Sơn Hà Bất Dạ Thiên
Chương 106
Đêm đó, chuyện Gia Luật Cần bị ám sát, thích khách trộm mật thư rồi bỏ chạy về hướng tây đã bị Lư Thâm chứng kiến hết.
Chính Lư Thâm mới là người nhớ rõ tướng mạo thích khách nhất chứ không phải Gia Luật Cần.
Lư Thâm có cách riêng để truy tìm tung tích một người. Từ phủ Đô bộ thự, hắn lùng tìm theo hướng tây. Đầu tiên, Lư Thâm loại trừ tất cả những quán trọ bình dân, vì mấy hôm nay quân Liêu đã lục soát hết các quán trọ trong thành mà không tìm được thích khách. Sau đó, hắn loại trừ hết các hộ gia đình bình thường. Phủ Tích Tân là lãnh địa của các quan miền nam, địa bàn của Gia Luật Cần, nên thích khách chắc chắn không dám tiếp xúc với ai cả. Nếu có, y sẽ bị phát giác ngay tức thì.
Lư Thâm nhanh chóng xác định được mười mấy căn nhà bỏ hoang không ai ở, cần kiểm tra kĩ từng căn.
Về phần mình, Kiều Cửu mang lễ vật đến tận nơi xin lỗi Tiêu Luật, nói rằng mới đây con trai mình bị cảm chưa khỏe hẳn, giờ bệnh tái phát đột ngột, quả thật không thể diện kiến Nhị hoàng tử.
Tiêu Luật tức điên người. Kìm cơn giận, gã nói: “Kiều Cửu, huynh nói huynh cần đưa con trai ra khỏi phủ Tích Tân gấp, tôi phải mất bao công sức mới xin được Nhị hoàng tử ban cho cơ hội này. Tôi thưa chuyện với điện hạ xong hết rồi, giờ huynh làm thế thì bảo tôi tính sao đây!”
Kiều Cửu vốn khôn khéo hơn người, hắn tinh ý nhận ra ngay sự bất thường trong thái độ của Tiêu Luật. Tại sao Tiêu Luật lại nôn nóng muốn Đường Thận gặp Nhị hoàng tử đến thế? Lẽ nào gã đã phát hiện ra thân phận của Đường Thận rồi ư?
Không thể thế được! Nếu biết sự thật, Tiêu Luật sẽ không chờ đợi Đường Thận đến gặp Gia Luật Xá Ca; gã sẽ bắt ngay Đường Thận nộp cho Gia Luật Xá Ca để tranh công mới phải.
Kiều Cửu khóc lóc kể lể: “Tiêu tiên sinh, tôi cũng khổ lắm! Kiều Cửu này trên có mẹ già, dưới còn con thơ, thế mà giờ đều ốm bệnh hết. Biết làm sao cho phải đây! Khuyển tử không thể xuống giường nổi, ngài cứ đến mà xem, nó ốm rất nặng. Tôi sợ nó mà đến gặp Nhị điện hạ thì lây cho điện hạ tôn quý mất. Nếu không được, tiên sinh có thể để tôi đi theo đặng phân trần với điện hạ không?
Tiêu Luật hết cách, đành dẫn Kiều Cửu đến bái kiến Gia Luật Xá Ca.
Gia Luật Xá Ca nghe tin con trai Kiều Cửu bị ốm thì hơi ngạc nhiên. Y cười lạnh buốt: “Ốm đúng lúc thật, cơn bệnh này cứu mạng hắn rồi đấy. Nếu ốm liệt giường thì chẳng ra khỏi thành được, Tiêu Luật cũng khỏi cần vào gặp bản điện hạ.”
Tiêu Luật ăn phải “chè bế môn” thì tức anh ách, phất tay áo bỏ đi, không thèm đếm xỉa đến Kiều Cửu nữa.
Kiều Cửu đuổi theo gã, luôn mồm xin lỗi, Tiêu Luật lờ phắt. Đến lúc Tiêu Luật lên xe ngựa ra về, Kiều Cửu cũng thôi tỏ ra bợ đỡ. Hắn nghĩ thầm: “Giờ thì bắt buộc phải giết Tiêu Luật rồi. Lần này trở mặt với gã, nếu để gã sống, việc ở phủ Tích Tân của ta ắt chẳng thành.”
Đường Thận giả bộ ốm liệt giường, định bụng chờ Lư Thâm bắt được thích khách thì rời khỏi phủ Tích Tân.
Không ngờ chỉ mấy hôm sau, cậu đã nhận được mật thư của Tô Ôn Duẫn.
Phủ Tích Tân chỉ có đường vào mà không có đường ra, Tô Ôn Duẫn gửi thư vào phủ được, nhưng Đường Thận vẫn bị cầm chân ở đây. Trong mật thư, Tô Ôn Duẫn viết một bài thơ. Giải mật thư xong, Đường Thận rùng mình hãi sợ. Thư viết: “Thịnh Kinh phái sứ giả!”
Thịnh Kinh lại phái thêm người đến ư?
Đường Thận tạm thời không phán đoán được mức độ nghiêm trọng của việc này, nhưng cậu không dám coi thường. Âm mưu thiết lập đường dây tình báo trong nước Liêu là việc hệ trọng không thể tiết lộ cho bất cứ ai; ngay cả với Vương Trăn, Đường Thận cũng giữ bí mật, chàng phải tự suy luận tất cả mọi thứ. Không ai có thể biết được liệu viên quan Thịnh Kinh sắp xuất hiện có làm đổ bể nhiệm vụ quan trọng này không.
Đường Thận siết chặt bức mật thư, giam mình trong phòng suy tính cả buổi chiều. Chập tối, khi sắc trời sâm sẩm, Đường Thận mới đứng dậy thắp nến, đốt mật thư. Nhìn mẩu giấy Tuyên quắt lại thành than, Đường Thận thở dài. Cậu gọi Kiều Cửu vào, nói: “Chậm nhất là mai ta phải rời khỏi thành, ngươi có cách nào không?”
Kiều Cửu: “Đại nhân bắt buộc phải rời thành sao?”
“Đúng thế, ta nhất định phải ra khỏi thành.”
Kiều Cửu vắt hết óc: “Có! Xin đại nhân yên tâm, việc này cứ giao cho tiểu nhân lo liệu.”
Sớm hôm sau, từ lúc tinh mơ mờ sáng, trên con đường đá lổn nhổn xóc nảy có một người đàn ông gầy đét nom hệt đầy tớ đang đẩy một xe nước gạo, nghiêng ngả đi ra cổng Tây. Đến cổng thành, anh ta bị lính thủ thành chặn lại. Người đầy tớ khổ sở van lơn: “Xin các ông rủ lòng xót thương, đã mấy hôm nay tửu lầu chúng con không thể chuyển nước gạo ra ngoài thành. Nếu cứ để mãi trong quán thì thối um lên mất.”
Chưa kịp nghe rõ người đầy tớ nói gì, hai tên lính thủ thành vừa lại gần đã mửa ra vì thứ mùi tanh tưởi gớm ghiếc.
Một tên lính gắt: “Cái quái gì đây, sao thối thế! Có biết phủ Tích Tân đang phong tỏa không? Không ai được ra ngoài hết!”
Người đầy tớ thưa: “Tiểu nhân là tiểu nhị của quán rượu Nha Tước khu tây thành, tiểu nhân mang nước gạo ra ngoài thành để đổ.”
Tên lính muốn nói tiếp, nhưng vừa mở miệng thì mùi thối hoăng hoắc xộc lên tận mũi. Hắn nín thinh tức thì, nghĩ bụng giờ mà há miệng có khác nào đớp phân không.
Tuy có lệnh phong tỏa, nhưng hiển nhiên phủ Tích Tân không thể cấm vào ra hoàn toàn. Nếu nội bất xuất ngoại bất nhập thật thì chỉ mấy ngày nữa thôi, cả tòa thành sẽ thối um lên vì các xe chở phân, xe chở nước gạo bị mắc kẹt.
Lính canh cố nhịn cơn buồn nôn để kiểm tra xe nước gạo.
Trên xe có bốn thùng nước gạo to đùng, tên lính mở nắp hai thùng, mùi cơm thừa canh cặn tích trữ mấy hôm xộc lên làm hắn ói ra nước chua. Hắn kêu bạn gác kiểm tra hai thùng còn lại, người đầy tớ đẩy xe rất hợp tác, chủ động nhấc nắp một thùng nước gạo lên. Ai ngờ, tên lính đó bịt mũi, lầu bầu: “Được rồi được rồi, đi đi.”
Người đầy tớ mừng quá, vội vàng quỳ xuống khấu đầu với hai tên lính, nhấc xe lên toan đẩy đi.
Đúng lúc ấy, một tên lính nói: “Hai thùng này đã kiểm tra đâu?”
“Có vấn đề gì được chứ? Thối inh như thế thì giấu ai?”
Tên lính còn muốn nói thêm, bạn gác của hắn đã nhăn nhó rút kiếm thọc bừa vào hai thùng nước gạo còn lại. “Thế này được chưa? Ối làng nước ơi, hôi hám quá đi mất, nước gạo chảy cả ra này! Tanh lòm cả kiếm của tao rồi! Quỷ tha ma bắt, thằng kia mau cẳng lên, đừng lề mề nữa.”
Trước giờ mỗi khi kiểm tra hàng hóa, bọn lính thủ thành thường lấy kiếm đâm bừa vào mấy lượt. Lần này tên lính bị hơi thối làm cho lú đầu, quen tay xọc kiếm vào mà quên béng đi đây là xe nước gạo. Đâm xong hắn mới thấy hối hận ghê gớm.
Người đầy tớ thì trợn mắt hãi hùng. Tên lính rút kiếm đâm vào thùng quá nhanh làm anh ta không phản ứng kịp. May sao, khi anh ta tưởng không qua được thì hai tên lính gác đã xua lấy xua để anh ta ra khỏi cổng thành, tránh để nước gạo chảy đầy đất.
Ra khỏi thành, người đầy tớ đẩy xe đi vun vút.
Đến nơi hoang vu không người, anh ta vội vàng mở nắp thùng nước gạo ra. Mở hết cả bốn cái nắp, người đầy tớ cũng quên béng là mình giấu Đường Thận ở thùng nào. Anh ta lần tìm cơ quan ngầm trong thùng, cuối cùng cũng tìm được cái thùng có tấm ngăn nước gạo. Mở tấm ngăn, anh này quýnh quáng hỏi: “Đại nhân có sao không?”
Chịu ngộp cả một canh giờ, vừa hít được không khí trong lành, Đường Thận liền bò vội ra khỏi thùng, nôn thốc nôn tháo bên lề đường.
Kiều Cửu phải tìm người gia công suốt đêm mới chế tạo xong cơ quan trong thùng nước gạo, nên hệ thống này rất thô sơ, không thể ngăn nước gạo rò rỉ từ trên tấm ngăn xuống. Người ngợm, tóc tai Đường Thận nhớp nháp nước bẩn vừa chua vừa hôi, nếu không nhờ ý chí siêu phàm thì cậu đã chẳng chịu đựng nổi đến giờ phút này.
Người đầy tớ hộ tống Đường Thận ra khỏi thành chính là thuộc hạ tâm phúc của Lư Thâm, anh ta đưa cho Đường Thận túi nước, Đường Thận uống nước vào rồi cứ nôn liên tục đến khi dạ dày rỗng tuếch, chẳng nôn được nữa mới thôi.
Người đầy tớ nói: “Đại nhân, vừa nãy tên lính kia đâm hai nhát có làm ngài bị thương không?”
Đường Thận lau nước chua dính quanh miệng, giơ cánh tay lên: “Bị sượt qua một chút, nhưng vết thương không sâu, không đáng ngại. Trong thùng ta ngồi, nước gạo đã rò xuống đầy nửa thùng, gã có đâm vào cũng không phát hiện ra điều bất thường. Đừng chần chừ nữa, khẩn trương về thành U Châu thôi.”
Người đầy tớ kiểm tra kĩ càng thì thấy vết thương trên cánh tay Đường Thận nông thật, máu rỉ từ vết thương đã khô hết trong thời gian ra khỏi thành.
Họ vội vàng lên đường, giữa chốn đồng không mông quanh, họ chẳng lo nghĩ được nhiều. Hai người nhanh chóng tìm được một thị trấn, thay quần áo, mua hai thớt ngựa rồi giục ngựa về thành U Châu.
Từ thành U Châu đến phủ Tích Tân, Đường Thận phải đi mất sáu ngày. Chuyến về, họ giục ngựa hối hả thì chỉ tốn hai ngày mà thôi.
Bất chấp cảnh màn trời chiếu đất suốt cả hành trình, Đường Thận vẫn nghiến răng thúc ngựa về phương nam.
Chẳng mấy chốc, họ đã tới thành U Châu. Giữa đêm khuya, Đường Thận bất chợt ghìm cương. Người lính bảo vệ cậu không biết chuyện gì xảy ra, liền ngoái đầu nhìn lại. Dưới ánh trăng, mặt Đường Thận trắng bệnh như tờ giấy, cậu siết chặt nắm đấm tay phải, che miệng ho khù khụ. Lúc cất lời, giọng Đường Thận thều thảo khản đặc: “Ta vẫn sơ suất quá, có lẽ nước gạo đã ngấm vào vết thương gây loét rồi.”
Người lính choáng váng, vội vàng xuống ngựa kiểm tra vết thương cho Đường Thận. Vết thương rõ ràng không sâu nhưng lại mưng mủ trắng. Anh ta sờ lên da Đường Thận, người cậu nóng hầm hập. Người lính sợ quá: “Hỏng rồi, vết thương này phải xử lí gấp mới được. Xin đại nhân cố gắng nhịn đau.” Nói đoạn, người lính rút dao găm, dùng ống đựng mồi lửa thắp lửa lên, hơ con dao trên ngọn lửa.
Khi dao đã nóng đỏ, anh ta nói với Đường Thận: “Đại nhân, ráng chịu đựng nhé.”
Đường Thận thở hổn hển từng hơi nóng rẫy, khẽ gật đầu. Tích tắc sau, con dao găm đỏ rực cứa vào cánh tay cậu, đau đớn tưởng chừng nứt hai con mắt. Từ cánh tay, cơn đau thấu xương lan ra khắp mình mẩy. Quanh vết thương, những bắp cơ co giật dữ dội trong vô thức.
Đường Thận chết giấc ngay tức thì.
Đến khi cậu tỉnh lại, hai người đã tới chân thành U Châu. Người lính không kịp nghĩ nhiều, định vào thành luôn: “Phải khẩn trương vào thành tìm đại phu chữa trị vết thương cho ngài, vừa nãy tiểu nhân chỉ xử lí đơn giản, không có tác dụng chữa thương.”
Trong cơn sốt thiêu cháy người, Đường Thận níu lấy người lính, run rẩy rút lệnh bài trong tay áo ra: “Không được vào thành. Ngươi đến đại doanh U Châu tìm Lý tướng quân, kể sự tình cho hắn, nói hộ ta một câu…ơn huệ ở Thịnh Kinh, tướng quân trả được rồi.”
Thảo nguyên mênh mông vầng trăng rủ, muôn sao quây tựa bầy con thơ.
Người lính nhỏ con cầm lệnh bài Chinh Tây Nguyên soái của Lý Cảnh Đức, thớt ngựa khỏe phi như bay, xé toạc màn đêm phóng vào đại doanh U Châu. Đến tận lúc tảng sáng, người lính ấy vẫn chưa ra khỏi doanh trại. Từ đằng đông thành U Châu, khi ánh bình minh ló rạng, có hai cỗ xe ngựa đủng đỉnh lăn bánh về thành.
Sau khi vào thành, một cỗ xe ngựa đến phủ nha U Châu, cỗ kia về ty Ngân Dẫn.
Cỗ xe vào phủ nha chỉ dừng lại đó nửa canh giờ rồi cũng sang ty Ngân Dẫn luôn.
Trời đã sáng hẳn, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh xuống xe ngựa, ngẩng đầu nhìn tấm biển đề ba chữ “Ty Ngân Dẫn” treo cao trên cổng chính. Phủ nha ty Ngân Dẫn nhộn nhịp, các quan viên đã tới nha môn từ sớm để bắt đầu một ngày làm.
Một quan sai ra ngoài cổng đón Dư Triều Sinh, dẫn anh ta đi vòng qua hai tòa nhà, tiến vào hậu viện ty Ngân Dẫn.
Dư Triều Sinh đứng ngoài cửa nói: “Hạ quan Dư Triều Sinh bái kiến Hộ bộ Thượng thư đại nhân.”
Cửa phòng kẽo kẹt mở ra, Vương Trăn mặc quan bào đỏ thẫm phẳng phiu, mỉm cười nói: “Dư đại nhân vừa đến phủ nha U Châu đã sang ty Ngân Dẫn ngay rồi à?”
Dư Triều Sinh đáp: “Hạ quan phụng chỉ đốc tra ty Ngân Dẫn, không dám chậm trễ.”
Vương Trăn cười điềm nhiên: “Vậy thì vào đây đi.”
Dư Triều Sinh vào nhà, hai người trò chuyện một lát. Đoạn, anh ta hỏi Vương Trăn: “Quan viên trong ty Ngân Dẫn vô cùng mẫn cán, hạ quan vào cửa đã thấy họ bắt đầu làm việc. Mỗi tội, đi tới tận đây mà hạ quan vẫn chưa gặp Đường đại nhân. Cách đây một tháng, Đường đại nhân đã đến U Châu để đốc tra ty Ngân Dẫn, hạ quan cần tiếp quản công việc của cậu ta. Chẳng hay đại nhân có biết vì sao cậu ấy lại vắng mặt không?”
Vương Trăn không trả lời, chỉ cười khẽ một tiếng. Chàng bắt đầu pha trà.
Tuy Dư Triều Sinh không phải con cháu thế gia, nhưng ở quê nhà, họ Dư cũng là dòng tộc có địa vị. Vương Trăn khi không lại pha trà, Dư Triều Sinh chỉ đành trật tự quan sát quá trình pha trà của Vương Trăn theo đúng lễ nghi. Anh ta có chút bực dọc, song chẳng thế đoán được suy nghĩ của Vương Tử Phong. Nhẽ nào Vương Tử Phong sai Đường Thận làm gì nên bây giờ mới không muốn tiết lộ hành tung của Đường Thận cho anh ta?
Ấy vậy mà trông Vương Trăn vẫn nho nhã, chính trực như ánh trăng trong vắt rọi tỏ nhân gian.
Dù ôm một bụng ngờ vực, song Dư Triều Sinh chẳng thể phủ nhận rằng, được xem Vương Trăn thực hành trà đạo quả là một trải nghiệm vô cùng mãn nhãn.
Lúc này, hai người đã lãng phí gần nửa canh giờ trong phòng.
Dư Triều Sinh thưởng thức trà, đang muốn gợi lại chuyện thì một quan sai đã bước vào phòng, hành lễ thưa: “Sáng sớm hôm nay, Lý tướng quân và Đường đại nhân đi săn thú ở ngoài thành, hiện vẫn chưa về. Tiểu nhân đã ra đó mời rồi ạ.”
Ánh mắt Vương Trăn thoáng lay động, chàng thầm khen tiểu sư đệ thông minh, về kịp ngay phút chót, còn biết nhờ Lý Cảnh Đức bao che cho.
Vương Trăn “Ừ” một tiếng: “Không vội. Dư đại nhân, uống thêm chén trà nữa nhé?”
Dư Triều Sinh đã no bụng nước và muốn đi về từ lâu rồi, nhưng Vương Trăn không nói gì thì anh ta chẳng dám nhúc nhích. Về danh nghĩa, anh ta được hoàng đế phái tới giám sát ty Ngân Dẫn, nhưng ai mà chẳng biết ty Ngân Dẫn là địa bàn của Vương Tử Phong? Ở thành U Châu, anh ta vẫn phải cúi đầu, tránh làm phật lòng Vương Tử Phong thì mới yên thân được.
Chờ thêm nửa canh giờ, người lính được Lý Cảnh Đức phái tới đưa tin quay lại bẩm báo, chính xác như đã căn giờ.
Dư Triều Sinh hỏi: “Đường đại nhân và Lý tướng quân về rồi hả?”
Người lính thưa: “Lúc đi săn Đường đại nhân không may trúng phải tên lạc, đang chẩn trị ở đại doanh U Châu.”
Vương Trăn nhướng mày, nhất thời chỉ cho đây là kế hoãn binh của Đường Thận. Chàng vờ sửng sốt: “Trúng tên lạc ư? Thương thế ra sao, có nguy hiểm không?”
Nghe thế, Dư Triều Sinh trộm liếc nhìn Vương Trăn, nghĩ thầm: Vương Tử Phong trông không có vẻ gì là lo lắng, chẳng nhẽ sư huynh đệ họ bằng mặt không bằng lòng, tình cảm sứt mẻ sao?
Người lính thành thật bẩm báo đúng như những gì Lý Cảnh Đức dặn dò: “Đường đại nhân hôn mê bất tỉnh, Lý tướng quân đã mời hai quân y đến khám. Lúc tiểu nhân đến, quân y đã đắp thuốc kim sang tốt nhất rồi ạ.”
Một tia sáng mảnh nháng lên trong đôi mắt tinh tường của Vương Trăn, dường như chàng đã nhận ra điều gì đó. Vương Trăn lẳng lặng siết chặt chén trà, đột nhiên hỏi: “Đệ ấy đang ở đại doanh U Châu ư?”
Người lính và Dư Triều Sinh ngây người, cùng nhìn Vương Trăn bằng ánh mắt khó hiểu.
Vừa nãy người lính đã bẩm rằng Đường Thận bị thương, đang chữa trị ở doanh trại, lẽ nào Vương Tử Phong không nghe thấy?
Người lính nghiêm chỉnh đáp: “Vâng, Đường đại nhân đang ở quân doanh.”
Tay Vương Trăn run lên khe khẽ, chén trà sượt khỏi tay chàng, đổ nghiêng trên bàn, nước trà lênh láng. Căn phòng lặng ngắt như tờ, Dư Triều Sinh âm thầm quan sát Vương Trăn. Không thể nhận ra bất cứ cảm xúc nào từ gương mặt thanh nhã của Vương Trăn cả, nhưng chàng im lặng quá đỗi, tuyệt nhiên không nói lời nào, cứ như thể đã quên mất điều mình cần nói.
Hồi lâu sau, Vương Trăn mới thở dài một hơi, bình tĩnh hỏi: “Dư đại nhân có muốn đến quân doanh xem tình hình Đường đại nhân không?”
Vương Tử Phong muốn đi thăm sư đệ, Dư Triều Sinh đương nhiên phải thuận nước đẩy thuyền: “Được thôi.”
Vương Trăn đứng bật dậy ngay rồi khựng lại ngay. Có lẽ chàng thấy động tác của mình có phần quá nôn nóng, bèn gật đầu với Dư Triều Sinh rồi bảo người lính kia: “Ngươi hãy về trước, thông báo cho Lý tướng quân rằng lát nữa chúng ta sẽ tới.”
Vương Trăn và Dư Triều Sinh nhanh chóng lên một chiếc xe ngựa, thẳng tiến đến đại doanh U Châu.
Dư Triều Sinh vẫn ngấm ngầm quan sát Vương Trăn, chỉ thấy Vương Tử Phong lãnh đạm nhắm mắt dưỡng thần, không nói năng gì cả. Anh ta thu ánh nhìn, không phán đoán được liệu Vương Trăn có đang lo cho Đường Cảnh Tắc hay không. Nếu lo lắng, tại sao lúc đầu nghe tin Đường Cảnh Tắc bị thương, trông Vương Trăn lại bình tâm đến thế? Nếu không lo, thì những biểu hiện vừa rồi của hắn ta hoàn toàn bất hợp lí.
“Vương đại nhân?”
Vương Trăn mở mắt nhìn Dư Triều Sinh.
Đối diện với ánh mắt Vương Trăn, Dư Triều Sinh bỗng giật mình khiếp đảm. Anh ta khẩn trương lia mắt đi, lầm rầm bảo: “Không có gì, hình như sắp tới nơi.”
Xe ngựa đỗ ở ngoài đại doanh U Châu, hai người xuống xe đi bộ. Họ vào trong doanh trại một lát thì Lý Cảnh Đức vén cửa lều đi ra.
Dư Triều Sinh chắp tay thi lễ: “Hạ quan bái kiến Lý tướng quân.”
Lý Cảnh Đức thấy Vương Trăn điềm nhiên như không thì rất khó hiểu: “Lạ chưa kìa, người ta là sư đệ ngươi đấy, sao trông ngươi dửng dưng thế hả Vương Tử Phong?”
Vương Trăn hỏi: “Tình trạng đệ ấy thế nào?”
Lý Cảnh Đức định bụng bảo “Nghiêm trọng lắm, chết đến nơi rồi”, mà đúng là hắn nói thế thật, nhưng chỉ được ba chữ đầu rồi im bặt. Trước cái nhìn đầy hăm dọa của Vương Tử Phong, Lý Cảnh Đức đành sửa lời: “Không quá tốt, nhưng không đến nỗi tệ.”
Vương Trăn nhắm mắt lại, mãi chẳng cất lời. Đến lúc mở mắt ra, chàng mới bảo: “Vào thôi.”
Chính Lư Thâm mới là người nhớ rõ tướng mạo thích khách nhất chứ không phải Gia Luật Cần.
Lư Thâm có cách riêng để truy tìm tung tích một người. Từ phủ Đô bộ thự, hắn lùng tìm theo hướng tây. Đầu tiên, Lư Thâm loại trừ tất cả những quán trọ bình dân, vì mấy hôm nay quân Liêu đã lục soát hết các quán trọ trong thành mà không tìm được thích khách. Sau đó, hắn loại trừ hết các hộ gia đình bình thường. Phủ Tích Tân là lãnh địa của các quan miền nam, địa bàn của Gia Luật Cần, nên thích khách chắc chắn không dám tiếp xúc với ai cả. Nếu có, y sẽ bị phát giác ngay tức thì.
Lư Thâm nhanh chóng xác định được mười mấy căn nhà bỏ hoang không ai ở, cần kiểm tra kĩ từng căn.
Về phần mình, Kiều Cửu mang lễ vật đến tận nơi xin lỗi Tiêu Luật, nói rằng mới đây con trai mình bị cảm chưa khỏe hẳn, giờ bệnh tái phát đột ngột, quả thật không thể diện kiến Nhị hoàng tử.
Tiêu Luật tức điên người. Kìm cơn giận, gã nói: “Kiều Cửu, huynh nói huynh cần đưa con trai ra khỏi phủ Tích Tân gấp, tôi phải mất bao công sức mới xin được Nhị hoàng tử ban cho cơ hội này. Tôi thưa chuyện với điện hạ xong hết rồi, giờ huynh làm thế thì bảo tôi tính sao đây!”
Kiều Cửu vốn khôn khéo hơn người, hắn tinh ý nhận ra ngay sự bất thường trong thái độ của Tiêu Luật. Tại sao Tiêu Luật lại nôn nóng muốn Đường Thận gặp Nhị hoàng tử đến thế? Lẽ nào gã đã phát hiện ra thân phận của Đường Thận rồi ư?
Không thể thế được! Nếu biết sự thật, Tiêu Luật sẽ không chờ đợi Đường Thận đến gặp Gia Luật Xá Ca; gã sẽ bắt ngay Đường Thận nộp cho Gia Luật Xá Ca để tranh công mới phải.
Kiều Cửu khóc lóc kể lể: “Tiêu tiên sinh, tôi cũng khổ lắm! Kiều Cửu này trên có mẹ già, dưới còn con thơ, thế mà giờ đều ốm bệnh hết. Biết làm sao cho phải đây! Khuyển tử không thể xuống giường nổi, ngài cứ đến mà xem, nó ốm rất nặng. Tôi sợ nó mà đến gặp Nhị điện hạ thì lây cho điện hạ tôn quý mất. Nếu không được, tiên sinh có thể để tôi đi theo đặng phân trần với điện hạ không?
Tiêu Luật hết cách, đành dẫn Kiều Cửu đến bái kiến Gia Luật Xá Ca.
Gia Luật Xá Ca nghe tin con trai Kiều Cửu bị ốm thì hơi ngạc nhiên. Y cười lạnh buốt: “Ốm đúng lúc thật, cơn bệnh này cứu mạng hắn rồi đấy. Nếu ốm liệt giường thì chẳng ra khỏi thành được, Tiêu Luật cũng khỏi cần vào gặp bản điện hạ.”
Tiêu Luật ăn phải “chè bế môn” thì tức anh ách, phất tay áo bỏ đi, không thèm đếm xỉa đến Kiều Cửu nữa.
Kiều Cửu đuổi theo gã, luôn mồm xin lỗi, Tiêu Luật lờ phắt. Đến lúc Tiêu Luật lên xe ngựa ra về, Kiều Cửu cũng thôi tỏ ra bợ đỡ. Hắn nghĩ thầm: “Giờ thì bắt buộc phải giết Tiêu Luật rồi. Lần này trở mặt với gã, nếu để gã sống, việc ở phủ Tích Tân của ta ắt chẳng thành.”
Đường Thận giả bộ ốm liệt giường, định bụng chờ Lư Thâm bắt được thích khách thì rời khỏi phủ Tích Tân.
Không ngờ chỉ mấy hôm sau, cậu đã nhận được mật thư của Tô Ôn Duẫn.
Phủ Tích Tân chỉ có đường vào mà không có đường ra, Tô Ôn Duẫn gửi thư vào phủ được, nhưng Đường Thận vẫn bị cầm chân ở đây. Trong mật thư, Tô Ôn Duẫn viết một bài thơ. Giải mật thư xong, Đường Thận rùng mình hãi sợ. Thư viết: “Thịnh Kinh phái sứ giả!”
Thịnh Kinh lại phái thêm người đến ư?
Đường Thận tạm thời không phán đoán được mức độ nghiêm trọng của việc này, nhưng cậu không dám coi thường. Âm mưu thiết lập đường dây tình báo trong nước Liêu là việc hệ trọng không thể tiết lộ cho bất cứ ai; ngay cả với Vương Trăn, Đường Thận cũng giữ bí mật, chàng phải tự suy luận tất cả mọi thứ. Không ai có thể biết được liệu viên quan Thịnh Kinh sắp xuất hiện có làm đổ bể nhiệm vụ quan trọng này không.
Đường Thận siết chặt bức mật thư, giam mình trong phòng suy tính cả buổi chiều. Chập tối, khi sắc trời sâm sẩm, Đường Thận mới đứng dậy thắp nến, đốt mật thư. Nhìn mẩu giấy Tuyên quắt lại thành than, Đường Thận thở dài. Cậu gọi Kiều Cửu vào, nói: “Chậm nhất là mai ta phải rời khỏi thành, ngươi có cách nào không?”
Kiều Cửu: “Đại nhân bắt buộc phải rời thành sao?”
“Đúng thế, ta nhất định phải ra khỏi thành.”
Kiều Cửu vắt hết óc: “Có! Xin đại nhân yên tâm, việc này cứ giao cho tiểu nhân lo liệu.”
Sớm hôm sau, từ lúc tinh mơ mờ sáng, trên con đường đá lổn nhổn xóc nảy có một người đàn ông gầy đét nom hệt đầy tớ đang đẩy một xe nước gạo, nghiêng ngả đi ra cổng Tây. Đến cổng thành, anh ta bị lính thủ thành chặn lại. Người đầy tớ khổ sở van lơn: “Xin các ông rủ lòng xót thương, đã mấy hôm nay tửu lầu chúng con không thể chuyển nước gạo ra ngoài thành. Nếu cứ để mãi trong quán thì thối um lên mất.”
Chưa kịp nghe rõ người đầy tớ nói gì, hai tên lính thủ thành vừa lại gần đã mửa ra vì thứ mùi tanh tưởi gớm ghiếc.
Một tên lính gắt: “Cái quái gì đây, sao thối thế! Có biết phủ Tích Tân đang phong tỏa không? Không ai được ra ngoài hết!”
Người đầy tớ thưa: “Tiểu nhân là tiểu nhị của quán rượu Nha Tước khu tây thành, tiểu nhân mang nước gạo ra ngoài thành để đổ.”
Tên lính muốn nói tiếp, nhưng vừa mở miệng thì mùi thối hoăng hoắc xộc lên tận mũi. Hắn nín thinh tức thì, nghĩ bụng giờ mà há miệng có khác nào đớp phân không.
Tuy có lệnh phong tỏa, nhưng hiển nhiên phủ Tích Tân không thể cấm vào ra hoàn toàn. Nếu nội bất xuất ngoại bất nhập thật thì chỉ mấy ngày nữa thôi, cả tòa thành sẽ thối um lên vì các xe chở phân, xe chở nước gạo bị mắc kẹt.
Lính canh cố nhịn cơn buồn nôn để kiểm tra xe nước gạo.
Trên xe có bốn thùng nước gạo to đùng, tên lính mở nắp hai thùng, mùi cơm thừa canh cặn tích trữ mấy hôm xộc lên làm hắn ói ra nước chua. Hắn kêu bạn gác kiểm tra hai thùng còn lại, người đầy tớ đẩy xe rất hợp tác, chủ động nhấc nắp một thùng nước gạo lên. Ai ngờ, tên lính đó bịt mũi, lầu bầu: “Được rồi được rồi, đi đi.”
Người đầy tớ mừng quá, vội vàng quỳ xuống khấu đầu với hai tên lính, nhấc xe lên toan đẩy đi.
Đúng lúc ấy, một tên lính nói: “Hai thùng này đã kiểm tra đâu?”
“Có vấn đề gì được chứ? Thối inh như thế thì giấu ai?”
Tên lính còn muốn nói thêm, bạn gác của hắn đã nhăn nhó rút kiếm thọc bừa vào hai thùng nước gạo còn lại. “Thế này được chưa? Ối làng nước ơi, hôi hám quá đi mất, nước gạo chảy cả ra này! Tanh lòm cả kiếm của tao rồi! Quỷ tha ma bắt, thằng kia mau cẳng lên, đừng lề mề nữa.”
Trước giờ mỗi khi kiểm tra hàng hóa, bọn lính thủ thành thường lấy kiếm đâm bừa vào mấy lượt. Lần này tên lính bị hơi thối làm cho lú đầu, quen tay xọc kiếm vào mà quên béng đi đây là xe nước gạo. Đâm xong hắn mới thấy hối hận ghê gớm.
Người đầy tớ thì trợn mắt hãi hùng. Tên lính rút kiếm đâm vào thùng quá nhanh làm anh ta không phản ứng kịp. May sao, khi anh ta tưởng không qua được thì hai tên lính gác đã xua lấy xua để anh ta ra khỏi cổng thành, tránh để nước gạo chảy đầy đất.
Ra khỏi thành, người đầy tớ đẩy xe đi vun vút.
Đến nơi hoang vu không người, anh ta vội vàng mở nắp thùng nước gạo ra. Mở hết cả bốn cái nắp, người đầy tớ cũng quên béng là mình giấu Đường Thận ở thùng nào. Anh ta lần tìm cơ quan ngầm trong thùng, cuối cùng cũng tìm được cái thùng có tấm ngăn nước gạo. Mở tấm ngăn, anh này quýnh quáng hỏi: “Đại nhân có sao không?”
Chịu ngộp cả một canh giờ, vừa hít được không khí trong lành, Đường Thận liền bò vội ra khỏi thùng, nôn thốc nôn tháo bên lề đường.
Kiều Cửu phải tìm người gia công suốt đêm mới chế tạo xong cơ quan trong thùng nước gạo, nên hệ thống này rất thô sơ, không thể ngăn nước gạo rò rỉ từ trên tấm ngăn xuống. Người ngợm, tóc tai Đường Thận nhớp nháp nước bẩn vừa chua vừa hôi, nếu không nhờ ý chí siêu phàm thì cậu đã chẳng chịu đựng nổi đến giờ phút này.
Người đầy tớ hộ tống Đường Thận ra khỏi thành chính là thuộc hạ tâm phúc của Lư Thâm, anh ta đưa cho Đường Thận túi nước, Đường Thận uống nước vào rồi cứ nôn liên tục đến khi dạ dày rỗng tuếch, chẳng nôn được nữa mới thôi.
Người đầy tớ nói: “Đại nhân, vừa nãy tên lính kia đâm hai nhát có làm ngài bị thương không?”
Đường Thận lau nước chua dính quanh miệng, giơ cánh tay lên: “Bị sượt qua một chút, nhưng vết thương không sâu, không đáng ngại. Trong thùng ta ngồi, nước gạo đã rò xuống đầy nửa thùng, gã có đâm vào cũng không phát hiện ra điều bất thường. Đừng chần chừ nữa, khẩn trương về thành U Châu thôi.”
Người đầy tớ kiểm tra kĩ càng thì thấy vết thương trên cánh tay Đường Thận nông thật, máu rỉ từ vết thương đã khô hết trong thời gian ra khỏi thành.
Họ vội vàng lên đường, giữa chốn đồng không mông quanh, họ chẳng lo nghĩ được nhiều. Hai người nhanh chóng tìm được một thị trấn, thay quần áo, mua hai thớt ngựa rồi giục ngựa về thành U Châu.
Từ thành U Châu đến phủ Tích Tân, Đường Thận phải đi mất sáu ngày. Chuyến về, họ giục ngựa hối hả thì chỉ tốn hai ngày mà thôi.
Bất chấp cảnh màn trời chiếu đất suốt cả hành trình, Đường Thận vẫn nghiến răng thúc ngựa về phương nam.
Chẳng mấy chốc, họ đã tới thành U Châu. Giữa đêm khuya, Đường Thận bất chợt ghìm cương. Người lính bảo vệ cậu không biết chuyện gì xảy ra, liền ngoái đầu nhìn lại. Dưới ánh trăng, mặt Đường Thận trắng bệnh như tờ giấy, cậu siết chặt nắm đấm tay phải, che miệng ho khù khụ. Lúc cất lời, giọng Đường Thận thều thảo khản đặc: “Ta vẫn sơ suất quá, có lẽ nước gạo đã ngấm vào vết thương gây loét rồi.”
Người lính choáng váng, vội vàng xuống ngựa kiểm tra vết thương cho Đường Thận. Vết thương rõ ràng không sâu nhưng lại mưng mủ trắng. Anh ta sờ lên da Đường Thận, người cậu nóng hầm hập. Người lính sợ quá: “Hỏng rồi, vết thương này phải xử lí gấp mới được. Xin đại nhân cố gắng nhịn đau.” Nói đoạn, người lính rút dao găm, dùng ống đựng mồi lửa thắp lửa lên, hơ con dao trên ngọn lửa.
Khi dao đã nóng đỏ, anh ta nói với Đường Thận: “Đại nhân, ráng chịu đựng nhé.”
Đường Thận thở hổn hển từng hơi nóng rẫy, khẽ gật đầu. Tích tắc sau, con dao găm đỏ rực cứa vào cánh tay cậu, đau đớn tưởng chừng nứt hai con mắt. Từ cánh tay, cơn đau thấu xương lan ra khắp mình mẩy. Quanh vết thương, những bắp cơ co giật dữ dội trong vô thức.
Đường Thận chết giấc ngay tức thì.
Đến khi cậu tỉnh lại, hai người đã tới chân thành U Châu. Người lính không kịp nghĩ nhiều, định vào thành luôn: “Phải khẩn trương vào thành tìm đại phu chữa trị vết thương cho ngài, vừa nãy tiểu nhân chỉ xử lí đơn giản, không có tác dụng chữa thương.”
Trong cơn sốt thiêu cháy người, Đường Thận níu lấy người lính, run rẩy rút lệnh bài trong tay áo ra: “Không được vào thành. Ngươi đến đại doanh U Châu tìm Lý tướng quân, kể sự tình cho hắn, nói hộ ta một câu…ơn huệ ở Thịnh Kinh, tướng quân trả được rồi.”
Thảo nguyên mênh mông vầng trăng rủ, muôn sao quây tựa bầy con thơ.
Người lính nhỏ con cầm lệnh bài Chinh Tây Nguyên soái của Lý Cảnh Đức, thớt ngựa khỏe phi như bay, xé toạc màn đêm phóng vào đại doanh U Châu. Đến tận lúc tảng sáng, người lính ấy vẫn chưa ra khỏi doanh trại. Từ đằng đông thành U Châu, khi ánh bình minh ló rạng, có hai cỗ xe ngựa đủng đỉnh lăn bánh về thành.
Sau khi vào thành, một cỗ xe ngựa đến phủ nha U Châu, cỗ kia về ty Ngân Dẫn.
Cỗ xe vào phủ nha chỉ dừng lại đó nửa canh giờ rồi cũng sang ty Ngân Dẫn luôn.
Trời đã sáng hẳn, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh xuống xe ngựa, ngẩng đầu nhìn tấm biển đề ba chữ “Ty Ngân Dẫn” treo cao trên cổng chính. Phủ nha ty Ngân Dẫn nhộn nhịp, các quan viên đã tới nha môn từ sớm để bắt đầu một ngày làm.
Một quan sai ra ngoài cổng đón Dư Triều Sinh, dẫn anh ta đi vòng qua hai tòa nhà, tiến vào hậu viện ty Ngân Dẫn.
Dư Triều Sinh đứng ngoài cửa nói: “Hạ quan Dư Triều Sinh bái kiến Hộ bộ Thượng thư đại nhân.”
Cửa phòng kẽo kẹt mở ra, Vương Trăn mặc quan bào đỏ thẫm phẳng phiu, mỉm cười nói: “Dư đại nhân vừa đến phủ nha U Châu đã sang ty Ngân Dẫn ngay rồi à?”
Dư Triều Sinh đáp: “Hạ quan phụng chỉ đốc tra ty Ngân Dẫn, không dám chậm trễ.”
Vương Trăn cười điềm nhiên: “Vậy thì vào đây đi.”
Dư Triều Sinh vào nhà, hai người trò chuyện một lát. Đoạn, anh ta hỏi Vương Trăn: “Quan viên trong ty Ngân Dẫn vô cùng mẫn cán, hạ quan vào cửa đã thấy họ bắt đầu làm việc. Mỗi tội, đi tới tận đây mà hạ quan vẫn chưa gặp Đường đại nhân. Cách đây một tháng, Đường đại nhân đã đến U Châu để đốc tra ty Ngân Dẫn, hạ quan cần tiếp quản công việc của cậu ta. Chẳng hay đại nhân có biết vì sao cậu ấy lại vắng mặt không?”
Vương Trăn không trả lời, chỉ cười khẽ một tiếng. Chàng bắt đầu pha trà.
Tuy Dư Triều Sinh không phải con cháu thế gia, nhưng ở quê nhà, họ Dư cũng là dòng tộc có địa vị. Vương Trăn khi không lại pha trà, Dư Triều Sinh chỉ đành trật tự quan sát quá trình pha trà của Vương Trăn theo đúng lễ nghi. Anh ta có chút bực dọc, song chẳng thế đoán được suy nghĩ của Vương Tử Phong. Nhẽ nào Vương Tử Phong sai Đường Thận làm gì nên bây giờ mới không muốn tiết lộ hành tung của Đường Thận cho anh ta?
Ấy vậy mà trông Vương Trăn vẫn nho nhã, chính trực như ánh trăng trong vắt rọi tỏ nhân gian.
Dù ôm một bụng ngờ vực, song Dư Triều Sinh chẳng thể phủ nhận rằng, được xem Vương Trăn thực hành trà đạo quả là một trải nghiệm vô cùng mãn nhãn.
Lúc này, hai người đã lãng phí gần nửa canh giờ trong phòng.
Dư Triều Sinh thưởng thức trà, đang muốn gợi lại chuyện thì một quan sai đã bước vào phòng, hành lễ thưa: “Sáng sớm hôm nay, Lý tướng quân và Đường đại nhân đi săn thú ở ngoài thành, hiện vẫn chưa về. Tiểu nhân đã ra đó mời rồi ạ.”
Ánh mắt Vương Trăn thoáng lay động, chàng thầm khen tiểu sư đệ thông minh, về kịp ngay phút chót, còn biết nhờ Lý Cảnh Đức bao che cho.
Vương Trăn “Ừ” một tiếng: “Không vội. Dư đại nhân, uống thêm chén trà nữa nhé?”
Dư Triều Sinh đã no bụng nước và muốn đi về từ lâu rồi, nhưng Vương Trăn không nói gì thì anh ta chẳng dám nhúc nhích. Về danh nghĩa, anh ta được hoàng đế phái tới giám sát ty Ngân Dẫn, nhưng ai mà chẳng biết ty Ngân Dẫn là địa bàn của Vương Tử Phong? Ở thành U Châu, anh ta vẫn phải cúi đầu, tránh làm phật lòng Vương Tử Phong thì mới yên thân được.
Chờ thêm nửa canh giờ, người lính được Lý Cảnh Đức phái tới đưa tin quay lại bẩm báo, chính xác như đã căn giờ.
Dư Triều Sinh hỏi: “Đường đại nhân và Lý tướng quân về rồi hả?”
Người lính thưa: “Lúc đi săn Đường đại nhân không may trúng phải tên lạc, đang chẩn trị ở đại doanh U Châu.”
Vương Trăn nhướng mày, nhất thời chỉ cho đây là kế hoãn binh của Đường Thận. Chàng vờ sửng sốt: “Trúng tên lạc ư? Thương thế ra sao, có nguy hiểm không?”
Nghe thế, Dư Triều Sinh trộm liếc nhìn Vương Trăn, nghĩ thầm: Vương Tử Phong trông không có vẻ gì là lo lắng, chẳng nhẽ sư huynh đệ họ bằng mặt không bằng lòng, tình cảm sứt mẻ sao?
Người lính thành thật bẩm báo đúng như những gì Lý Cảnh Đức dặn dò: “Đường đại nhân hôn mê bất tỉnh, Lý tướng quân đã mời hai quân y đến khám. Lúc tiểu nhân đến, quân y đã đắp thuốc kim sang tốt nhất rồi ạ.”
Một tia sáng mảnh nháng lên trong đôi mắt tinh tường của Vương Trăn, dường như chàng đã nhận ra điều gì đó. Vương Trăn lẳng lặng siết chặt chén trà, đột nhiên hỏi: “Đệ ấy đang ở đại doanh U Châu ư?”
Người lính và Dư Triều Sinh ngây người, cùng nhìn Vương Trăn bằng ánh mắt khó hiểu.
Vừa nãy người lính đã bẩm rằng Đường Thận bị thương, đang chữa trị ở doanh trại, lẽ nào Vương Tử Phong không nghe thấy?
Người lính nghiêm chỉnh đáp: “Vâng, Đường đại nhân đang ở quân doanh.”
Tay Vương Trăn run lên khe khẽ, chén trà sượt khỏi tay chàng, đổ nghiêng trên bàn, nước trà lênh láng. Căn phòng lặng ngắt như tờ, Dư Triều Sinh âm thầm quan sát Vương Trăn. Không thể nhận ra bất cứ cảm xúc nào từ gương mặt thanh nhã của Vương Trăn cả, nhưng chàng im lặng quá đỗi, tuyệt nhiên không nói lời nào, cứ như thể đã quên mất điều mình cần nói.
Hồi lâu sau, Vương Trăn mới thở dài một hơi, bình tĩnh hỏi: “Dư đại nhân có muốn đến quân doanh xem tình hình Đường đại nhân không?”
Vương Tử Phong muốn đi thăm sư đệ, Dư Triều Sinh đương nhiên phải thuận nước đẩy thuyền: “Được thôi.”
Vương Trăn đứng bật dậy ngay rồi khựng lại ngay. Có lẽ chàng thấy động tác của mình có phần quá nôn nóng, bèn gật đầu với Dư Triều Sinh rồi bảo người lính kia: “Ngươi hãy về trước, thông báo cho Lý tướng quân rằng lát nữa chúng ta sẽ tới.”
Vương Trăn và Dư Triều Sinh nhanh chóng lên một chiếc xe ngựa, thẳng tiến đến đại doanh U Châu.
Dư Triều Sinh vẫn ngấm ngầm quan sát Vương Trăn, chỉ thấy Vương Tử Phong lãnh đạm nhắm mắt dưỡng thần, không nói năng gì cả. Anh ta thu ánh nhìn, không phán đoán được liệu Vương Trăn có đang lo cho Đường Cảnh Tắc hay không. Nếu lo lắng, tại sao lúc đầu nghe tin Đường Cảnh Tắc bị thương, trông Vương Trăn lại bình tâm đến thế? Nếu không lo, thì những biểu hiện vừa rồi của hắn ta hoàn toàn bất hợp lí.
“Vương đại nhân?”
Vương Trăn mở mắt nhìn Dư Triều Sinh.
Đối diện với ánh mắt Vương Trăn, Dư Triều Sinh bỗng giật mình khiếp đảm. Anh ta khẩn trương lia mắt đi, lầm rầm bảo: “Không có gì, hình như sắp tới nơi.”
Xe ngựa đỗ ở ngoài đại doanh U Châu, hai người xuống xe đi bộ. Họ vào trong doanh trại một lát thì Lý Cảnh Đức vén cửa lều đi ra.
Dư Triều Sinh chắp tay thi lễ: “Hạ quan bái kiến Lý tướng quân.”
Lý Cảnh Đức thấy Vương Trăn điềm nhiên như không thì rất khó hiểu: “Lạ chưa kìa, người ta là sư đệ ngươi đấy, sao trông ngươi dửng dưng thế hả Vương Tử Phong?”
Vương Trăn hỏi: “Tình trạng đệ ấy thế nào?”
Lý Cảnh Đức định bụng bảo “Nghiêm trọng lắm, chết đến nơi rồi”, mà đúng là hắn nói thế thật, nhưng chỉ được ba chữ đầu rồi im bặt. Trước cái nhìn đầy hăm dọa của Vương Tử Phong, Lý Cảnh Đức đành sửa lời: “Không quá tốt, nhưng không đến nỗi tệ.”
Vương Trăn nhắm mắt lại, mãi chẳng cất lời. Đến lúc mở mắt ra, chàng mới bảo: “Vào thôi.”
Bình luận truyện