạm, tuy đến hôm nay cũng đã quen dần. Thêm nữa là cũng quá mệt mỏi để thực sự bực mình vì mấy trò vặt vãnh như bị gọi sai tên.
“ Vâng, Miranda, xong ngay.” Nhưng bà đã chấm dứt. Emily chính cống bước vào văn phòng.
“Ê, Miranda đến chưa?” Cô thì thào.Như mọi khi, cô len lén ngó về phía cửa phòng Miranda và không thèm phí một câu chào, giống hệt sếp.
“ Không, nhưng vừa gọi điện báo là mười phút nữa đến nơi. Tôi quay về ngay.”
Tôi đút điện thoại và bao thuốc vào túi áo khoác và lao ra ngoài. Mười phút, không hơn không kém, tôi có đúng chừng ấy thời gian để xuống tầng dưới, chạy qua quảng trường Madison đi mua cà phê rồi quay lại bàn giấy – dọc đường còn kịp rít điếu thuốc ngon lành đầu tiên trong ngày. Di tắt mẩu thuốc, tôi luôn vào hiệu Starbucks góc phố 57 vá Lex. Tôi ngắm hàng người mua: nếu không nhiều hơn tám người thì tôi xếp hàng như một khách hàng bình thường. Nhưng hầu như hôm nào cũng như hôm nay, có đến hai chục người lao động tội nghiệp hoặc nhiều hơn đang xếp hàng đợi liều cafein đẳt đỏ, và tôi phải chen hàng. Chẳng hay ho gì trò này, nhưng hình như Miranda không chịu hiểu là người ta không chỉ từ chối đưa cà phê sữa của bà đến tận nơi mà lúc đông người tôi mất đến nửa tiếng mới đến lượt. Mấy tuần liền tôi bị bà hành hạ qua điện thoại di động ( Aan-dree-aa, tôi không thể hiểu được. Tôi gọi chị trước hai mươi lăm phút là tôi sắp đến, thế mà quà sáng vẫn chưa xong. Không thể chấp nhận được.”) Tôi xin gặp cô chủ cửa hàng.
“ Chào bà, cám ơn chị có vài phút tiếp chuyện,” tôi nói với người phụ nữ da đen nhỏ nhắn. “ Tôi biết là chuyện này nghe hơi kỳ quái, tôi chỉ muốn hỏi chị, liệu có cách nào đó để tôi được phục vụ nhanh hơn một chút không?” Tôi lấy hơi để giải thích rằng tôi làm việc cho một bà sếp quan trọng và cứng đầu, không chấp nhận phải đợi cốc cà phê sáng. May quá. Cô chủ hiệu Marion đang học thêm buổi tối ở lớp tạo mốt.
“ Trời ạ, tôi không nghe nhầm chứ? Chị làm việc cho Miranda Priestly? Và bà ấy dùng cà phê sữa của hiệu tôi? Cốc lớn? Sáng nào cũng thế? Thế mà tôi không biết. Vâng, vâng, tất nhiên rồi. Được ngay thôi. Tôi sẽ nói với nhân viên là chị luôn luôn được phục vụ đầu tiên. Chị không phải bận tâm gì cả. Bà ấy là nhân vật số một trong giới thời trang đấy,” Marion hăng hái nói, và tôi cũng cảm ơn nồng nhiệt.
Và thế là tôi được thản nhiên lướt qua mặt những người New York mệt mỏi, cáu kỉnh và tự mãn đang rồng rắn xếp hàng từ lâu. Tôi chẳng vui thú hay kiêu hãnh gì, thậm chí còn ghét mỗi khi phải làm trò này, nhất là những hôm hàng dài đằng đặc như hôm nay. Để chuộc lỗi, tôi không đặt một cốc mà mua cả khay bưng ra. Mạch đập thình thịch, mắt cay; tôi cố quên đây là cuộc đời mình sau mấy năm trời học văn thơ và tốt nghiệp điểm cao. Thay vào đó là đi đặt cốc cà phê sữa lớn cho Miranda cộng thêm vài cốc cho mình. Tôi đặt một cốc Grande Amaretto Cappuccino, một Mocha Frappuccino và một Caramel Macchiato lên khay, lấy thêm nửa tá bánh flan và bánh sừng bò, tổng cộng tốn hết 28,83 dollar. Tôi cho hóc đơn vào ngăn riêng trong cái ví chật cứng để thanh toán với Elias Clark mà chưa bao giờ bị hỏi han lâu la.
Bây giờ phải rảo cẳng lên, vì từ lúc Miranda gọi điện đến giờ đã hai mươi phút trôi qua. Chắc chắn Miranda đã ngồi đó và bực dọc tự hỏi, sáng nào tôi cũng biến đi đâu lâu thế ( logo của Starbucks trên cốc lẽ ra đã đưa lại cho bà câu trả lời). Nhưng trước khi tôi kịp bưng các thứ lên thì đã có chuông điện thoại. Tim tôi đập rộn, lần nào cũng thế. Tôi biết nhất định đó là Miranda. Rõ quá, nhưng tôi vẫn hoảng. Số máy hiện ra khắng định phỏng đoán của tôi, nhưng tôi ngạc nhiên nghe giọng Emily – cô gọi từ máy của Miranda.
“ Sếp đến rồi, đang điên tiết,” cô thì thầm. “ Chị chạy đi đâu thế?”
“ Tôi không nhanh hơn được,” tôi càu nhàu, cố bưng khay cho cân, một tay giữ túi bánh, tay kia cầm điện thoại.
Tôi và Emily giờ đây được nối bằng sự phản cảm mãnh liệt. Từ khi cô lên chức trợ lý trưởng thì chủ yếu tôi làm trợ lý riêng cho Miranda. Tôi gọi đồ ăn thức uống, giúp hai cô bé làm bài về nhà , sục sạo khắp thành phố để kiếm loại bát đĩa thích hợp cho bà tổ chức mời khách ăn tiệc. Emily lo tính toán chi tiêu, đặt vé máy bay, vài tháng một lần đặt mua áo quần mới cho Miranda – nhiệm vụ lớn nhất. Buổi sáng, khi tôi ra ngoài chạy việc thì một mình Emily phải canh văn phòng, bắt điện thoại và sẵn sàng phục vụ Miranda mọi bề. Tôi ghen ghét với Emily được mặc áo không tay trong văn phòng, vì chị không phải rời phòng ấm áp mỗi ngày sáu lần để chạy khắp New York lạnh như cắt ruột. Chị ghen ghét với tôi được rời khỏi văn phòng và luôn lợi dụng được vài phút để gọi điện nói chuyện riêng hay hút thuốc.
Thông thường thì đường về văn phòng lâu hơn đường đến Starbucks, vì tôi còn phải đi phân phát cà phê và bánh. Tôi đem cho một nhóm người vô gia cư, mấy người mà tôi đã quen mặt ở phố 57. Họ ngồi vất vưởng trên các bậc thang, ngủ trong lối đi vào nhà và trốn tránh nỗ lực của thành phố muốn dọn họ đi. Cảnh sát hay đi lùng vào sáng sớm, khi chưa có nhiều người ngoài phố, nhưng lúc tôi đi mua cà phê lần đầu thì họ vẫn còn đấy. Thật phấn chấn và thích thú khi thấy món cà phê đắt lòi mắt do Elias Clark tài trợ được đem đến cho những người bị thành phố hắt hủi nhất.
Người đàn ông hôi mùi nước tiểu ngủ trước nhà băng Chase ngày nào cũng được uống Mocha Frappuccino. Ông không bao giờ thức giấc khi tôi đặt cốc xuống cùi tay ông ( có ống thuốc! tất nhiên!) nhưng mấy tiếng sau, khi tôi đi mua cà phê lần nữa thì cà phê biến mất – cùng với ông già.
Cốc Caramel Macchiato dành cho bà già có xe mua hàng và tấm biển KHÔNG NHÀ/ TÌM VIỆC/ ĐÓI. Sau này tôi biết tên bà là Theresa, mới đầu tôi hay bưng cho bà một cốc lớn cà phê sữa như của Miranda. Bà luôn cảm ơn, nhưng không bao giờ uống một ngụm khi cà phê còn nóng. Một hôm tôi hỏi, liệu có phải bà không thích cà phê. Bà lắc đầu quầy quậy và móm mém nói là bà đâu có tính kén chọn, nhưng cà phê đặc quá và bà ưa uống ngọt hơn. Hôm sau tôi đem cho bà có vị vani và kem béo. Như thế đúng hơn? Vâng, ngon hơn nhiều, nhưng lần này có lẽ hơi bị ngọt quá. Hôm sau nữa thì tôi gãi đúng chỗ ngứa: không pha thêm vị gì, chỉ thêm một chút kem béo và si rô mạch nha. Theresa cười, miệng gần rụng hết răng, từ hôm đó uống hết ngay khi tôi đem cà phê đến.
Cốc thứ ba cho Rio, người Nigeria, anh ngồi trên tấm chăn và bán CD. Có vẻ như anh không phải vô gia cư, nhưng một lần tôi đem khẩu phần hằng ngày cho Theresa thì anh đi tới và hỏi, hay đúng hơn là hát: “ Chị là cô tiên của Starbucks à? Phần tôi đâu?” Hôm sau tôi biếu anh một cốc Caramel Macchiato và từ đó chúng tôi thành bạn.
Mỗi ngày tôi chi lạm 24 dollar tiền cà phê ( cà phê sữa cho Miranda chỉ có giá hơn bốn dollar), thêm một cú đá ngầm của riêng tôi vào công ty, vì tôi đem đồ ăn thức uống cho những kẻ bẩn thỉu, hôi hám và điên dở - chứ không phải vứt tiền của Miranda đi theo nghĩa đen.
Tôi vào đến tiền sảnh khi Pedro, người Mexico giao hàng của Mangia, đang tán gẫu với Eduardo trước dãy thang máy.
“ Xin chào, cô bé yêu của chúng ta đến kìa,” anh nói, mấy con bé tọc mạch ngoái cổ lại nhìn. “ Mọi thứ đây, như mọi khi, ba chỉ, xúc xích và món pho mát kinh dị. Hôm nay chị chỉ gọi có một lần. Đồ ăn chị cho đi đâu hết, trông chị gầy thế kia,” anh cười. Gầy! Tôi mà gầy? Anh chàng này chẳng biết gì. Pedro biết rõ là đồ ăn không phải mua cho tôi. Nhưng cũng giống như mọi người tôi gặp trước tám giờ, anh không biết các chi tiết. Tôi ấn vào tay anh tờ 10 dollar cho gói quà sáng giá 3.99 và đi lên tầng.
Miranda đang gọi điện khi tôi vào phòng. Chiếc áo khoác Gucci bằng da rắn của bà nằm vắt ngang bàn tôi. Máu tôi dồn lên mặt. Mất gì mà bà không đi thêm hai bước, mở tủ tường và treo áo mình vào đó, thay vì quẳng nó lên bàn tôi? Tôi đặt cốc cà phê xuống, ngó qua Emily đang đồng thời bận bịu với ba máy điện thoại rồi đem chiếc áo da rắn đi treo. Chiếc măng tô của tôi thì đút xuống gầm bàn, vì tôi không muốn nó treo trong tủ làm nhiễm trùng áo sếp.
Tôi lấy hai viên đường mía, thìa và khăn ăn từ ngăn kéo ra và phải rất cố kiềm chế mình để khỏi nhổ một bãi vào cốc cà phê. Sau khi để mấy lát mỡ béo, xúc xích căn tròn và miếng “ pho mát kinh dị” lên một đĩa sứ nhỏ, tôi chùi tay vào mấy đồ giặt còn giấu dưới bàn ( để Miranda không biết là chúng chưa được lấy đi). Về lý thuyết thì lẽ ra ngày nào tôi cũng phải rửa đĩa bằng nước nóng trong bếp, nhưng đơn giản là tôi không sao làm nổi. Đóng vai ô sin riêng của Miranda trước mặt bàn dân thiên hạ thì nhục quá. Do đó tôi lấy khăn giấy chùi đĩa, lấy móng tay cào chỗ pho mát dính trên đĩa. Nếu đĩa dính bẩn quá thì tôi lấy một ít San Pellegrino rỏ vào cho mềm. May cho Miranda là tôi không sử dụng cồn lau màn hình máy tính! Những suy nghĩ kiểu ấy chứng tỏ đạo đức của tôi đã đạt mức suy đồi tệ hại. Tôi chỉ thấy khiếp sợ, tại sao quá trình này diễn ra nhanh thế.
“ Nhớ là tôi muốn các người mẫu cười,” tiếng bà vang lên trong phòng. Nghe giọng thì biết là Miranda đang gọi điện cho Lucia, phụ trách thời trang trong buổi chụp ảnh sắp tới ở Brazil. “ Tôi muốn thấy các cô gái hạnh phúc, cười rạng rỡ, khỏe mạnh. Không được mặt mũi đăm chiêu, cau có, nhăn nhó, không đánh phấn màu tối. Tôi muốn họ tỏa sáng. Nhớ chưa Lucia: chớ làm sai một li!”
Tôi vào phòng, đặt đĩa đồ ăn và cà phê lên bàn, khăn ăn, đường và thìa bên cạnh. Bà không thèm nhìn tôi. Tôi đợi một lát xem bà có đưa tài liệu nào để gửi fax hay lưu trữ, nhưng bà lờ đi và tôi lại ra khỏi phòng.
Tám rưỡi. Tôi ra khỏi giường cách đây ba giờ và mệt rũ như đã làm việc suốt mười hai tiếng; vừa định kiểm tra hộp thư điện tử lần nữa thì Miranda đi ra. Chiếc áo khoác buộc thắt lưng làm nổi rõ đáy lưng ong và làm chiếc váy bó sát của bà càng đẹp lý tưởng. Bà lên cơn thịnh nộ.
“Aan-dree-aa! Cà phê nguội ngắt. Tôi không hiểu tại sao. Chắc chắn chị đi lâu quá. Lấy cho tôi cốc khác.”
Tôi hít hơi thật sâu và cắn răng không để lộ nét căm ghét ra mặt. Miranda đặt cốc cà phê bị chê lên bàn tôi và mở cuốn tạp chí Vanity Fair số mới nhất do một nhân viên gửi lại cho bà trên bàn tôi. Tôi cảm nhận được tia mắt của Emily có lẽ pha trộn giữa thông cảm và tức giận. Một mặt, cô thương tôi phải chạy ra ngoài lần nữa mua cà phê, nhưng mặt khác cô bực mình vì tôi không chịu tươi cười chấp nhận một điều bất khả kháng. Chả gì thì hàng triệu cô gái khác sẵn sàng xin chết để được làm công việc của tôi.
Với một tiếng thở dài không thể không nghe thấy, nhưng cũng không bị hiểu là công khai phản kháng, tôi chui vào chiếc măng tô và đi ra thang máy. Chuyện đã rõ ràng: hôm nay sẽ lại là một ngày rất, rất dài.
Chuyến đi mua cà phê lần thứ hai trôi chảy hơn lần đầu nhiều. Ở Starbucks không còn đông người nữa, và Marion bắt đầu rót ngay cốc cà phê sữa khi cô thấy tôi đi vào. Lần này tôi không mua nhiều thứ, tôi muốn hoàn thành công việc thật nhanh và quay về bàn của mình, chỉ lấy thêm cho Emily và tôi mỗi người một cốc Cappuccino. Tôi vừa định trả tiền thì có chuông điện thoại. Con mụ chết tiệt này. Không biết cách cư xử, kiên nhẫn và tôn trọng ai cả. Tôi ra ngoài chưa đầy bốn phút, cớ gì mà bà ta phải làm ầm lên? Tôi giữ khay cà phê bằng một tay, tay kia thọc vào túi áo măng tô tìm điện thoại. Tôi quyết định châm một điếu thuốc để phản kháng trò đàn áp nô lệ này thì thấy số máy gọi đến là số ở nhà Lily.
“ Tớ có quấy cậu không?” Cô hỏi. Giọng cô nóng vội. Tôi nhìn đồng hồ. Tại sao giờ này cô lại ở nhà mà không đến trường?
“ Không sao, tớ đang đi mua cà phê lần thứ hai. Có chuyện gì thế? Giờ này cậu đang ở trường mới đúng chứ?”
“ Ừ, chính ra là thế. Nhưng tối qua tớ đi chơi với T-shirt-hồng và rất tiếc đã uống vài ly Margarita quá mức bình thường. Nói chính xác hơn là tám ly. Hắn còn ngủ, và tớ không muốn tự dưng bỏ đi. Nhưng tớ gọi cậu vì một chuyện khác.”
“ Sao nữa?” Tôi không tập trung nghe lắm. Một chiếc cốc giấy đựng Cappuccino đã bắt đầu ngấm ra ngoài, và với chiếc điện thoại kẹp dưới cằm thì phải thật khéo léo mới dùng một tay moi được điếu thuốc và châm lửa.
“ Ông chủ nhà của tớ tám giờ sáng nay đến gõ cửa và nói rằng tớ phải ra khỏi nhà,” cô nói giọng vui vẻ.
“Ra khỏi nhà à? Nhưng tại sao, Lily? Bây giờ cậu định làm gì?”
“ Chắc là họ biết tớ không phải Sandra Gers, và cô ta không sống ở đây từ sáu tháng nay. Tớ không có họ với cô ấy, vì vậy không được thuê tiếp căn hộ được xã hội trợ giá. Chuyện ấy tớ biết ngay từ đầu, do đó tớ vẫn mang tên cô ta. Chẳng hiểu tại sao họ lại phát hiện ra. Nhưng chuyện cũng đã xảy ra rồi. Bây giờ tớ có một ý rất hay. Tại sao bọn mình không đến ở cùng nhau nhỉ? Phòng của cậu ở chỗ Shanti và Kendra thuê từng tháng một, đúng không? Và cậu dọn đến đó vì không có chỗ nào khác, đúng không?”
“ Đúng.”
“ Okay. Vậy thì bọn mình cùng tìm một chỗ hợp lý!”
“Tuyệt” Tôi nói hơi to quá, mặc dù đúng là cũng thích kế hoạch của cô.
“Vậy là cậu đồng ý rồi nhé?” Cô nói, nghe chừng đã bớt phấn khởi một chút.
“Nhất định rồi, Lily. Sáng kiến của cậu rất hay. Tiếc là tớ không nhảy lên vì sung sướng được, vì tớ đang đứng ngoài mưa và cà phê nóng bỏng đang chảy dọc cánh tay trái…” Píp píp. Có một cuộc gọi khác đang chờ. Suýt nữa tôi phải bỏng vì điếu thuốc trong khi cầm điện thoại lên xem số điện gọi đến. Đó là Emily.
“Chết tiệt, Lily, Miranda gọi. Tớ phải chấm dứt đây, chúc mừng cậu bị đuổi khỏi nhà! Tớ rất mừng cho hai chúng mình. Lát nữa tớ gọi lại, okay?”
“Okay, thế thì…”
Tôi đã chuyển kênh và chuẩn bị tinh thần nghe chửi.
“Lại tôi đây,” Emily cay nghiệt. “Chị biến đi đâu vậy? Việc của chị chỉ là mua cà phê, có gì ghê gớm đâu. Chị quên là ngày xưa tôi làm việc này của chị, và tôi biết là không thể lâu đến mức ấy…”
“Gì cơ?” Tôi lớn tiếng hỏi và che ngón tay lên máy. “Có chuyện gì thế? Tôi không nghe thấy gì cả. Chị có nghe thấy tôi nói không? Một phút nữa tôi về!” Tôi gập máy lại và dúi thật sâu vào túi áo. Sau đó tôi vứt điếu thuốc Marlboro vừa châm xuống vỉa hè, chạy vội về văn phòng.
Miranda lần này rộng lòng chấp nhận cốc cà phê sữa hơi nóng hơn một chút. Từ mười đến mười một giờ, bà không gọi Emily và tôi lần nào, vì còn mải tán chuyện điện thoại với Mr. Mờ-Cờ-Đờ. Về danh chính ngôn thuận thì tôi mới làm quen chồng bà tuần trước, vào tối thứ Tư khi đến nộp SÁCH. Tôi vào đến sảnh khi ông đang lấy măng tô khỏi tủ. Mười phút liền ông lảm nhảm kể cho tôi về “Mr. Tomlinson”. Sau lần gặp gỡ ấy ông luôn đối xử đặc biệt ân cần với tôi, hỏi thăm sức khỏe và khen tôi làm việc tốt. Đương nhiên là sự thân mật đó không hề lây sang vợ ông.
Tôi toan gọi sang bên quan hệ đại chúng để kiếm vài đồ tử tế mặc trong văn phòng thì giọng Miranda lanh lảnh dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ: “Emily, ăn trưa”. Emily thứ thiệt gật đầu ra hiệu: việc của tôi. Tôi bấm số điện đã lưu của Smith and Wollensky, ở đầu dây bên kia là cô nhân viên mới.
“Chào Kim. Đây là Andrea, văn phòng Miranda Priestly. Sebastian có đấy không?”
“Xin chào. Xin cho biết tên một lần nữa.” Mỗi tuần hai lần, tôi gọi điện đúng vào giờ này, vậy mà lần nào cô ta cũng như không biết tôi là ai.
“Văn phòng Miranda Priestly. Runway. Tôi không muốn tỏ ra khiếm nhã” – đúng thế - “nhưng tôi khá vội. Chị nối máy cho tôi với Sebastian được không?” Gặp một nhân viên khác thì nhất định tôi sẽ nhờ chuyển tiếp các món Miranda vẫn đặt, nhưng cô Kim này quá tối dạ, vì vậy tôi có thói quen nói trực tiếp với chủ nhà hàng.
“Xin đợi một chút. Tôi xem ông ấy có thì giờ nói chuyện không.” Tất nhiên là có, cứ tin tôi đi cô Kim. Ông ấy sống nhờ vào Miranda Priestly đấy.
“Andy thân mến. Cô có khỏe không?” Giọng Sebastian như gió thoảng. “Tôi hi vọng được chị gọi vì bà tổng biên tập thời trang yêu mến của chúng ta muốn ăn trưa, đúng không?”
Không hiểu ông ta phản ứng ra sao, nếu tôi cho phép đùa ông là bữa trưa này không phải cho Miranda mà là cho tôi? Smith and Wollensky đâu phải là một hiệu cung cấp pizza, mà là nhà hàng năm sao, và chỉ cho phép nữ hoàng hưởng một ngoại lệ.
“Vâng, đúng thế. Miranda vừa nói là bà muốn thử đặc sản của nhà hàng ông, và gửi ông lời chào thân ái.” Có lẽ cả đời Miranda không thốt ra mấy lời sến như thế, nhưng Sebastian là một fan lớn của bà nên tôi muốn dành cho ông niềm vui nho nhỏ này. Ông khúc khích cười rất xúc động.
“Tuyệt vời! Cực kỳ tuyệt vời! Chúng tôi bắt đầu ngay đây. Chị đến lấy thức ăn lúc nào cũng được,” giọng ông vui vẻ tươi tắn. “Và tất nhiên hãy cho tôi gửi đến bà lời chào thân ái!”
“Nhất định rồi, tôi sẽ chuyển ngay, xin chào ông.”
Nịnh ông một chút cũng bõ công, vì ông giúp tôi rất nhiều và đỡ việc cho tôi. Hôm nào Miranda không đi ăn, tôi dọn bữa cho bà trong văn phòng, và cất giữ trong tủ lạnh mấy thứ bát đĩa sứ cho mục đích này. Chủ yếu đó là hàng mẫu của các bộ đồ ăn mới do các nhà tạo mốt gửi đến, phần còn lại lấy từ căng tin. Kiếm khay, dao cắt bít tết và khăn ăn vải lanh thì quá phiền phức, tôi bảo Sebastian cung cấp luôn. Lại một lần nữa trong ngày tháng Hai lạnh lẽo và xám xịt này, tôi khoác lên người chiếc măng tô len đen, đút điện thoại và thuốc lá vào túi rồi đi ra ngoài. Mặc dù đi bộ đến nhà hàng chỉ mất mười lăm phút, tôi vẫn suy nghĩ có nên gọi ôtô không. Nhưng khi hít vào phổi không khí trong lành thì tôi thay đổi ý định, châm một điếu thuốc và lên đường. Không rõ vì khói hay vì gió lạnh nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn.
Vào mùa này ít khi gặp nhiều khách du lịch lang thang đi lại. Ngày xưa tôi hay bực mình về những người vừa đi vừa gọi điện thoại, nhưng bây giờ chính tôi cũng có thói quen xấu đó. Tôi rút điện thoại và gọi đến trường của Alex, nếu trí nhớ kém cỏi của tôi không nhầm thì giờ này có thể anh đang nghỉ trưa ở phòng giáo viên.
Sau hai hồi chuông, thì tôi nghe một giọng phụ nữa rất chua trả lời.
“Alô, trường phổ thông số 277, tôi là Mrs. Whitmore. Quý vị cần gì?”
“Tôi muốn gặp Alex Feinman.”
“Cho phép tôi hỏi chị là ai?”
“Tôi là Andrea Sachs, bạn gái của Alex. ”
“A, Andrea đấy à. Chúng tôi đã nghe kể nhiều về chị. ” Giọng bà không có vẻ vui, thậm chí ngược lại.
“Ồ, thế ạ? Xin cám ơn. Tôi cũng được nghe kể nhiều về bà Miranda Priestly. Vâng, Alex rất mến các đồng nghiệp ở trường.”
“Cám ơn chị. Andrea, tôi muốn nói là, hình như chị có công việc rất thú vị, khi được làm cho một phụ nữ tài năng như vậy. Chị là người rất may mắn đấy.”
Vâng, Mrs. Whitmore, tôi là người nhiều may mắn. Bà không biết tôi may mắn đến mức nào đâu. Nếu bà biết là mới ngày hôm qua tôi được phép đi mua tampon cho bà sếp của tôi và sau đó được biết là mua nhầm loại và tôi chẳng biết làm gì cho tử tế cả. May mắn là chữ duy nhất khả dĩ đúng với cảm nhận của tôi vào mỗi bu
Cho đến nay thì tôi khốn khổ nhất khi chọn quần mỗi sáng. Ngay một người như tôi cũng phải ngộ ra là mặc đồ “ chính thống” đỡ phiền toái hơn nhiều. Sáng sớm nào cũng khó nhọc, nhưng khó nhọc nhất vẫn là chuyện quần áo. Đồng hồ báo thức réo chuông sớm đến mức tôi không dám kể chuyện ấy cho ai, tựa như nhắc đến thời điểm đó đã đủ đau hết mình mẩy. Sáng nào cũng đúng bảy giờ có mặt ở văn phòng đã là một thử thách lớn đến phát khóc. Tất nhiên là đã có lúc tôi trèo khỏi giường trước bảy giờ, ví dụ như để ra kịp chuyến máy bay nào đó hay cố ôn thi vào phút cuối cùng. Chứ ngoài ra tôi chỉ biết thời gian đó như điểm kết của một đêm dạ hội, không có gì đáng sợ khi người ta có cả một ngày hôm sau để được thoải mái ngủ bù. Nhưng bây giờ thì khác. Đây là một kiểu mất ngủ liên tục, đều đặn và vô nhân đạo mà tôi thì không sao lên giường được trước nửa đêm. Hai tuần vừa rồi mới thật là lắm stress, vì công việc chuẩn bị ra số báo mùa xuân đang đi vào giai đoạn quyết định và có hôm tôi ngồi đợi đến gần mười một giờ đêm ở ban biên tập để đợi lấy SÁCH. Về đến nhà thì thường là đã xong đâu, tôi còn phải ăn chút gì đó và cởi quần áo trước khi lăn ra ngủ như chết.
Đúng năm rưỡi, một tiếng chuông xé tai chấm dứt giấc ngủ - tiếng động duy nhất mà tôi không lờ đi nổi. Tôi cố thò một chân ra khỏi chăn và duỗi về hướng đồng hồ báo thức ( được bố trí một cách chiến lược để tôi phải chuyển động mới với tới). Tôi lọ mọ dùng ngón chân tìm nút tắt để sau vài lần ấn trượt thì rồi cũng ngắt được chuông. Cứ sau bảy phút nó lại kêu lần nữa, và đúng 6 giờ 04 tôi hoảng hốt vùng dậy để lao vào nhà tắm.
Tiếp theo là cuộc chiến với tủ quần áo, thông thường từ 6 giờ 30 đến 6 giờ 37. Lily vốn quen đồng phục thống nhất ở trường là quần Jeans, áo pull, dây chuyền sợi gai và dĩ nhiên không phải chuyên gia thời trang; cô luôn ngạc nhiên khi chúng tôi gặp nhau: “ Tớ vẫn không rõ cậu mặc đồ gì đến chỗ làm việc? Quần áo của cậu thì okay, nhưng làm sao mặc đến Runway được?”
Tôi không tiết lộ với cô rằng từ mấy tháng nay tôi chủ tâm dậy sớm và lì lợm quyết định sửa đổi phong thái thể thao của mình theo hướng Runway. Sáng nào tôi cũng đứng nửa tiếng trước tủ quần áo, tay cầm tách cà phê lấy trong lò vi sóng ra, lưỡng lự giữa đống bốt và thắt lưng, len và sợi micro. Sau khi thay tất năm lần để chọn được tông màu thích hợp thì mới nhớ ra là không được đi tất. Gót giầy của tôi luôn lùn quá, rộng quá, to quá. Tôi không có lấy một thứ đồ nào bằng len cashmere. Do chưa hề biết khái niệm xi líp dây nên tôi bận rộn rất lâu để chọn cái quần lót nào không hằn vết ra ngoài – một trong những chuyện được ưa đem ra đàm tiếu nhất trong giờ giải lao. Và cho dù đã ngập ngừng nhiều lần nhưng tôi vẫn chưa dám mặc áo không dây đến văn phòng.
Sau ba tháng thì tôi đầu hàng. Mệt mỏi quá. Việc chọn lựa trang phục hằng ngày đã làm tôi kiệt quệ về thể xác lẫn linh hồn. Sáng nào cũng thế, một tay tôi cầm tách cà phê đứng trước tủ, tay kia lục trong đống quần áo ưa thích ngày xưa. Sao phải khổ thế? Tôi tự hỏi. Đơn giản khoát hàng hiệu lên người không nhất thiết có nghĩa là tôi bán rẻ linh hồn mình. Sau khi bị nghe những câu góp ý ngày càng cay nghiệt hơn về vẻ bề ngoài của mình, tôi tự hỏi là liệu mình có vì vậy mà mất việc như chơi. Tôi ngắm mình trong tấm gương cao đến đầu và bật cười: cô gái trong chiếc áo nịt Maidenform ( tôi!) và xi líp vải bông Jockey kia ( cũng là tôi! ) định bước chân vào làng Runway hay sao? Cho vào thùng rác được rồi. Chả gì thì tôi cũng làm việc ở Runway, tạp chí thời trang có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Chỉ ăn mặc sạch sẽ và đứng đắn thôi chưa đủ. Tôi gạt mấy thứ đồ ngán ngẩm sang một bên, lấy ra chiếc váy đen tuýt Prada, áo cổ lọ đen Prada và đôi bốt thấp cổ Prada mà James đưa hôm buổi tối ngồi đợi lấy SÁCH.
“Gì thế?” Tôi hỏi khi mở bao đựng quần áo.
“Đồ để chị mặc. Andy ạ, nếu chị không muốn bị mất việc,” anh mỉm cười nhưng tránh nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Sao cơ?”
“Thế này nhé. Tôi nghĩ là chị cũng biết rằng kiểu… kiểu ăn mặc của chị không hẳn giống mọi người ở đây. Tôi hiểu, chơi hàng hiệu là thú vui đắt đỏ, nhưng đã có cách. Tôi có rất lắm đồ trong kho quần áo, sẽ chẳng ai nhận ra là chị thỉnh thoảng … mượn vài thứ.” Anh lấy ngón tay ra hiệu cho chữ mượn vào ngoặc kép. “ Và đương nhiên là chị cũng nên gọi bên phòng quan hệ đại chúng để lấy thẻ giảm giá khi mua hàng hiệu. Tôi chỉ được giảm giá 30% thôi, nhưng chị làm việc cho Miranda nên tôi không tin là họ tính tiền với chị đâu. Chả có lý do gì để chị cố giữ phong cách… sinh viên của mình cả.”
Tôi không muốn phải giải thích là mang đồ Nine West thay cho Manolo hay quần bò trẻ con ở hiệu Macy’s chứ không mua ở tầng tám hiệu Barney sang trọng chính để chứng tỏ với mọi người xung quanh là tôi không bị lóa mắt bởi thế giới Runway. Ai xúi James làm việc này với tôi nhỉ? Emily? Hay chính Miranda? Nhưng ai giật dây cũng thế thôi. Nói cho cùng thì tôi đã sống sót qua ba tháng ở Runway, và nếu chiếc áo cổ lọ Prada chứ không phải đồ rẻ của Urban Outfitters giúp tôi vượt qua nốt chín tháng sắp tới thì cũng tốt thôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay chỉ mang đồ mới tử tế hơn.
6 giờ 50 tôi ra khỏi nhà và cực kỳ hài lòng với bộ cánh của mình. Mấy gã ở quầy bán quà sáng cạnh nhà huýt sáo theo, và chưa đi tiếp lấy mười bước chân nữa thì một cô gái nói với tôi là cô vẫn băn khoăn từ ba tháng nay trước quyết định mua chính đôi bốt của tôi. Mi sẽ thích tình trạng này, tôi nghĩ bụng. Nói cho cùng thì chẳng ai trần truồng đi làm cả, cũng phải mặc thứ gì đó lên người, và mang đồ này tôi cảm thấy cao cấp hơn hẳn những quần áo ngày xưa của mình. Đến góc phố tôi lên taxi, lần này không phải vì trường hợp khẩn cấp nữa mà thành thói quen. Trong xe ấm áp dễ chịu nhưng tôi quá mệt mỏi để có sức mà vui mừng khi không phải chen chúc lên tàu điện ngầm với những người đi làm khác. Tôi nói khản đặc: “ 640 Madison, nhanh lên nhé.” Người lái xe nhìn tôi trong gương hậu – tôi thề là với ánh mắt đồng cảm – và hỏi: “Tòa nhà Elias Clark, đúng không?” Anh nhấn ga. Xe lao vun vút lên phố 97, rẽ qua Lex, bay xuyên qua hàng đèn của phố 59 về hướng Tây đến Madison. Sau đúng sáu phút – giờ này xe cộ thưa thớt – taxi phanh kít trước khối bê tông cao vút mảnh mai mà những người làm trong đó có vẻ muốn ganh đua thân hình với nó. Giá taxi hôm nào cũng 6,40 dollar, tôi đưa lái xe tờ 10 dollar và nói: “ Cứ giữ chỗ tiền thừa.” Và cũng như mọi hôm, tôi vui mừng nhìn bộ mặt ngạc nhiên và vui mừng của anh ta. “ Runway cám ơn.”
Cũng là chuyện thường. Sau tuần đầu tiên ở Runway tôi đã nhận ra thanh toán công tác phí không phải là mặt mạnh của Elias Clark. Ngày nào cũng 10 dollar tiền taxi? Không sao cả. Các công ty khác ắt sẽ kiểm tra xem tôi có được phép đi taxi đến chỗ làm không. Ở Elias Clark người ta chỉ ngạc nhiên tại sao tôi sử dụng mấy cái taxi vớ vẩn mà không gọi xe của công ty đến đón. Mỗi ngày xơi của Runway 10 dollar làm tôi cực kỳ khoái chí, cho dù công ty coi đó như muỗi đốt sắt. Người khác có thể cho là một dạng phản kháng ngầm, tôi gọi việc này là tái phân chia thu nhập.
Sung sướng vì ít nhất cũng làm cho một người vui vẻ bắt đầu ngày làm việc, tôi nhảy khỏi xe và đi về hướng 640 Madison. Tòa nhà tuy tên là Elias Clark Building nhưng phân nửa diện tích cho JS Bergmann, nhà băng danh tiếng nhất thành phố, thuê. Tuy hai bên không chung chạ gì, ngay cả thang máy cũng tách riêng, nhưng không tránh khỏi các nhân viên nhà băng phong lưu và người đẹp của làng thời trang cắt đường nhau ở tiền sảnh và để mắt nhòm ngó nhau.
Tôi đang thầm chuẩn bị cuộc trạm trán hằng ngày với Eduardo thì một giọng mệt mỏi và chán nản từ sau lưng làm tôi bất ngờ: “ Ê, Andy! Khỏe không? Lâu ngày không gặp.” Tôi quay lại thấy Benjamin, một trong vô số bạn trai ngày xưa của Lily ở trường đại học. Anh ngả người đánh phịch bên cạnh cửa vào tòa nhà, thậm chí có vẻ không phiền lòng là mình đang ngồi bệt trên vỉa hè. Anh chỉ là một trong nhiều bạn trai của Lily, nhưng là người đầu tiên mà Lily mến thực sự và chân thành. Tôi không hề tiếp xúc với Benji ( anh rất ghét bị gọi như thế ) từ khi Lily bắt quả tang anh ta với hai cô gái đang nằm ườn trong phòng ký túc xá. Hai cô này cùng hát với Lily ở dàn đồng ca accapella, một giọng cao và một giọng trầm, sau đó không dám nhìn thẳng vào mắt Lily nữa. Tôi cố giải thích cho Lily là họ chỉ định đùa ác, nhưng cô không tin và khóc ti tỉ mấy ngày liền, sau đó bắt tôi hứa không được kể cho ai chuyện mà cô phát hiện ra. Tôi giữ lời, bù lại thì Benji rêu rao khắp nơi thành tích đã “ đóng đinh hai con bé xướng ca vô loài” trong khi “con bé thứ ba ngồi nhìn,” cứ như là Lily tự nguyện chiêm ngưỡng màn diễn của sư phụ. Sau vụ này Lily thề không bao giờ thèm yêu nữa, và cho đến nay có vẻ như cô vẫn trung thành với lời thề đó. Cô lôi nhiều chàng lên giường, nhưng cũng tống tiễn họ ra cửa sớm vì sợ nhỡ đâu lại sa vào mê lộ của tình yêu.
Tôi nhìn xuống anh, cố tìm lại Benji ngày xưa trên khuôn mặt này. Anh ấy là người thể thao và lanh lợi như trăm nghìn người khác. Nhưng công việc ở Bergmann đã vắt kiệt anh. Bộ com lê của anh nhàu nhĩ và rộng thùng thình, anh rít điếu Marlboro một cách thèm khát như bị ma túy vật. Mặc dù mới bảy giờ nhưng trông anh đã mệt rũ, vẻ ngoài tàn tạ ấy làm tôi thấy trong người phấn chấn hơn. Vì nó cũng là một dạng trả đũa cho sự điểu cáng của anh đối với Lily và tôi không phải là đứa ngu xuẩn duy nhất phải đi làm vào lúc nhọ mặt người này. Chắc anh ta được trả mỗi năm 150.000 dollar để xuống dốc thê thảm như vậy, nhưng kệ xác.
Benji vẫy tôi với điếu thuốc trong tay, ra hiệu gọi tôi lại, đầu thuốc vẽ một vòng sáng trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sớm mùa đông. Tôi ngập ngừng vì không muốn đến muộn, nhưng Eduardo đã phát tín hiệu “ không lo, bà ấy chưa đi làm đâu, cứ bình tĩnh” và tôi đi ra chỗ Benji. Trông anh lờ đờ và tuyệt vọng. Rõ ràng anh cho là anh có một ông sếp hà khắc. Nếu như anh biết mọi chuyện! Tôi suýt phá ra cười.
“Này, tôi nhận thấy hằng ngày chị là người duy nhất đến làm việc sớm như vậy,” anh lầm bầm nói trong khi tôi lục lọi túi xách tìm thỏi son môi trước khi đi tới thang máy. “Tại sao thế?”
Trông anh mệt mỏi và kiệt quệ làm lòng tôi trào lên chút thương cảm. Nhưng tôi cũng mệt chết đi được, và tôi nhớ lại vẻ mặt của Lily khi được một người trong số bạn thể thao của Benji hỏi là lúc xem mấy người kia làm tình có thích không hay cũng muốn tham gia, và chút thương cảm ấy cũng biến mất luôn.
“Tại sao à? Vì tôi làm việc cho một bà sếp có đòi hỏi rất khắc nghiệt nên phải đến sớm hơn tất cả mọi người ở tòa báo những hai tiếng rưỡi để chuẩn bị mọi việc,” tôi đáp với giọng đầy cay nghiệt.
“Thôi, tôi chỉ hỏi thôi mà, xin lỗi chị. Nhưng nghe có vẻ tệ quá, chị làm cho báo nào vậy?”
“Tôi làm cho Miranda Priestly,” tôi nói và cầu mong đừng thấy phản ứng gì. Tôi luôn thích thú khi gặp một người tương đối có đầu óc mà chẳng hề biết Miranda là ai cả, thích lắm. Cực kì thích là đằng khác. Và quả thật, lần này Benji không làm tôi thất vọng. Anh nhún vai, hít một hơi thuốc và nhìn tôi dò hỏi.
“Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway,” tôi hạ giọng và khoái trá kể tiếp, “ và là mụ già ghê gớm nhất mà tôi từng gặp. Trước đó tôi không tưởng tượng ra có loại người như thế, thậm chí không phải là người nữa.” Tôi chỉ muốn tuôn hết bài ca thán về bà ta cho Benji nghe, nhưng trước khi hăng hái vào cuộc thì cơ chế thụt vòi ở Runway đã lại thắng thế. Lập tức tôi luống cuống, thậm chí khiếp sợ rằng con người ngây ngô và lạnh nhạt kia biết đâu là tay sai của Miranda hay cây bút của một tờ lá cải kiểu Observer và Page Six đến săn tin. Tôi biết đó là chuyện ngớ ngẩn và vô lý, vì tôi quen Benji từ nhiều năm nay và tin chắc rằng anh ta không làm việc cho Miranda ở bất kỳ tư cách nào. Nhưng sao mà tuyệt đối yên tâm được? Có thể ai đó sau lưng trong mấy giây vừa rồi đã nghe thấy những lời độc địa của tôi thì sao? Phải bắt tay vào hạn chế thiệt hại ngay mới được.
“Tất nhiên, bà ấy LÀ người phụ nữ có quyền lực nhất trong giới thời trang và xuất bản, và không ai suốt ngày dịu dàng phân phát bánh kẹo mà leo lên được đỉnh cao của hai lĩnh vực chính yếu ấy của New York City. Vào địa vị bà ấy thì tôi cũng làm thế. Thôi nhé, tôi phải đi đây. Tạm biệt.” Thế là tôi biến luôn, hệt như khi nói chuyện với ai đó trong những tuần qua. Chỉ khi tán gẫu với Lily, Alex hay bố mẹ là tôi mới thoải mái chửi bới mụ phù thủy ấy.
“Đừng phiền muộn quá đáng như thế, Andy,” Benji gọi với theo khi tôi đi về phía thang máy. “Tôi ngồi từ sáng thứ Năm ở đây rồi cơ,” anh thả rơi mẫu thuốc xuống đất và hờ hững dí mũi giầy lên.
“Chào Eduardo,” tôi nói và nhìn ông với cặp mắt mệt mỏi cố toát ra cảm xúc. “Sao mà tôi ghét những ngày thứ Hai thế.”
“Kìa cục cưng, đừng bực bội thế. Ít nhất thì hôm nay chị cũng đến sớm hơn sếp,” ông mỉm cười. Ông ám chỉ những buổi sớm chết tiệt mà Miranda xuất hiện từ năm giờ sáng và đòi có bảo vệ đưa lên tầng vì bà không bao giờ chịu đem thẻ thông hành theo người. Rồi bà lồng lộn đi lại trong văn phòng và nhấc điện thoại, liên tục tấn công tôi và Emily cho đến khi một trong hai chúng tôi vùng dậy mặc quần áo và phi đến chỗ làm việc, cứ như là vừa ban bố tình trạng khẩn cấp toàn quốc.
Tôi ấn vào cửa xoay, hy vọng vào ngày thứ Hai này được ông ta cho qua mà không cần rút thẻ. Nhầm to.
“Yo, tell me what you want, what you really, really want,” ông hát với nụ cười toe toét và pha khẩu ngữ Tây Ban Nha. Thế là tiêu tan mọi niềm vui của tôi từng làm người lái taxi sung sướng và đến văn phòng sớm hơn Miranda. Như mọi hôm, tôi điên tiết đứng trước cửa xoay và chỉ muốn vặn cổ Eduardo. Nhưng vì tôi là người dễ tính và Eduardo thuộc vào nhúm bạn bè ít ỏi trong tòa nhà này nên tôi cắn răng phục tùng số phận: “I’ll tell you what I want, what I really, really want, I wanna - I wanna - I wanna - I wanna – I really, really wanna zigga zig aaaaahhhh,” tôi ngoan ngoãn tỏ lòng kính trọng với ca khúc đỉnh của Spice Girls hồi thập kỷ 90. Và Eduardo ngoác miệng cười, ấn nút cho tôi qua.
“Nhớ ngày mười sáu tháng Bảy đấy,” ông gọi theo.
“Tôi biết rồi, mười sáu tháng Bảy...” tôi đáp lại, nhớ rằng đó là hôm chúng tôi cùng có sinh nhật. Không rõ bằng cách nào mà ông ta biết ngày sinh của tôi trùng với ông. Vì lý do nào đó, chuyện này trở thành một phần trong nghi lễ hàng ngày của riêng chúng tôi, thật ngớ ngẩn.
Tòa nhà phía công ty Elias Clark có tám thang máy, một nửa cho các tầng từ một đến mười bảy, nửa kia cho các tầng trên. Thật ra chỉ có bốn thang máy đầu tiên là quan trọng vì ban biên tập của các tạp chí danh tiếng nhất đều ở mười bảy tầng dưới. Trên các cửa thang máy có biển lớn sáng đèn, chỉ rõ địa chỉ từng văn phòng. Ở tầng hai là một phòng tập thể hình cực hiện đại cho nhân viên sử dụng miễn phí, trong đó có đủ kỹ thuật tối tân như máy luyện cơ chống đau lưng, tối thiểu một trăm máy tập leo thang, băng chạy và máy đạp xe. Chưa kể đến phòng tắm khô, bồn tắm kiểu Nhật, xông hơi, bên cạnh khu vực thay quần áo là phòng chăm sóc sắc đẹp, khi cần có thể chăm sóc móng tay móng chân hay đắp mặt nạ. Thậm chí người sử dụng không cần đem khăn riêng theo, nhưng đó là tôi nghe kể lại mà thôi – không chỉ vì tôi chẳng có thì giờ, mà còn vì từ sáu giờ sáng đến mười giờ tối ở đây chật cứng, không có chỗ đặt chân. Bất kể người viết bài, biên tập viên hay trợ lý kinh doanh đều phải gọi điện trước ba ngày để đặt chỗ ở lớp Yoga hay tập võ, nhưng vẫn có nguy cơ bị mất chỗ nếu không đến sớm mười lăm phút trước giờ vào lớp. Như hầu hết mọi lời mời nhằm cải thiện cuộc sống của nhân viên Elias Clark, tôi thấy tập luyện ở đây chỉ gây thêm stress.
Tôi cũng nghe phong phanh là ở tầng trệt có nhà gửi trẻ, nhưng tôi chẳng quen ai có con cả nên chưa biết thông tin đó có chính xác không. Tầng ba mới thực sự đáng chú ý với phòng căng tin. Miranda không đặt chân tới đó bao giờ, trừ những lần hẹn ăn trưa với Irv Ravitz, chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark – ông thích ra vẻ thân mật dùng bữa cùng với nhân viên của mình.
Thang máy lên cao, cao nữa, lướt qua các danh vị khả kính. Hầu hết trong số họ dùng chung tầng, nhưng khu lễ tân thì tách riêng hẳn. Tôi ra khỏi thang máy trên tầng mười bảy, liếc nhìn bóng mình phản chiếu trong kính. Ở 640 Midison các kiến trúc sư nhạy cảm và thiên tài đã bỏ hẳn giương trong thang máy! Lại lần nữa tôi quên cái thẻ thông hành – vốn sinh ra để theo dõi mọi chuyển động, mua bán và hiện diện của chúng tôi trong tòa nhà – nên chỉ còn cách đột nhập vào văn phòng thôi. Sophy thì chín giờ mới đến, tôi phải tự lực vậy. Tôi luồn xuống dưới mặt quầy, ấn nút mở cửa và lấy đà lao qua khe cửa trước khi tấm kính tự đóng lại. Nhiều hôm tôi cần đến ba, bốn lần thử mới qua được cửa, hôm nay hai lần là đủ.
Như mọi hôm, tôi đi qua hành lang giờ này còn tối om đến phòng mình. Bên trái là ban quảng cáo, nơi các nữ nhân viên ưa diện T-shirt hiệu Chloé và bốt cao gót chạy đi chạy lại phân phát danh thiếp in chữ “Runway” to tướng. Họ sống và làm việc trong một thế giới riêng, chẳng dính dáng gì đến nửa bên kia hành lang dành cho bộ phận biên tập. Ban biên tập lựa ra mẫu quần áo cho các trang mốt, tìm cách lôi kéo các cây bút giỏi, thống nhất phụ kiện với trang phục, sửa bài, trang trí đồ họa và mời thợ nhiếp ảnh. Biên tập viên đến mọi ngóc ngách đẹp nhất thế giới để bố trí chụp hình, được các nhà tạo mốt dúi cho đủ quà tặng và phiếu giảm giá, bám sát các xu hướng thời trang cũng như mọi sự kiện quan trọng, vì họ “phải điều tra xem ai mặc gì”.
Bộ phận kinh doanh quảng cáo có nhiệm vụ bán diện tích đăng quảng cáo. Đôi khi họ tổ chức lễ hội, nhưng do chưa có nhân vật danh tiếng nào xuất hiện ở đó nên chẳng dân New York có máu mặt nào (như Emily cay độc tiết lộ cho tôi biết) thèm đến. Tôi chỉ biết đến các buổi tiệc ấy khi người ngoài kể lại, khi điện thoại réo chuông suốt ngày vì những nhân vật tầm tầm hy vọng tôi kiếm hộ giấy mời. “Nghe nói Runway tổ chức tiệc, sao tôi không có giấy mời nhỉ?” Các biên tập viên không khi nào có giấy mời, vì đằng nào thì chúng tôi cũng không đến. Lũ đàn bà ở Runway chuyên khinh miệt, khủng bố và kỳ thị người ngoài, nhưng vẫn chưa đủ, họ còn tự dựng những rào cản giữa các thứ bậc nội bộ.
Sau bộ phận kinh doanh quảng cáo là một hành lang hẹp, dài hun hút, dẫn đến một phòng bếp nhỏ xíu. Ở đây có đủ loại trà, cà phê, thậm chí cả một tủ lạnh cho những người đem bữa trưa từ nhà đến. Dịch vụ này lẽ ra là thừa, từ khi Starbucks độc quyền cung cấp cà phê hằng ngày, các bữa ăn được cẩn thận lấy từ căng tin hay từ hàng nghìn dịch vụ cơm hộp trong thành phố. Nhưng căn bếp có gì đó dễ thương, dường như Elias Clark muốn nói: “ Xem này, chúng tôi lo mọi bề cho nhân viên! Ở đây có trà Lipton, đường ăn kiêng, cả lò vi sóng để hâm món để lại từ đêm qua! Chúng ta là người nhà cả mà!”
Đúng 7 giờ 05 thì tôi cũng vào đến ốc đảo của Miranda, mệt không lê nổi bước nữa. Công việc đầu tiên hằng ngày là mở khóa phòng Miranda. Tôi nhìn ra ngoài trời còn tối, ngắm ánh điện của New York City và thấy mình như đang trong một cuốn phim (có các cặp tình nhân ôm nhau trên sân thượng bao la của căn hộ sáu triệu dollar với tầm nhìn ra sông), trên đỉnh cao thế giới, để khi ấn nút bật hết đèn lên thì giấc mơ ngày của tôi cũng chấm dứt cùng với cảm giác thăng hoa trong thành phố New York của mọi khả năng vô tận, thay vào đó là ảnh khuôn mặt cười giống nhau như đúc của cặp song sinh Caroline và Cassidy.
Tiếp theo là mở khóa tủ tường ngoài sảnh, nơi tôi treo chiếc măng tô thú của Miranda (hoặc măng tô của tôi, nếu hôm đó bà không tình cờ mặc lông thú. Miranda không ưa để áo của bà treo bên cạnh áo len mạt hạng của Emily hay của tôi) và cất giữ vô số các đồ khác: măng tô và quần áo bị loại bỏ có giá trị hàng chục nghìn dollar, đồ giặt là để đưa đến nhà Miranda, tối thiểu 300 chiếc khăn trắng Hermès khét tiếng. Emily cho biết là cô đã quyết định mua hết loại khăn này mà hồi đó có thể tìm được. Cô giải thích rằng nhờ vậy Miranda không bao giờ thiếu khăn và chúng tôi sẽ tránh được tình cảnh hốt hoảng đi mua sắm khi cần. Với cách suy luận đơn giản đó, cô mua hết 500 chiếc khăn tại toàn bộ thị trường Mỹ và Pháp. Tôi còn chưa kể với ai là đã mở một bức thư của ban lãnh đạo công ty Hermès từ Paris gửi đến cho “Madame Priestly,” họ lải nhải dài dòng về niềm hân hạnh được Miranda chọn dùng khăn quàng của mình, rằng bà đã tôn vinh mác Hermès nhiều hơn bà tưởng, và họ vô cùng áy náy khi không còn sự lựa chọn nào khác là phải dùng mẫu hàng hơi khác mẫu mà bà vẫn ưa dùng. Trong phong bì có nửa tá mẫu lụa trắng kèm với mẫu Miranda vẫn thích xưa nay – một nghĩa cử xoa dịu nỗi bực dọc của Miranda trong giai đoạn khó khăn này. Tôi săm soi đến hai mươi phút mà không nhận ra sự khác biệt nào giữa các mẫu vải, nhưng tôi biết, Miranda liếc qua là nhận ra ngay. Đương nhiên là bức thư và mẫu vải vẫn nằm dưới đống giấy tờ vô thưởng vô phạt trong ngăn bàn tôi, thực sự tôi không biết làm gì khi chỗ khăn dự trữ bị dùng hết.
Miranda vứt khăn khắp nơi: ở nhà hàng, rạp phim, nơi trình diễn thời trang, phòng họp hay trên taxi. Bà bỏ quên chúng trên máy bay, ở trường của lũ trẻ hay sân tennis. Tất nhiên không bao giờ bà ra khỏi nhà mà lại thiếu chiếc khăn Hermès sang trọng, điều đó không có nghĩa là bà biết chúng biến đâu mất. Hay là bà sử dụng chúng như khăn giấy? Nhất định bà cho rằng đây là sản phẩm dùng một lần rồi vứt đi, và không ai dám cải chính! Elias Clark trả hàng trăm dollar cho mỗi chiếc khăn, còn Miranda tiêu thụ chúng nhanh như khăn giấy. Nếu bà còn tiếp tục như thế thì hai năm nữa là chẳng còn lấy một chiếc mà dùng.
Trong tủ tường vẫn còn nhiều hộp bìa cứng màu da cam. Cứ ba, bốn hôm một lần, khi đi ăn là Miranda lại gọi: “Aaa-dree-aa, tôi cần khăn mới.” Niềm an ủi lớn của tôi là khi chỗ khăn này đã hết sạch thì tôi cũng đã biến khỏi đây từ lâu rồi. Người kế nhiệm mà tôi chưa biết sẽ là kẻ bất hạnh phải thông báo cho Miranda biết rằng không còn khăn quàng Hermès trắng nữa. Chỉ nghĩ đến đã thấy khiếp.
Tôi chuẩn bị xong mọi thứ thì Yuri gọi điện.
“Andrea? A lô, a lô. Yuri đây. Chị xuống tầng trệt được không? Tôi đang ở phố 58 gần Park Avenue, trước New York Sports Club.”
Cho dù không chắc chắn tuyệt đối, cuộc gọi là một thông báo hữu hiệu rằng Miranda sắp đến nơi rồi. Có thể thế. Phần nhiều bà cho Yuri đến trước để đưa đồ giặt, báo, các bài viết bà đã biên tập ở nhà, giày và túi đem đi sửa, và cuốn SÁCH. Tôi khuân đống đồ ấy lên gác và làm mọi việc cần thiết để bà không bị quấy rầy bởi mấy chuyện vặt vãnh. Bình thường thì bà đến sau đó khoảng nửa giờ. Yuri giao đồ cho tôi rồi quay lại ngay để đón bà.
Không rõ Yuri đón bà ở đâu, vì như Emily kể thì bà không ngủ bao giờ. Thoạt tiên tôi không tin, cho đến một hôm tôi đi làm trước Emily và phải nghe các tin nhắn trong hộp thoại. Mỗi đêm, không hề có ngoại lệ, từ một đến sáu giờ sáng Miranda gửi cho chúng tôi tám đến mười tin nhắn khá mập mờ, đại loại như: “Cassidy thích một cái túi nylon như bọn con gái bây giờ hay dùng. Chị đặt mua một cái cỡ trung bình, màu mà nó vẫn thích,” hay: “Tôi cần số điện và địa chỉ của cửa hàng đồ cổ ở giữa phố 70 và phố 80 có cái tủ cánh cong mà tôi đã thấy.” Cứ làm như chúng tôi đương nhiên phải biết trẻ con mười tuổi dạo này thích mốt túi nylon nào, hoặc cửa hàng nào trong số hàng trăm cửa hàng đồ cổ có thứ hàng nào đó mà bà đã nhìn thấy. Tuy nhiên sáng nào tôi cũng ngoan ngoãn chép lại các tin nhắn từ băng ghi âm – một việc không đơn giản, vì tôi phải tua đi tua lại đoạn băng hàng chục lần mới hiểu được giọng Anh của bà cũng như tinh thần của các mệnh lệnh mà không phải trực tiếp hỏi lại cho rõ.
Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị Emily gọi Miranda hỏi lại, và hình phạt là tia nhìn giết người của cô. Trực tiếp hỏi Miranda cho rõ chuyện là một việc không tưởng. Tốt nhất là cứ lọ mọ làm tiếp và sau đó nghe chửi vì lại hiểu sai lệnh. Tôi mất hai ngày rưỡi đi tìm cái tủ đồ cổ cánh cong mà Miranda thích, bắt xe chở đi vòng quanh Manhattan và chạy dọc hai chiều công viên. Bỏ qua đại lộ York (toàn nhà ở) lên phố 1, xuống phố 2, lên phố 3, xuống Lex. Bỏ qua Park (cũng toàn nhà ở) nhưng vẫn lên Madison rồi lặp lại từ đầu bên West Side. Trong tay bút giấy lăm lăm, mắt như cú vọ, sổ điện thoại mở sẵn trên đùi và sẵn sàng lao ra khi thấy một cửa hàng bán đồ cổ. Tôi đích thân vào từng cửa hàng kể cả nhiều hiệu bán đồ mới. Tới hiệu thứ tư thì tôi đã tìm ra kỹ thuật hỏi.
“Xin chào, ở đây có tủ cánh cong cổ không ạ?” Vừa qua cửa là tôi đã réo lên. Tới cửa hàng thứ sáu, tôi dừng chân ngoài cửa. Một con bé bán hàng nhìn tôi từ đầu xuống chân – chuyện dễ hiểu! – ước lượng xem có bõ công trả lời tôi không. Sau đó thì đa số cũng nhìn thấy chiếc Limousine đợi tôi ngoài đường và miễn cưỡng đáp “có” hay “không”. Vài người khác còn bắt tôi miêu tả chi tiết loại tủ muốn tìm.
Nếu họ có đồ gỗ đúng như tôi hỏi bằng hai từ (tủ + cổ) tôi tiếp ngay: “Miranda Priestly hôm nọ mới vào đây phải không ạ?” Ai trước đó chưa đoán là tôi dở hơi thì bây giờ cũng chuẩn bị gọi cảnh sát. Nhiều người chưa nghe tên ấy bao giờ, tôi càng vui vì hai lẽ: thứ nhất là tôi được gặp những người bình thường, cuộc đời họ không bị Miranda chế ngự, sau nữa là tôi có thể đi ngay mà không phải tranh luận dài dòng. Những người ngô nghê có biết tên Miranda thì dỏng ngay tai lên. Nhiều khi họ muốn biết tôi là phóng viên cho tờ lá cải nào. Dù cho tôi bịa ra chuyện gì thì cũng chẳng ai thấy mặt bà ở cửa hàng của họ (trừ ba cửa hàng đã không thấy mặt bà từ vài tháng rồi, ôi, sao lâu quá chưa thấy đến lại! Xin chuyển lời chào nồng nhiệt của Franck/Charlotte/Sarabeth nhé!)
Sau khi hoài công đi tìm, trưa ngày thứ ba Emily bật đèn xanh cho phép tôi đến văn phòng hỏi Miranda lần nữa. Xe đỗ trước tòa nhà là tôi đã túa mồ hôi, và khi Eduardo không mở ngay cửa xoay thì tôi dọa sẽ trèo qua. Tôi lên tầng, áo ướt đẫm, tay run rẩy khi vào đến văn phòng, lúng túng quên tiệt những câu đã sắp sẵn trong óc để trình bày (Chào Miranda, tôi khỏe, xin cám ơn. Bà có khỏe không? Vâng, tôi muốn trình bày là tôi đã vất vả đi tìm cửa hàng đồ cổ như bà nói nhưng không gặp may. Bà có thể cho biết là nó bên Tây hay Đông Manhattan được không ạ? Hay bà nói lại lần nữa tên cửa hàng là gì ạ?). Thay vì viết ra giấy các câu hỏi và đem nộp như thường lệ, tôi xin gặp bà trực tiếp ở bàn giấy, và – có lẽ bị bất ngờ vì tôi không được hỏi mà vẫn lên tiếng – bà đồng ý cho gặp. Phần cuối tôi tóm gọn lại như sau: Miranda thở dài và chặc lưỡi và chán nản một cách lịch thiệp rất riêng của bà, rốt cuộc bà mở cuốn sổ da Hermès màu đen ghi kế hoạch (buộc bằng chiếc khăn Hermès trắng một cách bất tiện nhưng rất đẹp) và lấy ra… tấm danh thiếp của cửa hàng.
“Aan-dree-aa, tôi đã đọc địa chỉ cửa hàng cho chị vào băng rồi mà. Tôi nghĩ là khó khăn gì mà chị không chép lại chứ?” Tôi ước gì được vớ lấy tấm thiếp và quật lên mặt bà ta, song chỉ lẳng lặng gật đầu nghe lời trách cứ. Khi nhìn thấy địa chỉ trên thiếp, thiếu chút nữa thì tôi phát điên: 244 phố 68! Thảo nào tôi không tìm ra. Tôi mất toi ba mươi ba tiếng đồng hồ đi tìm cửa hàng ở một khu phố khác hẳn!
Tôi cứ nghĩ đến chuyện này trong khi chép lại những tin nhắn đêm qua của bà. Sau đó tôi vội xuống tầng trệt để nhận đồ ở chỗ hẹn với Yuri. Mỗi sáng ông báo chính xác địa điểm đỗ xe, nhưng tôi có nhanh chân đến mấy thì khi xuống đến nơi Yuri cũng đã lấy hết đồ khỏi xe và khuân vào nhà để tôi đỡ mất công tìm ông lâu. Hôm nay cũng thế. Ông đã đứng đợi tôi như một người ông hiền từ ở tiền sảnh trước cửa xoay, tay ôm đầy túi nylon, quần áo và sách báo.
“Đừng chạy nhanh thế, nghe chưa,” ông nói đặc giọng Nga. “Suốt ngày tôi thấy chị chạy và chạy và chạy, chị vất vả quá đấy. Vì vậy tôi đem đồ tận tay cho chị,” ông giúp tôi chất hết các túi và hộp lên tay. “Chị là một cô bé ngoan, nghe chưa. Chúc chị một ngày tốt lành.”
Tôi nhìn ông đầy hàm ơn, ngó qua Eduardo với tia mắt nửa đùa nửa thật báo hiệu tôi sẽ bóp cổ ông nếu ông lại định bắt tôi diễn trò như mọi hôm, và bằng lòng thấy Eduardo nhấn nút cho tôi qua cửa xoay mà không nói một lời nào. Lạ lùng là tôi nhớ đảo qua quầy Ahmed để nhận báo. Mặc dù phòng báo chí cứ chín giờ sáng là chuyển báo cho Miranda, tôi vẫn phải lấy thêm một tập để bảo đảm cho bà không phải ngồi ở bàn lấy một giây thiếu báo đọc. Các tuần san cũng thế. Dường như không ai ngạc nhiên khi chúng tôi mua mỗi ngày chín tờ nhật báo và mỗi tuần bảy tạp chí cho bà sếp vốn chỉ quan tâm tới cột buôn chuyện và thời trang.
Trước hết tôi đẩy tất cả xuống gầm bàn, vì đã đến giờ đặt hàng rồi. Tôi quay số đã thuộc lòng của cửa hàng điểm tâm cao cấp Mangia ở trung tâm. Như mọi khi, Jorge nhấc máy.
“ Chào ông anh, em đây,” tôi kẹp ống nghe dưới cằm để rảnh tay kiểm tra e-mail. “ Ta bắt đầu nào.” Jorge và tôi rất thân nhau. Sáng nào cũng gọi điện cho nhau bốn, năm lần thì người ta dễ thành bạn.
“ Chào bé con. Anh cho một cậu đến ngay chỗ cô đây. Bà ấy đến chưa?” Anh hỏi. Dù biết “ bà ấy” là bà sếp điên dở của tôi và làm ở Runway, nhưng chắc anh không rõ người sắp dùng đồ ăn sáng mà tôi vừa đặt là người như thế nào. Jorge là một trong những người mà tôi ưa gọi điện buổi sáng. Eduardo, Juri, Jorge và Ahmed đảm bảo cho ngày làm việc khởi đầu tử tế. Điểm hay nhất ở họ là thật ra họ chẳng liên quan gì tới Runway, dù là sự tồn tại của họ có vẻ như chỉ xoay quanh việc kiến tạo cuộc sống hoàn hảo cho bà sếp của tôi. Không ai trong họ mảy may biết gì về quyền lực và danh tiếng của Miranda.
Gói quà sáng đầu tiên chỉ mấy giây sau là lên đường tới 640 Madison, song chắc cũng bị ném vào thùng rác ngay. Mỗi sáng Miranda dùng bốn lát ba chỉ dày mỡ, hai xúc xích nhỏ, pho mát, và cho tất cả xuống dạ dày theo một cốc cà phê sữa to đùng của Starbucks ( nhớ thêm hai viên đường mía!) Ở văn phòng, mọi người tranh cãi nhau về chuyện này. Người thì bảo Miranda luôn theo chế độ ăn kiêng kiểu Atkins, người khác cho rằng bà là người hạnh phúc vì bộ gene trao đổi chất siêu việt. Dù thế nào thì bà cũng không tăng lấy một gam trong khi ăn những đồ nhiều mỡ nhất, nhiều đường nhất, bổ béo nhất thế giới – một tội lỗi mà không người bình thường nào dám phạm. Vì quà sáng chỉ giữ nóng tối đa được mười phút, tôi liên tục đặt mới cho đến khi bà có mặt, đồ cũ cho vào thùng rác. Đã có lần tôi làm nóng lại trong lò vi sóng, chỉ mất có năm phút thôi ( nhưng đã bị gọi: Aan-dree-aa, tởm quá. Chị lấy cho tôi đồ tươi đi.”) Cứ khoảng hai mươi phút là tôi lại đặt đồ mới, cho đến khi bà gọi từ điện thoại di động sai tôi đặt đồ ăn sáng (Aan-dree-aa, tôi sắp đến văn phòng. Gọi quà sáng đi.”)
Điện thoại đổ chuông. Giờ này chỉ có thể của Miranda.
“ Văn phòng Miranda Priestly đây”, tôi ríu rít, không mong đợi gì tốt lành.
“ Emily, mười phút nữa tôi đến nơi, chị nhớ làm quà sáng sẵn sàng.”
Bà đã quen gọi cả hai chúng tôi cùng là Emily, qua đó cho thấy – hoàn toàn có lý – hai người chẳng khác nhau điểm nào và hoàn toàn có thể tráo cho nhau được. Tôi thấy khá bị xúc phạm, tuy đến hôm nay cũng đã quen dần. Thêm nữa là cũng quá mệt mỏi để thực sự bực mình vì mấy trò vặt vãnh như bị gọi sai tên.
“ Vâng, Miranda, xong ngay.” Nhưng bà đã chấm dứt. Emily chính cống bước vào văn phòng.
“Ê, Miranda đến chưa?” Cô thì thào.Như mọi khi, cô len lén ngó về phía cửa phòng Miranda và không thèm phí một câu chào, giống hệt sếp.
“ Không, nhưng vừa gọi điện báo là mười phút nữa đến nơi. Tôi quay về ngay.”
Tôi đút điện thoại và bao thuốc vào túi áo khoác và lao ra ngoài. Mười phút, không hơn không kém, tôi có đúng chừng ấy thời gian để xuống tầng dưới, chạy qua quảng trường Madison đi mua cà phê rồi quay lại bàn giấy – dọc đường còn kịp rít điếu thuốc ngon lành đầu tiên trong ngày. Di tắt mẩu thuốc, tôi luôn vào hiệu Starbucks góc phố 57 vá Lex. Tôi ngắm hàng người mua: nếu không nhiều hơn tám người thì tôi xếp hàng như một khách hàng bình thường. Nhưng hầu như hôm nào cũng như hôm nay, có đến hai chục người lao động tội nghiệp hoặc nhiều hơn đang xếp hàng đợi liều cafein đẳt đỏ, và tôi phải chen hàng. Chẳng hay ho gì trò này, nhưng hình như Miranda không chịu hiểu là người ta không chỉ từ chối đưa cà phê sữa của bà đến tận nơi mà lúc đông người tôi mất đến nửa tiếng mới đến lượt. Mấy tuần liền tôi bị bà hành hạ qua điện thoại di động ( Aan-dree-aa, tôi không thể hiểu được. Tôi gọi chị trước hai mươi lăm phút là tôi sắp đến, thế mà quà sáng vẫn chưa xong. Không thể chấp nhận được.”) Tôi xin gặp cô chủ cửa hàng.
“ Chào bà, cám ơn chị có vài phút tiếp chuyện,” tôi nói với người phụ nữ da đen nhỏ nhắn. “ Tôi biết là chuyện này nghe hơi kỳ quái, tôi chỉ muốn hỏi chị, liệu có cách nào đó để tôi được phục vụ nhanh hơn một chút không?” Tôi lấy hơi để giải thích rằng tôi làm việc cho một bà sếp quan trọng và cứng đầu, không chấp nhận phải đợi cốc cà phê sáng. May quá. Cô chủ hiệu Marion đang học thêm buổi tối ở lớp tạo mốt.
“ Trời ạ, tôi không nghe nhầm chứ? Chị làm việc cho Miranda Priestly? Và bà ấy dùng cà phê sữa của hiệu tôi? Cốc lớn? Sáng nào cũng thế? Thế mà tôi không biết. Vâng, vâng, tất nhiên rồi. Được ngay thôi. Tôi sẽ nói với nhân viên là chị luôn luôn được phục vụ đầu tiên. Chị không phải bận tâm gì cả. Bà ấy là nhân vật số một trong giới thời trang đấy,” Marion hăng hái nói, và tôi cũng cảm ơn nồng nhiệt.
Và thế là tôi được thản nhiên lướt qua mặt những người New York mệt mỏi, cáu kỉnh và tự mãn đang rồng rắn xếp hàng từ lâu. Tôi chẳng vui thú hay kiêu hãnh gì, thậm chí còn ghét mỗi khi phải làm trò này, nhất là những hôm hàng dài đằng đặc như hôm nay. Để chuộc lỗi, tôi không đặt một cốc mà mua cả khay bưng ra. Mạch đập thình thịch, mắt cay; tôi cố quên đây là cuộc đời mình sau mấy năm trời học văn thơ và tốt nghiệp điểm cao. Thay vào đó là đi đặt cốc cà phê sữa lớn cho Miranda cộng thêm vài cốc cho mình. Tôi đặt một cốc Grande Amaretto Cappuccino, một Mocha Frappuccino và một Caramel Macchiato lên khay, lấy thêm nửa tá bánh flan và bánh sừng bò, tổng cộng tốn hết 28,83 dollar. Tôi cho hóc đơn vào ngăn riêng trong cái ví chật cứng để thanh toán với Elias Clark mà chưa bao giờ bị hỏi han lâu la.
Bây giờ phải rảo cẳng lên, vì từ lúc Miranda gọi điện đến giờ đã hai mươi phút trôi qua. Chắc chắn Miranda đã ngồi đó và bực dọc tự hỏi, sáng nào tôi cũng biến đi đâu lâu thế ( logo của Starbucks trên cốc lẽ ra đã đưa lại cho bà câu trả lời). Nhưng trước khi tôi kịp bưng các thứ lên thì đã có chuông điện thoại. Tim tôi đập rộn, lần nào cũng thế. Tôi biết nhất định đó là Miranda. Rõ quá, nhưng tôi vẫn hoảng. Số máy hiện ra khắng định phỏng đoán của tôi, nhưng tôi ngạc nhiên nghe giọng Emily – cô gọi từ máy của Miranda.
“ Sếp đến rồi, đang điên tiết,” cô thì thầm. “ Chị chạy đi đâu thế?”
“ Tôi không nhanh hơn được,” tôi càu nhàu, cố bưng khay cho cân, một tay giữ túi bánh, tay kia cầm điện thoại.
Tôi và Emily giờ đây được nối bằng sự phản cảm mãnh liệt. Từ khi cô lên chức trợ lý trưởng thì chủ yếu tôi làm trợ lý riêng cho Miranda. Tôi gọi đồ ăn thức uống, giúp hai cô bé làm bài về nhà , sục sạo khắp thành phố để kiếm loại bát đĩa thích hợp cho bà tổ chức mời khách ăn tiệc. Emily lo tính toán chi tiêu, đặt vé máy bay, vài tháng một lần đặt mua áo quần mới cho Miranda – nhiệm vụ lớn nhất. Buổi sáng, khi tôi ra ngoài chạy việc thì một mình Emily phải canh văn phòng, bắt điện thoại và sẵn sàng phục vụ Miranda mọi bề. Tôi ghen ghét với Emily được mặc áo không tay trong văn phòng, vì chị không phải rời phòng ấm áp mỗi ngày sáu lần để chạy khắp New York lạnh như cắt ruột. Chị ghen ghét với tôi được rời khỏi văn phòng và luôn lợi dụng được vài phút để gọi điện nói chuyện riêng hay hút thuốc.
Thông thường thì đường về văn phòng lâu hơn đường đến Starbucks, vì tôi còn phải đi phân phát cà phê và bánh. Tôi đem cho một nhóm người vô gia cư, mấy người mà tôi đã quen mặt ở phố 57. Họ ngồi vất vưởng trên các bậc thang, ngủ trong lối đi vào nhà và trốn tránh nỗ lực của thành phố muốn dọn họ đi. Cảnh sát hay đi lùng vào sáng sớm, khi chưa có nhiều người ngoài phố, nhưng lúc tôi đi mua cà phê lần đầu thì họ vẫn còn đấy. Thật phấn chấn và thích thú khi thấy món cà phê đắt lòi mắt do Elias Clark tài trợ được đem đến cho những người bị thành phố hắt hủi nhất.
Người đàn ông hôi mùi nước tiểu ngủ trước nhà băng Chase ngày nào cũng được uống Mocha Frappuccino. Ông không bao giờ thức giấc khi tôi đặt cốc xuống cùi tay ông ( có ống thuốc! tất nhiên!) nhưng mấy tiếng sau, khi tôi đi mua cà phê lần nữa thì cà phê biến mất – cùng với ông già.
Cốc Caramel Macchiato dành cho bà già có xe mua hàng và tấm biển KHÔNG NHÀ/ TÌM VIỆC/ ĐÓI. Sau này tôi biết tên bà là Theresa, mới đầu tôi hay bưng cho bà một cốc lớn cà phê sữa như của Miranda. Bà luôn cảm ơn, nhưng không bao giờ uống một ngụm khi cà phê còn nóng. Một hôm tôi hỏi, liệu có phải bà không thích cà phê. Bà lắc đầu quầy quậy và móm mém nói là bà đâu có tính kén chọn, nhưng cà phê đặc quá và bà ưa uống ngọt hơn. Hôm sau tôi đem cho bà có vị vani và kem béo. Như thế đúng hơn? Vâng, ngon hơn nhiều, nhưng lần này có lẽ hơi bị ngọt quá. Hôm sau nữa thì tôi gãi đúng chỗ ngứa: không pha thêm vị gì, chỉ thêm một chút kem béo và si rô mạch nha. Theresa cười, miệng gần rụng hết răng, từ hôm đó uống hết ngay khi tôi đem cà phê đến.
Cốc thứ ba cho Rio, người Nigeria, anh ngồi trên tấm chăn và bán CD. Có vẻ như anh không phải vô gia cư, nhưng một lần tôi đem khẩu phần hằng ngày cho Theresa thì anh đi tới và hỏi, hay đúng hơn là hát: “ Chị là cô tiên của Starbucks à? Phần tôi đâu?” Hôm sau tôi biếu anh một cốc Caramel Macchiato và từ đó chúng tôi thành bạn.
Mỗi ngày tôi chi lạm 24 dollar tiền cà phê ( cà phê sữa cho Miranda chỉ có giá hơn bốn dollar), thêm một cú đá ngầm của riêng tôi vào công ty, vì tôi đem đồ ăn thức uống cho những kẻ bẩn thỉu, hôi hám và điên dở - chứ không phải vứt tiền của Miranda đi theo nghĩa đen.
Tôi vào đến tiền sảnh khi Pedro, người Mexico giao hàng của Mangia, đang tán gẫu với Eduardo trước dãy thang máy.
“ Xin chào, cô bé yêu của chúng ta đến kìa,” anh nói, mấy con bé tọc mạch ngoái cổ lại nhìn. “ Mọi thứ đây, như mọi khi, ba chỉ, xúc xích và món pho mát kinh dị. Hôm nay chị chỉ gọi có một lần. Đồ ăn chị cho đi đâu hết, trông chị gầy thế kia,” anh cười. Gầy! Tôi mà gầy? Anh chàng này chẳng biết gì. Pedro biết rõ là đồ ăn không phải mua cho tôi. Nhưng cũng giống như mọi người tôi gặp trước tám giờ, anh không biết các chi tiết. Tôi ấn vào tay anh tờ 10 dollar cho gói quà sáng giá 3.99 và đi lên tầng.
Miranda đang gọi điện khi tôi vào phòng. Chiếc áo khoác Gucci bằng da rắn của bà nằm vắt ngang bàn tôi. Máu tôi dồn lên mặt. Mất gì mà bà không đi thêm hai bước, mở tủ tường và treo áo mình vào đó, thay vì quẳng nó lên bàn tôi? Tôi đặt cốc cà phê xuống, ngó qua Emily đang đồng thời bận bịu với ba máy điện thoại rồi đem chiếc áo da rắn đi treo. Chiếc măng tô của tôi thì đút xuống gầm bàn, vì tôi không muốn nó treo trong tủ làm nhiễm trùng áo sếp.
Tôi lấy hai viên đường mía, thìa và khăn ăn từ ngăn kéo ra và phải rất cố kiềm chế mình để khỏi nhổ một bãi vào cốc cà phê. Sau khi để mấy lát mỡ béo, xúc xích căn tròn và miếng “ pho mát kinh dị” lên một đĩa sứ nhỏ, tôi chùi tay vào mấy đồ giặt còn giấu dưới bàn ( để Miranda không biết là chúng chưa được lấy đi). Về lý thuyết thì lẽ ra ngày nào tôi cũng phải rửa đĩa bằng nước nóng trong bếp, nhưng đơn giản là tôi không sao làm nổi. Đóng vai ô sin riêng của Miranda trước mặt bàn dân thiên hạ thì nhục quá. Do đó tôi lấy khăn giấy chùi đĩa, lấy móng tay cào chỗ pho mát dính trên đĩa. Nếu đĩa dính bẩn quá thì tôi lấy một ít San Pellegrino rỏ vào cho mềm. May cho Miranda là tôi không sử dụng cồn lau màn hình máy tính! Những suy nghĩ kiểu ấy chứng tỏ đạo đức của tôi đã đạt mức suy đồi tệ hại. Tôi chỉ thấy khiếp sợ, tại sao quá trình này diễn ra nhanh thế.
“ Nhớ là tôi muốn các người mẫu cười,” tiếng bà vang lên trong phòng. Nghe giọng thì biết là Miranda đang gọi điện cho Lucia, phụ trách thời trang trong buổi chụp ảnh sắp tới ở Brazil. “ Tôi muốn thấy các cô gái hạnh phúc, cười rạng rỡ, khỏe mạnh. Không được mặt mũi đăm chiêu, cau có, nhăn nhó, không đánh phấn màu tối. Tôi muốn họ tỏa sáng. Nhớ chưa Lucia: chớ làm sai một li!”
Tôi vào phòng, đặt đĩa đồ ăn và cà phê lên bàn, khăn ăn, đường và thìa bên cạnh. Bà không thèm nhìn tôi. Tôi đợi một lát xem bà có đưa tài liệu nào để gửi fax hay lưu trữ, nhưng bà lờ đi và tôi lại ra khỏi phòng.
Tám rưỡi. Tôi ra khỏi giường cách đây ba giờ và mệt rũ như đã làm việc suốt mười hai tiếng; vừa định kiểm tra hộp thư điện tử lần nữa thì Miranda đi ra. Chiếc áo khoác buộc thắt lưng làm nổi rõ đáy lưng ong và làm chiếc váy bó sát của bà càng đẹp lý tưởng. Bà lên cơn thịnh nộ.
“Aan-dree-aa! Cà phê nguội ngắt. Tôi không hiểu tại sao. Chắc chắn chị đi lâu quá. Lấy cho tôi cốc khác.”
Tôi hít hơi thật sâu và cắn răng không để lộ nét căm ghét ra mặt. Miranda đặt cốc cà phê bị chê lên bàn tôi và mở cuốn tạp chí Vanity Fair số mới nhất do một nhân viên gửi lại cho bà trên bàn tôi. Tôi cảm nhận được tia mắt của Emily có lẽ pha trộn giữa thông cảm và tức giận. Một mặt, cô thương tôi phải chạy ra ngoài lần nữa mua cà phê, nhưng mặt khác cô bực mình vì tôi không chịu tươi cười chấp nhận một điều bất khả kháng. Chả gì thì hàng triệu cô gái khác sẵn sàng xin chết để được làm công việc của tôi.
Với một tiếng thở dài không thể không nghe thấy, nhưng cũng không bị hiểu là công khai phản kháng, tôi chui vào chiếc măng tô và đi ra thang máy. Chuyện đã rõ ràng: hôm nay sẽ lại là một ngày rất, rất dài.
Chuyến đi mua cà phê lần thứ hai trôi chảy hơn lần đầu nhiều. Ở Starbucks không còn đông người nữa, và Marion bắt đầu rót ngay cốc cà phê sữa khi cô thấy tôi đi vào. Lần này tôi không mua nhiều thứ, tôi muốn hoàn thành công việc thật nhanh và quay về bàn của mình, chỉ lấy thêm cho Emily và tôi mỗi người một cốc Cappuccino. Tôi vừa định trả tiền thì có chuông điện thoại. Con mụ chết tiệt này. Không biết cách cư xử, kiên nhẫn và tôn trọng ai cả. Tôi ra ngoài chưa đầy bốn phút, cớ gì mà bà ta phải làm ầm lên? Tôi giữ khay cà phê bằng một tay, tay kia thọc vào túi áo măng tô tìm điện thoại. Tôi quyết định châm một điếu thuốc để phản kháng trò đàn áp nô lệ này thì thấy số máy gọi đến là số ở nhà Lily.
“ Tớ có quấy cậu không?” Cô hỏi. Giọng cô nóng vội. Tôi nhìn đồng hồ. Tại sao giờ này cô lại ở nhà mà không đến trường?
“ Không sao, tớ đang đi mua cà phê lần thứ hai. Có chuyện gì thế? Giờ này cậu đang ở trường mới đúng chứ?”
“ Ừ, chính ra là thế. Nhưng tối qua tớ đi chơi với T-shirt-hồng và rất tiếc đã uống vài ly Margarita quá mức bình thường. Nói chính xác hơn là tám ly. Hắn còn ngủ, và tớ không muốn tự dưng bỏ đi. Nhưng tớ gọi cậu vì một chuyện khác.”
“ Sao nữa?” Tôi không tập trung nghe lắm. Một chiếc cốc giấy đựng Cappuccino đã bắt đầu ngấm ra ngoài, và với chiếc điện thoại kẹp dưới cằm thì phải thật khéo léo mới dùng một tay moi được điếu thuốc và châm lửa.
“ Ông chủ nhà của tớ tám giờ sáng nay đến gõ cửa và nói rằng tớ phải ra khỏi nhà,” cô nói giọng vui vẻ.
“Ra khỏi nhà à? Nhưng tại sao, Lily? Bây giờ cậu định làm gì?”
“ Chắc là họ biết tớ không phải Sandra Gers, và cô ta không sống ở đây từ sáu tháng nay. Tớ không có họ với cô ấy, vì vậy không được thuê tiếp căn hộ được xã hội trợ giá. Chuyện ấy tớ biết ngay từ đầu, do đó tớ vẫn mang tên cô ta. Chẳng hiểu tại sao họ lại phát hiện ra. Nhưng chuyện cũng đã xảy ra rồi. Bây giờ tớ có một ý rất hay. Tại sao bọn mình không đến ở cùng nhau nhỉ? Phòng của cậu ở chỗ Shanti và Kendra thuê từng tháng một, đúng không? Và cậu dọn đến đó vì không có chỗ nào khác, đúng không?”
“ Đúng.”
“ Okay. Vậy thì bọn mình cùng tìm một chỗ hợp lý!”
“Tuyệt” Tôi nói hơi to quá, mặc dù đúng là cũng thích kế hoạch của cô.
“Vậy là cậu đồng ý rồi nhé?” Cô nói, nghe chừng đã bớt phấn khởi một chút.
“Nhất định rồi, Lily. Sáng kiến của cậu rất hay. Tiếc là tớ không nhảy lên vì sung sướng được, vì tớ đang đứng ngoài mưa và cà phê nóng bỏng đang chảy dọc cánh tay trái…” Píp píp. Có một cuộc gọi khác đang chờ. Suýt nữa tôi phải bỏng vì điếu thuốc trong khi cầm điện thoại lên xem số điện gọi đến. Đó là Emily.
“Chết tiệt, Lily, Miranda gọi. Tớ phải chấm dứt đây, chúc mừng cậu bị đuổi khỏi nhà! Tớ rất mừng cho hai chúng mình. Lát nữa tớ gọi lại, okay?”
“Okay, thế thì…”
Tôi đã chuyển kênh và chuẩn bị tinh thần nghe chửi.
“Lại tôi đây,” Emily cay nghiệt. “Chị biến đi đâu vậy? Việc của chị chỉ là mua cà phê, có gì ghê gớm đâu. Chị quên là ngày xưa tôi làm việc này của chị, và tôi biết là không thể lâu đến mức ấy…”
“Gì cơ?” Tôi lớn tiếng hỏi và che ngón tay lên máy. “Có chuyện gì thế? Tôi không nghe thấy gì cả. Chị có nghe thấy tôi nói không? Một phút nữa tôi về!” Tôi gập máy lại và dúi thật sâu vào túi áo. Sau đó tôi vứt điếu thuốc Marlboro vừa châm xuống vỉa hè, chạy vội về văn phòng.
Miranda lần này rộng lòng chấp nhận cốc cà phê sữa hơi nóng hơn một chút. Từ mười đến mười một giờ, bà không gọi Emily và tôi lần nào, vì còn mải tán chuyện điện thoại với Mr. Mờ-Cờ-Đờ. Về danh chính ngôn thuận thì tôi mới làm quen chồng bà tuần trước, vào tối thứ Tư khi đến nộp SÁCH. Tôi vào đến sảnh khi ông đang lấy măng tô khỏi tủ. Mười phút liền ông lảm nhảm kể cho tôi về “Mr. Tomlinson”. Sau lần gặp gỡ ấy ông luôn đối xử đặc biệt ân cần với tôi, hỏi thăm sức khỏe và khen tôi làm việc tốt. Đương nhiên là sự thân mật đó không hề lây sang vợ ông.
Tôi toan gọi sang bên quan hệ đại chúng để kiếm vài đồ tử tế mặc trong văn phòng thì giọng Miranda lanh lảnh dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ: “Emily, ăn trưa”. Emily thứ thiệt gật đầu ra hiệu: việc của tôi. Tôi bấm số điện đã lưu của Smith and Wollensky, ở đầu dây bên kia là cô nhân viên mới.
“Chào Kim. Đây là Andrea, văn phòng Miranda Priestly. Sebastian có đấy không?”
“Xin chào. Xin cho biết tên một lần nữa.” Mỗi tuần hai lần, tôi gọi điện đúng vào giờ này, vậy mà lần nào cô ta cũng như không biết tôi là ai.
“Văn phòng Miranda Priestly. Runway. Tôi không muốn tỏ ra khiếm nhã” – đúng thế - “nhưng tôi khá vội. Chị nối máy cho tôi với Sebastian được không?” Gặp một nhân viên khác thì nhất định tôi sẽ nhờ chuyển tiếp các món Miranda vẫn đặt, nhưng cô Kim này quá tối dạ, vì vậy tôi có thói quen nói trực tiếp với chủ nhà hàng.
“Xin đợi một chút. Tôi xem ông ấy có thì giờ nói chuyện không.” Tất nhiên là có, cứ tin tôi đi cô Kim. Ông ấy sống nhờ vào Miranda Priestly đấy.
“Andy thân mến. Cô có khỏe không?” Giọng Sebastian như gió thoảng. “Tôi hi vọng được chị gọi vì bà tổng biên tập thời trang yêu mến của chúng ta muốn ăn trưa, đúng không?”
Không hiểu ông ta phản ứng ra sao, nếu tôi cho phép đùa ông là bữa trưa này không phải cho Miranda mà là cho tôi? Smith and Wollensky đâu phải là một hiệu cung cấp pizza, mà là nhà hàng năm sao, và chỉ cho phép nữ hoàng hưởng một ngoại lệ.
“Vâng, đúng thế. Miranda vừa nói là bà muốn thử đặc sản của nhà hàng ông, và gửi ông lời chào thân ái.” Có lẽ cả đời Miranda không thốt ra mấy lời sến như thế, nhưng Sebastian là một fan lớn của bà nên tôi muốn dành cho ông niềm vui nho nhỏ này. Ông khúc khích cười rất xúc động.
“Tuyệt vời! Cực kỳ tuyệt vời! Chúng tôi bắt đầu ngay đây. Chị đến lấy thức ăn lúc nào cũng được,” giọng ông vui vẻ tươi tắn. “Và tất nhiên hãy cho tôi gửi đến bà lời chào thân ái!”
“Nhất định rồi, tôi sẽ chuyển ngay, xin chào ông.”
Nịnh ông một chút cũng bõ công, vì ông giúp tôi rất nhiều và đỡ việc cho tôi. Hôm nào Miranda không đi ăn, tôi dọn bữa cho bà trong văn phòng, và cất giữ trong tủ lạnh mấy thứ bát đĩa sứ cho mục đích này. Chủ yếu đó là hàng mẫu của các bộ đồ ăn mới do các nhà tạo mốt gửi đến, phần còn lại lấy từ căng tin. Kiếm khay, dao cắt bít tết và khăn ăn vải lanh thì quá phiền phức, tôi bảo Sebastian cung cấp luôn. Lại một lần nữa trong ngày tháng Hai lạnh lẽo và xám xịt này, tôi khoác lên người chiếc măng tô len đen, đút điện thoại và thuốc lá vào túi rồi đi ra ngoài. Mặc dù đi bộ đến nhà hàng chỉ mất mười lăm phút, tôi vẫn suy nghĩ có nên gọi ôtô không. Nhưng khi hít vào phổi không khí trong lành thì tôi thay đổi ý định, châm một điếu thuốc và lên đường. Không rõ vì khói hay vì gió lạnh nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn.
Vào mùa này ít khi gặp nhiều khách du lịch lang thang đi lại. Ngày xưa tôi hay bực mình về những người vừa đi vừa gọi điện thoại, nhưng bây giờ chính tôi cũng có thói quen xấu đó. Tôi rút điện thoại và gọi đến trường của Alex, nếu trí nhớ kém cỏi của tôi không nhầm thì giờ này có thể anh đang nghỉ trưa ở phòng giáo viên.
Sau hai hồi chuông, thì tôi nghe một giọng phụ nữa rất chua trả lời.
“Alô, trường phổ thông số 277, tôi là Mrs. Whitmore. Quý vị cần gì?”
“Tôi muốn gặp Alex Feinman.”
“Cho phép tôi hỏi chị là ai?”
“Tôi là Andrea Sachs, bạn gái của Alex. ”
“A, Andrea đấy à. Chúng tôi đã nghe kể nhiều về chị. ” Giọng bà không có vẻ vui, thậm chí ngược lại.
“Ồ, thế ạ? Xin cám ơn. Tôi cũng được nghe kể nhiều về bà Miranda Priestly. Vâng, Alex rất mến các đồng nghiệp ở trường.”
“Cám ơn chị. Andrea, tôi muốn nói là, hình như chị có công việc rất thú vị, khi được làm cho một phụ nữ tài năng như vậy. Chị là người rất may mắn đấy.”
Vâng, Mrs. Whitmore, tôi là người nhiều may mắn. Bà không biết tôi may mắn đến mức nào đâu. Nếu bà biết là mới ngày hôm qua tôi được phép đi mua tampon cho bà sếp của tôi và sau đó được biết là mua nhầm loại và tôi chẳng biết làm gì cho tử tế cả. May mắn là chữ duy nhất khả dĩ đúng với cảm nhận của tôi vào mỗi bu
Bình luận truyện