Resident Evil 1 - Âm Mưu Của Tập Đoàn Umbrella
Chương 13
Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord
Alma, em yêu!
Anh ngồi đây và cố nghĩ xem phải bắt đầu từ đâu, phải làm thế nào để giải thích chỉ bằng vài từ đơn giản về tất cả những thứ đã xảy ra trong cuộc sống của anh từ lúc chúng ta gặp nhau lần cuối, và anh đã thất bại. Anh hi vọng em sẽ dễ dàng nhận được bức thứ này với đầy đủ nội dung, và em sẽ tha thứ cho những gì mà anh viết; thật là không dễ dàng cho anh. Ngay cả khi anh viết, những lỗi lầm đó vẫn hiện ra, làm anh tuyệt vọng và lẫn lộn, nhưng anh vẫn phải kể cho em những gì trong tim anh trước khi anh yên nghĩ. Hãy kiên nhẫn, và chấp nhận những gì mà anh nói là sự thật.
Phải tốn nhiều thời gian để anh có thể kể hết toàn bộ câu chuyện cho em nghe, nhưng không còn thời gian nữa, vì thế em hãy chấp nhận mọi thứ cũng như việc: tháng truớc, đã có một tai nạn xảy ra trong phòng thí nghiệm và virus mà bọn anh nghiên cứu đã thoát ra ngoài. Tất cả những đồng nghiệp của anh bị nhiễm virus đều bị chết, và những con virus làm họ sống lại, đồng thời lấy đi ý thức của họ. Virus này lấy đi tính người của các nạn nhân, và làm họ mang một chứng bệnh, luôn phải tìm kiếm và hủy diệt sự sống. Khi anh viết những dòng này, anh có thể nghe được tiếng của họ, đang cố gắng phá cánh cửa phòng anh, chúng giống như một bọn vô hồn, một loài thú hoang khát mồi, đang gào thét điên dại.
Không có từ nào có thể diễn tả được sự đau đớn và xấu hổ của anh bấy giờ, khi anh biết rằng chính mình cũng đã góp phần tạo ra chúng. Anh tin rằng chúng không có cảm giác, không biết sợ và cũng không biết đau đớn, nhưng việc chúng không hề trải qua sự kinh hoàng khi bị biến đổi thành như thế hoàn toàn không giúp anh thoát khỏi gánh nặng lương tâm. Anh, vào lúc này, phải chịu trách nhiệm cho cái ác mộng quay quanh anh. Mặc dù cái ý nghĩ tội lỗi đã khắc sâu vào trong trí nhớ và sẽ ám ảnh anh qua từng giây từng từng phút, anh vẫn có gắng sống sót nếu chỉ để nhìn thấy em một lần nữa. Nhưng những cố gắng của anh chỉ có thể trì hoãn việc tất yếu sẽ xảy ra. Anh đã bị nhiễm, và không có cách nào ngăn chặn sự phát triển của nó - trừ khi tự kết liễu đời mình, trước đây anh đã quên một việc là cách ly anh khỏi chúng. Anh yêu em. Hãy hiểu cho anh và biết rằng anh rất xin lỗi.
Martin Crackhorn
Jill thở dài, nhẹ nhàng đặt tờ giấy nhàu nát lên bàn. Những nhà nghiên cứu đã trở thành nạn nhân cho phát minh của chính họ. Mặc dù đọc một bức thư mang đầy sự thất vọng tràn trề, nhưng bằng khả năng suy luận, dường như cô đã hiểu được những gì đã xảy ra trong ngôi biệt thự. Sau khi đặt cái huy hiệu mặt trời đúng chỗ, cô quyết định rằng văn phòng ở tầng trên cần phải được xem xét với một cuộc tìm kiếm nho nhỏ, cuối cùng cô tìm thấy một cuốn di chúc viết nguệch ngoạc của Crackhorn, được nhét trong ngăn kéo.
Crackhorn, Martin Crackhorn – tên một người trong danh sách của Trent… Jill cau mày, tiến về cánh cửa văn phòng ra ngoài một cách chậm chạp. Trent muốn S.T.A.R.S tìm hiểu những gì đã xảy ra tại ngôi biệt thư trước khi ai khác sẽ làm việc đó, nhưng với những điều ông ta biết về nó, tại sao lại không nói thẳng ra? Và ông ta được gì khi kể cho mình nghe về sự việc xảy ra, về tất cả? Cô bước đi xuyên qua phòng giải lao nhỏ của văn phòng và trở lại văn phòng lớn, vẫn còn nhăn mặt. Lúc nãy Barry đã hành động một cách khác thường, và cần phải tìm ra nguyên nhân tại sao. Có thể cô sẽ có ngay câu trả lời nêu cô hỏi thẳng anh ta…
“…hoặc không - hoặc ít nhất, việc đó sẽ cho mình biết thêm cái gì đó.”
Jill dừng lại chỗ những bậc thang, cô thở sâu và nhận thấy rằng có cái gì đó thay đổi. Cô ngập ngừng nhìn xung quanh, cố tìm ra đó là gì theo sự mách bảo của các giác quan.
Chính là cái lò sưởi. Đúng một phần nhỏ thôi, nhưng rõ ràng là cái lò sưởi. Và không khí thì không hoàn toàn như lúc đầu. Giống như ai đó đã mở một cái cửa sổ. Hoặc có thể là một cánh cửa. Jill rẽ và bước từng bước xuống cầu thang, bất giác muốn kiểm tra lại cái lỗ khóa có hình bốn huy hiệu. Xuống đến những bước cuối cùng của cầu thang, cô thấy một cánh cửa nối với một phòng lớn tiếp theo đã mở. Cô có thể nghe thấy tiếng dế kêu yếu ớt, cảm thấy mùi không khí ban đêm dễ chịu thoang thoảng xuyên qua cái không khí lạnh lẽo hôi hám của ngôi nhà. Cô khẩn trương tới chỗ hành lang tối hơn và rẽ sang phải, cố gắng không hi vọng quá nhiều. Thêm một cái rẽ phải đột ngột khác và cô có thể nhìn thấy cánh cửa choáng cả lối đi đang mở.
“Có thể là chỉ có vậy thôi, chắc gì là bài toán đã được giải quyết xong.”
Jill vụt chạy, cô cảm thấy được sự nóng bức của mùa hè dường như đang chống lại làn da của cô khi cô chạy vòng qua cái ngã rẽ trong con đường đá và được nới rộng ra ở một quãng ngắn, biểu lộ sự vui mừng khi thấy bốn cái huy hiệu đã được đặt vào, cạnh đó cánh cửa đã mở. Một làn gió hiu hiu thổi xuyên qua phòng đã được mở khoá, một cái nhà kho nhỏ để chứa dụng cụ làm vườn. Cánh cửa kim loại trên tường đối diện đang mở, Jill có thể thấy được ánh trăng chiếu qua một bức tường gạch và ở bên kia là một cánh cửa mà bản lề của nó đã rỉ sét. Barry đã đúng, cánh cửa dẫn ra bên ngoài. Họ có thể đã gọi giúp đỡ bây giờ, tìm một con đường an toàn xuyên qua rừng hoặc ít nhất là phát tín hiệu cầu cứu.
“Nhưng nếu Barry tìm thấy mảnh bị mất, tại sao anh ta không đến tìm mình?”
Giọng cười gằn của Jill nhạt dần khi cô bước vào nhà kho, những cái hộp và thùng đầy bụi bị mất đã làm lộ ra những bức tường đá màu xám. Barry biết cô ở đâu, và chính anh ta cũng hứa sẽ gặp lại cô ở tầng hai cánh tây…
Vì thế có thể không phải Barry là người mở cánh cửa. Đúng, có thể đó là Chris hoặc Wesker hoặc một ai khác của đội Bravo. Nếu đúng là như thế, có lẽ cô nên quay lại và tìm Barry.
“Hoặc trước hết nên kiểm tra lại một chút, chắc chắn điều đó sẽ xứng đáng với những cố gắng mình bỏ ra.”
Đó là một cách hợp lý, nhưng cô cũng tự công nhận rằng ý nghĩ quay lại ngôi biệt thự so với việc có thể thoát được đang ở phía trước thì không hoàn toàn hấp dẫn bằng. Cô kiểm tra khẩu Beretta của mình và quyết định bước về phía cánh cửa ở phía ngoài. Thứ đầu tiên làm cô chú ý là tiếng nước chảy xen lẫn với âm thanh nhè nhẹ của rừng làm không khí tràn ngập sự mát mẻ, giống như một thác nước. Cái thứ hai và thứ ba đó là xác hai con chó nằm trên con đường đá bất thường, chúng bị bắn chết.
“Chắc chắn là ai đó trong đội S.T.A.R.S đã đi qua con đường này…”
Jill đi lách qua hai con chó, vào trong một cái sân có vách cao, ở phía dưới hàng rào là những chậu kiểng bằng gạch được đặt ở từng góc. Mây đen kéo đến đè nặng trên đỉnh đầu. Ngang qua cái không gian trống là một cánh cửa có song bằng sắt, bên kia là những bụi cây và bụi rậm nhỏ. Rẽ sang trái là một con đường thẳng được che bóng bởi bức tường gạch cao 10 feet sát hai bên con đường; âm thanh róc rách của thác nước dường như phát ra từ hướng đó, tuy nhiên con đường kết thúc một cách bất ngờ bằng một cánh cửa kim loại cao khoảng vài feet.
“Có thể đây là cầu thang đi xuống?”
Jill cảm thấy do dự, nhìn ngoái lại chỗ ngã rẽ, cánh cổng rỉ sét ở trước mặt cô và tiếp đó là thi thể nhăn nhúm của những con chó bị đột biến. Chúng đều có nhiệm vụ canh giữ cánh cửa hơn là giữ lối đi, và có vẻ như chúng đã bị giết khi đang tấn công, người bắn đã đương đầu với chúng từ hướng đó.
Đột nhiên có tiếng nước bắn tung toé hỗn loạn làm cô chú ý. Jill chuyển hướng và chạy dưới ánh trăng, hi vọng sẽ loáng thoáng thấy ai đã gây ra tiếng ồn đó.
Cô đi tới cuối con đường đá và đi qua cổng, sau đó lùi lại một tí, cô ngạc nhiên bởi người đó đột nhiên đã biến mất. Không có cầu thang, cánh cổng dẫn đến nền một cái thang máy nhỏ và xuống phía dưới là một cái sân nhà rộng khoảng 20 feet.
Tiếng nước bắn tắt hẳn khi đến ngã rẽ phải, Jill nhìn xuống và băng qua cái sân rộng chỉ để thể thấy được một hình ảnh mờ ảo đi xuyên qua cái thác nước mà cô vừa nghe thấy tiếng, và sau đó biến mất đằng sau làn nước đang đổ xuống bức tường phía tây.
“Cái chết tiệt gì thế này?”
Jill nhìn chằm chằm vào thác nước nhỏ sáng lấp lánh, tự hỏi phải chăng nhãn quan của cô đã lường gạt chính mình! Tiếng nước bắn dừng hẳn khi người đó biến mất, và việc cô hoàn toàn không còn nghe thấy tiếng gì khác càng chứng minh rằng cái thác nước này đang che đậy một lối đi bí mật
“Tuyệt, đó là thứ mà một nơi như thế này cần có. Có trời mới biết là có cái gì bên trong.”
Bộ điều khiển chiếc thang máy nằm trong một cái hộp kim loại kế bên cái cửa rỉ sét, nền của nó ở trong cái sân. Jill gạt cái cần công tắc, nhưng không có gì xảy ra. Cô phải tìm cách nào khác để xuống, khi mà thời gian trôi qua một cách phí phạm còn con người bí ẩn kia gần như đã mất hút.
“Nếu không…”
Jill nhìn xuống cái khoang thang máy chật hẹp, một cái trục hình vuông rộng chỉ khoảng 3 feet có cửa vào mở sẵn. Nếu phải leo lên thì chết đi còn hơn, nhưng đi xuống thì sao nhỉ? Dễ thôi mà. Trong phút chốc cô đã luồn được người vào trong, sử dụng lưng và chân của mình để đỡ trọng luợng cơ thể.
Khi cô tháo cây shotgun trên lưng để chuẩn bị trèo, một ý nghĩ lo lắng thoáng qua đầu cô - nếu người đi vào trong thác nước là một thành viên của đội S.T.A.R.S, thì bằng cách nào người đó biết được lối đi đó?
Một câu hỏi hóc búa, và cô không muốn chần chừ thêm nữa. Giữ chặt cây shotgun, Jill đẩy cánh cửa mở và cẩn thận bắt đầu leo xuống khoang thang máy.
Họ đã chia tay Barry được mười lăm phút truớc khi băng qua những căn phòng lớn ngoằn ngoèo ở cánh tây và tìm ra cánh cửa hậu mở.
Và họ đang đứng tại đó, xem xét cái phiến đồng với bốn tấm huy hiệu khảm trên đó.
Chirs nhìn chằm chằm vào cái huy hiệu hình mặt trăng lưỡi liềm mà Barry đã lấy, cảm thấy bối rối và có đôi chút lo lắng. Barry là một trong những người thành thật nhất, một anh chàng ngay thẳng mà Chris từng biết. Nếu như anh ấy nói là đi tìm Jill rồi sau đó sẽ quay lại với họ, thì anh ta nhất định sẽ làm vậy.
“Nhưng anh ta đã không quay lại. Còn nếu anh ta gặp rắc rối, thì bằng cách nào cái huy hiệu mà mình đưa cho anh ta lại được đặt ở đây?”
Anh không thích bất kỳ sự giải thích nào, do chính phán đoán của anh đưa ra lúc này. Ai đó có thể đã lấy được nó từ anh ấy, hoặc có thể chính anh ta đã đặt nó và sau đó bị thương vì một lý do nào đó… những điều có thể xảy ra được dường như quá nhiều, không có cái nào trong số chúng là tốt cả.
Thở dài, anh quay đi và nhìn Rebecca.
“Cho dù bất cứ điều gì xảy ra với Barry, chúng ta cũng phải tiến lên. Đây có thể là cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng tồi tệ này.”
Rebecca mỉm cười: “Em ổn mà. Thật là tuyệt khi rời khỏi đây, phải không?”
“Thế à, đừng đùa nữa”, anh nói với một sự thông cảm. Anh thậm chí cũng không biết làm sao mà mình có thể làn quen được với cái không khí lạnh lẽo ngột ngạt của tòa nhà, cho đến khi bước qua cánh cửa. Sự khác biệt đó thật đáng kinh ngạc.
Họ đã đi bộ xuyên qua nhà kho sạch sẽ và dừng lại chỗ cửa sau, cả hai đều thở phào. Rebecca kiểm tra lại cây Beretta của mình không biết bao nhiêu lần kể từ khi họ rời khỏi sảnh chính, cô bặm môi dưới một cách lo lắng. Chris hiểu sự tổn thương mà cô đang chịu đựng và cố nghĩ xem nên nói gì với cô, điều gì đó giúp đỡ cô nếu họ buộc phải rơi vào một trận chiến. S.T.A.R.S. được huấn luyện tất cả những kỹ năng cơ bản, nhưng bắn vào một màn hình video với một cây súng đồ chơi thì hoàn toàn khác so với đời thực.
Anh bỗng nhiên cười toe toét, nhớ về những kiến thức mà anh học được trong lần tác chiến đầu tiên, khi bị cô lập với một nhóm nhỏ những người còn sống sót tại phía bắc New York. Anh đã hết sức khiếp sợ, và cố gắng không để lộ ra việc đó. Chỉ huy của chiến dịch đó là một con người cứng cỏi và cũng là một chuyên gia thuốc nổ lão luyện, một phụ nữ nhỏ nhắn tên là Kaylor. Bà đã nói chuyện riêng với anh trước khi họ tấn công, nhìn anh từ đầu đến chân, và cho anh một lời khuyên tốt nhất mà anh có thể nhận được.
“Nào con trai”, bà nói, “dù có chuyện gì xảy ra khi nổ súng thì cũng đừng có để quần con ướt sũng đấy nhé.”
Nó đã kéo anh ra khỏi cơn hốt hoảng. Nói theo nghĩa đen là anh đã tống khứ nỗi sợ hãi tồi tệ trong lòng đi để có chỗ chứa cho câu nói mang tính định mệnh ấy.
“Anh đang cười cái gì vậy?”
Chris lắc đầu, nụ cười nhạt dần. Không hiểu sao anh nghĩ trò này sẽ không có tác dụng với Rebecca, hơn nữa những nguy hiểm mà họ đã đối mặt không biết bắn trả. “Một câu chuyện dài. Thôi nào, chúng ta đi.”
Cả hai bước ra ngoài bầu trời đêm tĩnh lặng, chỉ có tiếng dế và ve sầu lác đác đâu đó trong rừng. Cả hai đang đứng trong một cái sân, bên tay phải là bức tường bằng gạch cao và bên phải là một lối đi nhỏ khác. Chris có thể nghe thấy tiếng nước chảy gần đâu đây và tiếng một con chó hay chó sói đang tru một cách thê lương ở đâu đó xa thăm thẳm.
“Lại là chó nữa…”
Ngay trước mặt anh gần cánh cổng, dưới ánh trăng sáng là xác hai con chó với những bắp thịt rắn chắc đang nằm trong vũng máu. Chris nhanh chóng chạy đến bên rồi đưa tay chạm vào xác một con, anh vội rụt tay lại, xác con chó còn ấm và rất nhớt, giống như là nó được bao bọc bởi một lớp da nhầy nhụa vậy.
Chris đứng dậy, chùi tay vào ống quần rồi quay sang nói với Rebecca:
“Bọn chúng chết chưa lâu đâu, chỉ chưa tới một giờ.”
Chris nhìn về phía cánh cổng đã rỉ sét ở phía trước rồi quay sang nhìn Rebecca, anh gật đầu một cái rồi cả hai cùng tiến về phía đó, và càng đến gần thì tiếng nước chảy càng lớn.
Chris đẩy mạnh cánh cổng làm vang lên tiếng kót két của bản lề đã rỉ sét, để lộ ra đằng sau không xa lắm là một cái hồ chứa nước lớn dễ bằng hai cái hồ bơi hợp lại. Cả hai bên bờ của cái hồ này tối thui bởi những hàng cây dày đặc mọc hai bên lối đi, nhiều chỗ trên lối đi đã lác đác cỏ và cây dại mọc lún phún.
Cả hai nhanh chóng đi tới trước rồi dừng lại bên bờ hồ nước. Mực nước có vẻ như đang cạn dần, tiếng nước chảy rào rào mà hai người nghe thấy là do nước đang chảy ào ạt qua một khe nhỏ ở cuối bờ hồ phía Đông. Không có lối nào để đi vòng qua cái hồ này, nhưng Chris có thể nhìn thấy bên kia hồ là một lối đi khác rộng khoảng 1,5m. Cuối lối đi bên này và đầu bờ bên kia là hai cái thang sắt bắt thẳng vào thành hồ nước. Và chìm bên dưới làn nước là một lối đi nối hai bờ với nhau, nhưng với lượng tảo dính đầy dưới đó thì có vẻ như đã lâu lắm rồi không có ai đi qua. Chris lưỡng lự một hồi vì không biết làm sao người ta có thể qua được bờ bên kia mà không rút hết nước trong hồ. Lại thêm một điều bí ẩn khác nữa.
Không nói một lời nào, cả hai người cùng leo xuống hồ và nhanh chóng lội sang bờ bên kia. Nước trong hồ ban đêm thật lạnh và tảo làm cho lối đi rất trơn. Chris leo lên bờ bên kia trước rồi cúi xuống giúp Rebecca lên.
Lối đi tối mịt đầy những cành cây gãy và lá cây khô đang ở trước mặt hai người, có vẻ như nó dẫn về phía Đông hồ chứa nước. Cả hai nhanh chóng bước vào lối đi ấy, nhưng vừa đi được vài bước thì trời đổ mưa.
Bộp. Bộp bộp.
Chris nhíu mày lại, bản năng của anh cho biết rằng đây không phải là mưa vì không có tiếng nước rơi xuống mặt hồ. Anh ngước đầu lên nhìn và thấy một cành cây xoắn rơi thẳng xuống từ những giàn lá dày đặc trên đầu. Khi chạm đất, cành cây đó bỗng trườn đi rất mềm mại đó không phải là cành cây - và đã có cả tá những cành cây như vậy đang trườn trên lối đi lát đá tối om, Chris có thể nghe thấy tiếng rít và thấy chúng uốn lượn qua lại trên lối đi.
Chris và Rebecca đang đứng giữa một bầy rắn.
“Chết tiệt.”
Kinh ngạc, Rebecca quay sang nhìn Chris và anh có thể thấy được vẻ khiếp sợ trên mặt cô ta, tim của Rebecca như đang muốn nhảy ra ngoài. Mặt đất như đang chuyển động, bầy rắn trông như những cuộn dây màu đen đang bò xung quanh họ và chúng vẫn đang rớt như mưa xuống.
Theo phản xạ Rebecca chỉa súng xuống, nhưng cô nhận ra rằng chúng quá đông. Ngay lúc đó Chris vừa chụp mạnh lấy tay cô vừa hét. “Chạy!”
Cả hai chạy như bay về phía trước, Rebecca la hoảng lên khi một con rắn rớt xuống vai cô. Rebecca có thể cảm nhận được vảy của con rắn khi nó trượt xuống tay cô rồi rơi xuống đất.
Lối đi thật ngoằn ngoèo làm cả hai chạy như điên. Việc đạp phải những con rắn dưới chân làm cả hai mất thăng bằng suýt té. Những con rắn phóng lên để cắn khi gót giày của hai người lướt qua chúng. Cả hai chạy qua một chiếc cầu sắt nhỏ, bên dưới là dòng nước vẫn đang cuồn cuộn chảy. Tiếng giày của họ nện xuống lớp sắt dưới chân nghe keng keng.
Lối đi trước mặt cả hai người bỗng hiện rõ lên nhưng nó đột ngột dừng lại - và ở cuối đường là một cái thang máy nhỏ. Ngoài ra chẳng còn đường nào để chạy nữa.
Cả hai nhảy ngay vào cái thang máy nhỏ xíu đó, Rebecca lập tức vồ lấy cái bảng điều khiển, hơi thở của cô rất dồn dập. Còn Chris thì quay lại bắn liên tục vào lũ rắn cho đến khi Rebecca bấm được nút và chiếc thang từ từ đi xuống.
Bệ thang máy bắt đầu chuyển động và hạ dần xuống cái sân lớn ở bên dưới, Rebecca quay người lại giơ súng lên định giúp Chris - và cảm thấy cổ khô khốc lại khi nhìn thấy cảnh tượng trước mặt.
Dễ phải có đến hàng trăm con rắn và chúng nhiều đến nỗi che phủ cả lối đi, lũ rắn vẫn đang bò ngoằn ngoèo, rít lên những tiếng xì xì và quay sang cắn lẫn nhau. Khi cô lấy lại được bình tĩnh thì cũng là lúc chiếc thang máy đã đi xuống làm khuất tầm mắt cô khỏi cảnh tượng ghê tởm đó.
Cả Chris và Rebecca tưởng như cái thang máy này đang lết đi từng chút một như rùa. Cả hai cùng lo lắng nhìn lên trên chờ đợi không biết có con rắn nào rớt xuống nữa không. Và khi thang máy còn cách mặt đất khoảng 3m thì cả hai nhanh chóng nhảy xuống và chạy ra xa khỏi bức tường.
Hai người đứng dựa vào vách đá thở hổn hển. Rebecca quan sát cái sân mà họ vừa nhảy xuống. Đó là một cái sân lớn, và nước từ cái hồ phía trên đang chảy xuống tạo thành một thác nước không lớn lắm. Ngay trước mặt hai người là một cánh cổng khác nữa.
Và nhất là không có rắn.
Rebecca hít một hơi dài nữa rồi thở mạnh ra rồi quay sang Chris: “Anh có bị cắn không?”
Anh ta lắc đầu: “Không, còn em thì sao?”
Rebecca đáp: “Không sao, nhưng có lẽ chúng ta không thể quay lại nữa. Em không giỏi hơn người mèo để bay qua đó đâu.”
Chris nhìn cô một thoáng rồi bật cười, đứng thẳng dậy nói: “Hay nhỉ. Khi nào xuống phòng thí nghiệm anh sẽ chỉ mấy con chuột cho em.”
Bíp Bíp.
Cái bộ đàm đang kêu.
Rebecca chụp lấy cái bộ đàm ở thắt lưng, nỗi sợ rắn bỗng tan biến. Đây là tiếng mà cô mong được nghe nhất kể từ khi họ tìm thấy xác Richard. Ai đó đang bắt liên lạc với họ, có lẽ là đội cứu nạn.
“…Đây là Brad!… Đội Alpha…nghe? Nếu…nghe thấy thì…”
Giọng anh ta biến mất trong tiếng xè xè của sóng điện đàm. Rebecca bấm vào nút truyền sóng và nói vội.
“Brad! Brad nghe rõ trả lời!”
Tín hiệu đã biến mất. Cả Chris và Rebecca cùng lắng nghe thêm chút nữa nhưng chẳng có thêm tín hiệu liên lạc nào nữa.
“Có lẽ cậu ta đã ra khỏi tầm của sóng điện đài rồi”, Chris nói. Anh thở dài rồi đi vào giữa sân ngước mắt nhìn lên bầu trời tối đen.
Rebecca giắt cái bộ đàm lại vào thắt lưng, cảm thấy niềm hy vọng đang tăng lên. Brad đang bay ở đâu đó trên kia để tìm bọn họ. Bây giờ họ đã ra khỏi ngôi biệt thự và có thể phát tín hiệu cấp cứu.
“Phải nghĩ rằng anh ta sẽ quay lại.”
Rebecca dứt dòng suy nghĩ ở đó và bước đến bên Chris, vì anh ta vừa tìm thấy một cái thang máy nhỏ khác ở mé bên trái bức tường đối diện với cái thác nước. Bằng một thao tác kiểm tra đơn giản Chris biết rằng nó không sử dụng được nữa.
Chris quay sang phía cánh cửa, nạp một băng đạn mới vào khẩu Beretta rồi nói: “Chúng ta có nên đi xem có gì đằng sau cánh cổng đó không nhỉ?”
Đó chỉ là một câu hỏi tu từ mà thôi, vì nếu không muốn quay trở lại gặp đàn rắn trên kia thì họ chỉ còn có cánh cổng đó để đi.
Rebecca gật đầu mỉm cười để Chris thấy rằng cô luôn sẵn sàng. Và nếu có chuyện gì xảy ra nữa thì cô cũng có thể giúp một tay.
Alma, em yêu!
Anh ngồi đây và cố nghĩ xem phải bắt đầu từ đâu, phải làm thế nào để giải thích chỉ bằng vài từ đơn giản về tất cả những thứ đã xảy ra trong cuộc sống của anh từ lúc chúng ta gặp nhau lần cuối, và anh đã thất bại. Anh hi vọng em sẽ dễ dàng nhận được bức thứ này với đầy đủ nội dung, và em sẽ tha thứ cho những gì mà anh viết; thật là không dễ dàng cho anh. Ngay cả khi anh viết, những lỗi lầm đó vẫn hiện ra, làm anh tuyệt vọng và lẫn lộn, nhưng anh vẫn phải kể cho em những gì trong tim anh trước khi anh yên nghĩ. Hãy kiên nhẫn, và chấp nhận những gì mà anh nói là sự thật.
Phải tốn nhiều thời gian để anh có thể kể hết toàn bộ câu chuyện cho em nghe, nhưng không còn thời gian nữa, vì thế em hãy chấp nhận mọi thứ cũng như việc: tháng truớc, đã có một tai nạn xảy ra trong phòng thí nghiệm và virus mà bọn anh nghiên cứu đã thoát ra ngoài. Tất cả những đồng nghiệp của anh bị nhiễm virus đều bị chết, và những con virus làm họ sống lại, đồng thời lấy đi ý thức của họ. Virus này lấy đi tính người của các nạn nhân, và làm họ mang một chứng bệnh, luôn phải tìm kiếm và hủy diệt sự sống. Khi anh viết những dòng này, anh có thể nghe được tiếng của họ, đang cố gắng phá cánh cửa phòng anh, chúng giống như một bọn vô hồn, một loài thú hoang khát mồi, đang gào thét điên dại.
Không có từ nào có thể diễn tả được sự đau đớn và xấu hổ của anh bấy giờ, khi anh biết rằng chính mình cũng đã góp phần tạo ra chúng. Anh tin rằng chúng không có cảm giác, không biết sợ và cũng không biết đau đớn, nhưng việc chúng không hề trải qua sự kinh hoàng khi bị biến đổi thành như thế hoàn toàn không giúp anh thoát khỏi gánh nặng lương tâm. Anh, vào lúc này, phải chịu trách nhiệm cho cái ác mộng quay quanh anh. Mặc dù cái ý nghĩ tội lỗi đã khắc sâu vào trong trí nhớ và sẽ ám ảnh anh qua từng giây từng từng phút, anh vẫn có gắng sống sót nếu chỉ để nhìn thấy em một lần nữa. Nhưng những cố gắng của anh chỉ có thể trì hoãn việc tất yếu sẽ xảy ra. Anh đã bị nhiễm, và không có cách nào ngăn chặn sự phát triển của nó - trừ khi tự kết liễu đời mình, trước đây anh đã quên một việc là cách ly anh khỏi chúng. Anh yêu em. Hãy hiểu cho anh và biết rằng anh rất xin lỗi.
Martin Crackhorn
Jill thở dài, nhẹ nhàng đặt tờ giấy nhàu nát lên bàn. Những nhà nghiên cứu đã trở thành nạn nhân cho phát minh của chính họ. Mặc dù đọc một bức thư mang đầy sự thất vọng tràn trề, nhưng bằng khả năng suy luận, dường như cô đã hiểu được những gì đã xảy ra trong ngôi biệt thự. Sau khi đặt cái huy hiệu mặt trời đúng chỗ, cô quyết định rằng văn phòng ở tầng trên cần phải được xem xét với một cuộc tìm kiếm nho nhỏ, cuối cùng cô tìm thấy một cuốn di chúc viết nguệch ngoạc của Crackhorn, được nhét trong ngăn kéo.
Crackhorn, Martin Crackhorn – tên một người trong danh sách của Trent… Jill cau mày, tiến về cánh cửa văn phòng ra ngoài một cách chậm chạp. Trent muốn S.T.A.R.S tìm hiểu những gì đã xảy ra tại ngôi biệt thư trước khi ai khác sẽ làm việc đó, nhưng với những điều ông ta biết về nó, tại sao lại không nói thẳng ra? Và ông ta được gì khi kể cho mình nghe về sự việc xảy ra, về tất cả? Cô bước đi xuyên qua phòng giải lao nhỏ của văn phòng và trở lại văn phòng lớn, vẫn còn nhăn mặt. Lúc nãy Barry đã hành động một cách khác thường, và cần phải tìm ra nguyên nhân tại sao. Có thể cô sẽ có ngay câu trả lời nêu cô hỏi thẳng anh ta…
“…hoặc không - hoặc ít nhất, việc đó sẽ cho mình biết thêm cái gì đó.”
Jill dừng lại chỗ những bậc thang, cô thở sâu và nhận thấy rằng có cái gì đó thay đổi. Cô ngập ngừng nhìn xung quanh, cố tìm ra đó là gì theo sự mách bảo của các giác quan.
Chính là cái lò sưởi. Đúng một phần nhỏ thôi, nhưng rõ ràng là cái lò sưởi. Và không khí thì không hoàn toàn như lúc đầu. Giống như ai đó đã mở một cái cửa sổ. Hoặc có thể là một cánh cửa. Jill rẽ và bước từng bước xuống cầu thang, bất giác muốn kiểm tra lại cái lỗ khóa có hình bốn huy hiệu. Xuống đến những bước cuối cùng của cầu thang, cô thấy một cánh cửa nối với một phòng lớn tiếp theo đã mở. Cô có thể nghe thấy tiếng dế kêu yếu ớt, cảm thấy mùi không khí ban đêm dễ chịu thoang thoảng xuyên qua cái không khí lạnh lẽo hôi hám của ngôi nhà. Cô khẩn trương tới chỗ hành lang tối hơn và rẽ sang phải, cố gắng không hi vọng quá nhiều. Thêm một cái rẽ phải đột ngột khác và cô có thể nhìn thấy cánh cửa choáng cả lối đi đang mở.
“Có thể là chỉ có vậy thôi, chắc gì là bài toán đã được giải quyết xong.”
Jill vụt chạy, cô cảm thấy được sự nóng bức của mùa hè dường như đang chống lại làn da của cô khi cô chạy vòng qua cái ngã rẽ trong con đường đá và được nới rộng ra ở một quãng ngắn, biểu lộ sự vui mừng khi thấy bốn cái huy hiệu đã được đặt vào, cạnh đó cánh cửa đã mở. Một làn gió hiu hiu thổi xuyên qua phòng đã được mở khoá, một cái nhà kho nhỏ để chứa dụng cụ làm vườn. Cánh cửa kim loại trên tường đối diện đang mở, Jill có thể thấy được ánh trăng chiếu qua một bức tường gạch và ở bên kia là một cánh cửa mà bản lề của nó đã rỉ sét. Barry đã đúng, cánh cửa dẫn ra bên ngoài. Họ có thể đã gọi giúp đỡ bây giờ, tìm một con đường an toàn xuyên qua rừng hoặc ít nhất là phát tín hiệu cầu cứu.
“Nhưng nếu Barry tìm thấy mảnh bị mất, tại sao anh ta không đến tìm mình?”
Giọng cười gằn của Jill nhạt dần khi cô bước vào nhà kho, những cái hộp và thùng đầy bụi bị mất đã làm lộ ra những bức tường đá màu xám. Barry biết cô ở đâu, và chính anh ta cũng hứa sẽ gặp lại cô ở tầng hai cánh tây…
Vì thế có thể không phải Barry là người mở cánh cửa. Đúng, có thể đó là Chris hoặc Wesker hoặc một ai khác của đội Bravo. Nếu đúng là như thế, có lẽ cô nên quay lại và tìm Barry.
“Hoặc trước hết nên kiểm tra lại một chút, chắc chắn điều đó sẽ xứng đáng với những cố gắng mình bỏ ra.”
Đó là một cách hợp lý, nhưng cô cũng tự công nhận rằng ý nghĩ quay lại ngôi biệt thự so với việc có thể thoát được đang ở phía trước thì không hoàn toàn hấp dẫn bằng. Cô kiểm tra khẩu Beretta của mình và quyết định bước về phía cánh cửa ở phía ngoài. Thứ đầu tiên làm cô chú ý là tiếng nước chảy xen lẫn với âm thanh nhè nhẹ của rừng làm không khí tràn ngập sự mát mẻ, giống như một thác nước. Cái thứ hai và thứ ba đó là xác hai con chó nằm trên con đường đá bất thường, chúng bị bắn chết.
“Chắc chắn là ai đó trong đội S.T.A.R.S đã đi qua con đường này…”
Jill đi lách qua hai con chó, vào trong một cái sân có vách cao, ở phía dưới hàng rào là những chậu kiểng bằng gạch được đặt ở từng góc. Mây đen kéo đến đè nặng trên đỉnh đầu. Ngang qua cái không gian trống là một cánh cửa có song bằng sắt, bên kia là những bụi cây và bụi rậm nhỏ. Rẽ sang trái là một con đường thẳng được che bóng bởi bức tường gạch cao 10 feet sát hai bên con đường; âm thanh róc rách của thác nước dường như phát ra từ hướng đó, tuy nhiên con đường kết thúc một cách bất ngờ bằng một cánh cửa kim loại cao khoảng vài feet.
“Có thể đây là cầu thang đi xuống?”
Jill cảm thấy do dự, nhìn ngoái lại chỗ ngã rẽ, cánh cổng rỉ sét ở trước mặt cô và tiếp đó là thi thể nhăn nhúm của những con chó bị đột biến. Chúng đều có nhiệm vụ canh giữ cánh cửa hơn là giữ lối đi, và có vẻ như chúng đã bị giết khi đang tấn công, người bắn đã đương đầu với chúng từ hướng đó.
Đột nhiên có tiếng nước bắn tung toé hỗn loạn làm cô chú ý. Jill chuyển hướng và chạy dưới ánh trăng, hi vọng sẽ loáng thoáng thấy ai đã gây ra tiếng ồn đó.
Cô đi tới cuối con đường đá và đi qua cổng, sau đó lùi lại một tí, cô ngạc nhiên bởi người đó đột nhiên đã biến mất. Không có cầu thang, cánh cổng dẫn đến nền một cái thang máy nhỏ và xuống phía dưới là một cái sân nhà rộng khoảng 20 feet.
Tiếng nước bắn tắt hẳn khi đến ngã rẽ phải, Jill nhìn xuống và băng qua cái sân rộng chỉ để thể thấy được một hình ảnh mờ ảo đi xuyên qua cái thác nước mà cô vừa nghe thấy tiếng, và sau đó biến mất đằng sau làn nước đang đổ xuống bức tường phía tây.
“Cái chết tiệt gì thế này?”
Jill nhìn chằm chằm vào thác nước nhỏ sáng lấp lánh, tự hỏi phải chăng nhãn quan của cô đã lường gạt chính mình! Tiếng nước bắn dừng hẳn khi người đó biến mất, và việc cô hoàn toàn không còn nghe thấy tiếng gì khác càng chứng minh rằng cái thác nước này đang che đậy một lối đi bí mật
“Tuyệt, đó là thứ mà một nơi như thế này cần có. Có trời mới biết là có cái gì bên trong.”
Bộ điều khiển chiếc thang máy nằm trong một cái hộp kim loại kế bên cái cửa rỉ sét, nền của nó ở trong cái sân. Jill gạt cái cần công tắc, nhưng không có gì xảy ra. Cô phải tìm cách nào khác để xuống, khi mà thời gian trôi qua một cách phí phạm còn con người bí ẩn kia gần như đã mất hút.
“Nếu không…”
Jill nhìn xuống cái khoang thang máy chật hẹp, một cái trục hình vuông rộng chỉ khoảng 3 feet có cửa vào mở sẵn. Nếu phải leo lên thì chết đi còn hơn, nhưng đi xuống thì sao nhỉ? Dễ thôi mà. Trong phút chốc cô đã luồn được người vào trong, sử dụng lưng và chân của mình để đỡ trọng luợng cơ thể.
Khi cô tháo cây shotgun trên lưng để chuẩn bị trèo, một ý nghĩ lo lắng thoáng qua đầu cô - nếu người đi vào trong thác nước là một thành viên của đội S.T.A.R.S, thì bằng cách nào người đó biết được lối đi đó?
Một câu hỏi hóc búa, và cô không muốn chần chừ thêm nữa. Giữ chặt cây shotgun, Jill đẩy cánh cửa mở và cẩn thận bắt đầu leo xuống khoang thang máy.
Họ đã chia tay Barry được mười lăm phút truớc khi băng qua những căn phòng lớn ngoằn ngoèo ở cánh tây và tìm ra cánh cửa hậu mở.
Và họ đang đứng tại đó, xem xét cái phiến đồng với bốn tấm huy hiệu khảm trên đó.
Chirs nhìn chằm chằm vào cái huy hiệu hình mặt trăng lưỡi liềm mà Barry đã lấy, cảm thấy bối rối và có đôi chút lo lắng. Barry là một trong những người thành thật nhất, một anh chàng ngay thẳng mà Chris từng biết. Nếu như anh ấy nói là đi tìm Jill rồi sau đó sẽ quay lại với họ, thì anh ta nhất định sẽ làm vậy.
“Nhưng anh ta đã không quay lại. Còn nếu anh ta gặp rắc rối, thì bằng cách nào cái huy hiệu mà mình đưa cho anh ta lại được đặt ở đây?”
Anh không thích bất kỳ sự giải thích nào, do chính phán đoán của anh đưa ra lúc này. Ai đó có thể đã lấy được nó từ anh ấy, hoặc có thể chính anh ta đã đặt nó và sau đó bị thương vì một lý do nào đó… những điều có thể xảy ra được dường như quá nhiều, không có cái nào trong số chúng là tốt cả.
Thở dài, anh quay đi và nhìn Rebecca.
“Cho dù bất cứ điều gì xảy ra với Barry, chúng ta cũng phải tiến lên. Đây có thể là cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng tồi tệ này.”
Rebecca mỉm cười: “Em ổn mà. Thật là tuyệt khi rời khỏi đây, phải không?”
“Thế à, đừng đùa nữa”, anh nói với một sự thông cảm. Anh thậm chí cũng không biết làm sao mà mình có thể làn quen được với cái không khí lạnh lẽo ngột ngạt của tòa nhà, cho đến khi bước qua cánh cửa. Sự khác biệt đó thật đáng kinh ngạc.
Họ đã đi bộ xuyên qua nhà kho sạch sẽ và dừng lại chỗ cửa sau, cả hai đều thở phào. Rebecca kiểm tra lại cây Beretta của mình không biết bao nhiêu lần kể từ khi họ rời khỏi sảnh chính, cô bặm môi dưới một cách lo lắng. Chris hiểu sự tổn thương mà cô đang chịu đựng và cố nghĩ xem nên nói gì với cô, điều gì đó giúp đỡ cô nếu họ buộc phải rơi vào một trận chiến. S.T.A.R.S. được huấn luyện tất cả những kỹ năng cơ bản, nhưng bắn vào một màn hình video với một cây súng đồ chơi thì hoàn toàn khác so với đời thực.
Anh bỗng nhiên cười toe toét, nhớ về những kiến thức mà anh học được trong lần tác chiến đầu tiên, khi bị cô lập với một nhóm nhỏ những người còn sống sót tại phía bắc New York. Anh đã hết sức khiếp sợ, và cố gắng không để lộ ra việc đó. Chỉ huy của chiến dịch đó là một con người cứng cỏi và cũng là một chuyên gia thuốc nổ lão luyện, một phụ nữ nhỏ nhắn tên là Kaylor. Bà đã nói chuyện riêng với anh trước khi họ tấn công, nhìn anh từ đầu đến chân, và cho anh một lời khuyên tốt nhất mà anh có thể nhận được.
“Nào con trai”, bà nói, “dù có chuyện gì xảy ra khi nổ súng thì cũng đừng có để quần con ướt sũng đấy nhé.”
Nó đã kéo anh ra khỏi cơn hốt hoảng. Nói theo nghĩa đen là anh đã tống khứ nỗi sợ hãi tồi tệ trong lòng đi để có chỗ chứa cho câu nói mang tính định mệnh ấy.
“Anh đang cười cái gì vậy?”
Chris lắc đầu, nụ cười nhạt dần. Không hiểu sao anh nghĩ trò này sẽ không có tác dụng với Rebecca, hơn nữa những nguy hiểm mà họ đã đối mặt không biết bắn trả. “Một câu chuyện dài. Thôi nào, chúng ta đi.”
Cả hai bước ra ngoài bầu trời đêm tĩnh lặng, chỉ có tiếng dế và ve sầu lác đác đâu đó trong rừng. Cả hai đang đứng trong một cái sân, bên tay phải là bức tường bằng gạch cao và bên phải là một lối đi nhỏ khác. Chris có thể nghe thấy tiếng nước chảy gần đâu đây và tiếng một con chó hay chó sói đang tru một cách thê lương ở đâu đó xa thăm thẳm.
“Lại là chó nữa…”
Ngay trước mặt anh gần cánh cổng, dưới ánh trăng sáng là xác hai con chó với những bắp thịt rắn chắc đang nằm trong vũng máu. Chris nhanh chóng chạy đến bên rồi đưa tay chạm vào xác một con, anh vội rụt tay lại, xác con chó còn ấm và rất nhớt, giống như là nó được bao bọc bởi một lớp da nhầy nhụa vậy.
Chris đứng dậy, chùi tay vào ống quần rồi quay sang nói với Rebecca:
“Bọn chúng chết chưa lâu đâu, chỉ chưa tới một giờ.”
Chris nhìn về phía cánh cổng đã rỉ sét ở phía trước rồi quay sang nhìn Rebecca, anh gật đầu một cái rồi cả hai cùng tiến về phía đó, và càng đến gần thì tiếng nước chảy càng lớn.
Chris đẩy mạnh cánh cổng làm vang lên tiếng kót két của bản lề đã rỉ sét, để lộ ra đằng sau không xa lắm là một cái hồ chứa nước lớn dễ bằng hai cái hồ bơi hợp lại. Cả hai bên bờ của cái hồ này tối thui bởi những hàng cây dày đặc mọc hai bên lối đi, nhiều chỗ trên lối đi đã lác đác cỏ và cây dại mọc lún phún.
Cả hai nhanh chóng đi tới trước rồi dừng lại bên bờ hồ nước. Mực nước có vẻ như đang cạn dần, tiếng nước chảy rào rào mà hai người nghe thấy là do nước đang chảy ào ạt qua một khe nhỏ ở cuối bờ hồ phía Đông. Không có lối nào để đi vòng qua cái hồ này, nhưng Chris có thể nhìn thấy bên kia hồ là một lối đi khác rộng khoảng 1,5m. Cuối lối đi bên này và đầu bờ bên kia là hai cái thang sắt bắt thẳng vào thành hồ nước. Và chìm bên dưới làn nước là một lối đi nối hai bờ với nhau, nhưng với lượng tảo dính đầy dưới đó thì có vẻ như đã lâu lắm rồi không có ai đi qua. Chris lưỡng lự một hồi vì không biết làm sao người ta có thể qua được bờ bên kia mà không rút hết nước trong hồ. Lại thêm một điều bí ẩn khác nữa.
Không nói một lời nào, cả hai người cùng leo xuống hồ và nhanh chóng lội sang bờ bên kia. Nước trong hồ ban đêm thật lạnh và tảo làm cho lối đi rất trơn. Chris leo lên bờ bên kia trước rồi cúi xuống giúp Rebecca lên.
Lối đi tối mịt đầy những cành cây gãy và lá cây khô đang ở trước mặt hai người, có vẻ như nó dẫn về phía Đông hồ chứa nước. Cả hai nhanh chóng bước vào lối đi ấy, nhưng vừa đi được vài bước thì trời đổ mưa.
Bộp. Bộp bộp.
Chris nhíu mày lại, bản năng của anh cho biết rằng đây không phải là mưa vì không có tiếng nước rơi xuống mặt hồ. Anh ngước đầu lên nhìn và thấy một cành cây xoắn rơi thẳng xuống từ những giàn lá dày đặc trên đầu. Khi chạm đất, cành cây đó bỗng trườn đi rất mềm mại đó không phải là cành cây - và đã có cả tá những cành cây như vậy đang trườn trên lối đi lát đá tối om, Chris có thể nghe thấy tiếng rít và thấy chúng uốn lượn qua lại trên lối đi.
Chris và Rebecca đang đứng giữa một bầy rắn.
“Chết tiệt.”
Kinh ngạc, Rebecca quay sang nhìn Chris và anh có thể thấy được vẻ khiếp sợ trên mặt cô ta, tim của Rebecca như đang muốn nhảy ra ngoài. Mặt đất như đang chuyển động, bầy rắn trông như những cuộn dây màu đen đang bò xung quanh họ và chúng vẫn đang rớt như mưa xuống.
Theo phản xạ Rebecca chỉa súng xuống, nhưng cô nhận ra rằng chúng quá đông. Ngay lúc đó Chris vừa chụp mạnh lấy tay cô vừa hét. “Chạy!”
Cả hai chạy như bay về phía trước, Rebecca la hoảng lên khi một con rắn rớt xuống vai cô. Rebecca có thể cảm nhận được vảy của con rắn khi nó trượt xuống tay cô rồi rơi xuống đất.
Lối đi thật ngoằn ngoèo làm cả hai chạy như điên. Việc đạp phải những con rắn dưới chân làm cả hai mất thăng bằng suýt té. Những con rắn phóng lên để cắn khi gót giày của hai người lướt qua chúng. Cả hai chạy qua một chiếc cầu sắt nhỏ, bên dưới là dòng nước vẫn đang cuồn cuộn chảy. Tiếng giày của họ nện xuống lớp sắt dưới chân nghe keng keng.
Lối đi trước mặt cả hai người bỗng hiện rõ lên nhưng nó đột ngột dừng lại - và ở cuối đường là một cái thang máy nhỏ. Ngoài ra chẳng còn đường nào để chạy nữa.
Cả hai nhảy ngay vào cái thang máy nhỏ xíu đó, Rebecca lập tức vồ lấy cái bảng điều khiển, hơi thở của cô rất dồn dập. Còn Chris thì quay lại bắn liên tục vào lũ rắn cho đến khi Rebecca bấm được nút và chiếc thang từ từ đi xuống.
Bệ thang máy bắt đầu chuyển động và hạ dần xuống cái sân lớn ở bên dưới, Rebecca quay người lại giơ súng lên định giúp Chris - và cảm thấy cổ khô khốc lại khi nhìn thấy cảnh tượng trước mặt.
Dễ phải có đến hàng trăm con rắn và chúng nhiều đến nỗi che phủ cả lối đi, lũ rắn vẫn đang bò ngoằn ngoèo, rít lên những tiếng xì xì và quay sang cắn lẫn nhau. Khi cô lấy lại được bình tĩnh thì cũng là lúc chiếc thang máy đã đi xuống làm khuất tầm mắt cô khỏi cảnh tượng ghê tởm đó.
Cả Chris và Rebecca tưởng như cái thang máy này đang lết đi từng chút một như rùa. Cả hai cùng lo lắng nhìn lên trên chờ đợi không biết có con rắn nào rớt xuống nữa không. Và khi thang máy còn cách mặt đất khoảng 3m thì cả hai nhanh chóng nhảy xuống và chạy ra xa khỏi bức tường.
Hai người đứng dựa vào vách đá thở hổn hển. Rebecca quan sát cái sân mà họ vừa nhảy xuống. Đó là một cái sân lớn, và nước từ cái hồ phía trên đang chảy xuống tạo thành một thác nước không lớn lắm. Ngay trước mặt hai người là một cánh cổng khác nữa.
Và nhất là không có rắn.
Rebecca hít một hơi dài nữa rồi thở mạnh ra rồi quay sang Chris: “Anh có bị cắn không?”
Anh ta lắc đầu: “Không, còn em thì sao?”
Rebecca đáp: “Không sao, nhưng có lẽ chúng ta không thể quay lại nữa. Em không giỏi hơn người mèo để bay qua đó đâu.”
Chris nhìn cô một thoáng rồi bật cười, đứng thẳng dậy nói: “Hay nhỉ. Khi nào xuống phòng thí nghiệm anh sẽ chỉ mấy con chuột cho em.”
Bíp Bíp.
Cái bộ đàm đang kêu.
Rebecca chụp lấy cái bộ đàm ở thắt lưng, nỗi sợ rắn bỗng tan biến. Đây là tiếng mà cô mong được nghe nhất kể từ khi họ tìm thấy xác Richard. Ai đó đang bắt liên lạc với họ, có lẽ là đội cứu nạn.
“…Đây là Brad!… Đội Alpha…nghe? Nếu…nghe thấy thì…”
Giọng anh ta biến mất trong tiếng xè xè của sóng điện đàm. Rebecca bấm vào nút truyền sóng và nói vội.
“Brad! Brad nghe rõ trả lời!”
Tín hiệu đã biến mất. Cả Chris và Rebecca cùng lắng nghe thêm chút nữa nhưng chẳng có thêm tín hiệu liên lạc nào nữa.
“Có lẽ cậu ta đã ra khỏi tầm của sóng điện đài rồi”, Chris nói. Anh thở dài rồi đi vào giữa sân ngước mắt nhìn lên bầu trời tối đen.
Rebecca giắt cái bộ đàm lại vào thắt lưng, cảm thấy niềm hy vọng đang tăng lên. Brad đang bay ở đâu đó trên kia để tìm bọn họ. Bây giờ họ đã ra khỏi ngôi biệt thự và có thể phát tín hiệu cấp cứu.
“Phải nghĩ rằng anh ta sẽ quay lại.”
Rebecca dứt dòng suy nghĩ ở đó và bước đến bên Chris, vì anh ta vừa tìm thấy một cái thang máy nhỏ khác ở mé bên trái bức tường đối diện với cái thác nước. Bằng một thao tác kiểm tra đơn giản Chris biết rằng nó không sử dụng được nữa.
Chris quay sang phía cánh cửa, nạp một băng đạn mới vào khẩu Beretta rồi nói: “Chúng ta có nên đi xem có gì đằng sau cánh cổng đó không nhỉ?”
Đó chỉ là một câu hỏi tu từ mà thôi, vì nếu không muốn quay trở lại gặp đàn rắn trên kia thì họ chỉ còn có cánh cổng đó để đi.
Rebecca gật đầu mỉm cười để Chris thấy rằng cô luôn sẵn sàng. Và nếu có chuyện gì xảy ra nữa thì cô cũng có thể giúp một tay.
Bình luận truyện