Tái Sinh Chi Từ
Chương 12
Từ Cửu Chiếu không sợ hãi chút nào tiêu sái bước qua đám người kia, đến đứng ở trước mặt thầy Cao.
Cậu rủ mắt nhìn mai bình phủ men trắng xanh khắc hoa sen trước mắt.
Cái này ở trong mắt mọi người là một tác phẩm khiến người ta phải thán phục hâm mộ, ở trong mắt thầy Cao có thể nói là kiệt tác, nhưng ở trong mắt cậu thì là một thành phẩm có vô số khuyết điểm.
Phôi sứ quá dày, mặt men không sáng bóng lắm, tổng thể toàn thân có vẻ to lớn thô kệch. Điều khiến Từ Cửu Chiếu không hài lòng nhất chính là hoa văn hoa sen quấn quanh kia. Nét vẽ quá nhợt nhạt!
Bởi vì lúc đó cậu thất thần, căn bản là không tập trung tư tưởng để vẽ, đường nét vẽ ra căn bản không có lực độ, nét bút tùy hứng lại không dụng tâm.
Từ Cửu Chiếu quả thực không đành lòng nhìn thẳng vào tác phẩm của mình, hận không thể đem mai bình đoạt lại đem đập vỡ cùng với các thứ phẩm phế thải kia rồi đem chôn đi, mắt không thấy nữa cho thoải mái.
Thầy Cao mặc dù trong lòng tán dương mai bình không dứt, ngoài miệng cũng không có nói trắng ra. Để tránh cho người tuổi trẻ sẽ kiêu căng, chỉ nói là: “Lần này coi như cậu vận khí tốt, đốt một lần liền thành công. Nhưng làm người cũng không thể thấy thỏa mãn mà dừng lại không tiến lên. Có nghe thấy hay không ?”
Từ Cửu Chiếu thở phào, nếu như thầy Cao trực tiếp khen cậu, cậu thật sự không biết nên bày ra biểu cảm gì cho đúng. Tâm tình rất phức tạp, thật là quỷ dị mà.
Từ Cửu Chiếu dạ một tiếng, cung kính nói: “Vâng. Em nhất định cẩn tuân theo dạy bảo của người.” Từ Cửu Chiếu mang theo ánh mắt sùng kính nhìn thầy Cao, nghĩ thầm lần này người cũng nên thu cậu làm đồ đệ rồi chứ?
Vậy mà ánh mắt thầy Cao chỉ chạm mắt cậu một cái, rồi coi như không có chuyện gì xảy ra dời mắt đi .
Từ Cửu Chiếu không hiểu nhìn thầy Cao kêu người cất đi mai bình kia, tiếp tục kiểm kê thành phẩm, đem cậu gạt bỏ sang một bên.
Từ Cửu Chiếu cũng không khó chịu, không có lúng túng đứng tại chỗ, xoay người đi tiếp tục thu dọn các hộp đất đã được mở ra.
Bất quá tay cậu làm thì vẫn làm nhưng trong lòng không nhịn được băn khoăn, đây là ý gì? Chẳng lẽ là ngại ánh mắt nhiều người sao?
Cậu nào biết thầy Cao trong lòng cũng rất xoắn xuýt đau khổ ấy chứ, thật là một hạt giống tốt a! Nhưng ông làm sao có thể lòng dạ đen tối, đem Từ Cửu Chiếu thu làm môn hạ chứ.
Kiểm kê hoàn tất, lần này mở lò nung ra tổng cộng 13 món sứ giả cổ tinh phẩm, sứ giả cổ chất lượng trung bình: 56 món, sứ giả cổ loại kém: 67 món, còn lại đa số là đồ sứ tầm thường và có lỗi.
Ngoài mấy món phế phẩm không thể nhìn nổi bị đem đi đập nát để thu hồi lại nguyên liệu ra, tổng cộng có 136 món, đạt xấp xỉ 70% tổng thành phẩm làm cho Trương Văn Chiêu vui mừng cười toe toét.
Đứng ở trong kho hàng, Trương Văn Chiêu nhìn kỹ từng món, tuy rằng mẻ sứ này ông chủ tiệm đồ cổ ở Thượng Hải đã xác định, nhưng giá chốt lại là phải căn cứ vào chất lượng thành phẩm cùng các mặt khác mà tính toán.
Tính luôn mai bình trắng xanh của Từ Cửu Chiếu thì tổng cộng có mười ba món tinh phẩm cao cấp, mỗi một món đều có thể bán ra với giá 2 ~ 3 vạn theo giá sỉ – không sai, mới chỉ tính theo giá bán sỉ mà thôi. Mà loại chất lượng trung bình thì có thể bán mỗi món với giá 8000 ~ 1 vạn, còn những loại cấp thấp có thể bán giá trên 800 đồng/món.
Có lẽ có người muốn nói, sứ giả cổ cao cấp sao mắc vậy, trong tiệm bán đồ cổ bất quá cũng mấy nghìn đồng thôi, thậm chí chỉ cần bỏ ra một trăm đồng là có thể mua được một cái chén giả cổ cao cấp rồi.
Những thứ giả cổ “cao cấp” kia làm sao có thể so với sứ giả cổ cao cấp nung bằng củi tùng ở xưởng gốm Văn Vận chứ! Chẳng qua là treo danh xưng cho dễ nghe mà thôi.
Thiêu sài diêu (lò đốt bằng củi tùng) cho thành phẩm chất lượng rất cao, so với dùng lò điện đồ gốm sứ khi nung ra càng thêm có nét chân thật, trình tự làm gốm sứ giả cổ hầu như chênh lệch không bao nhiêu, chỉ là tiền thuê nhân công so với dùng dây chuyền sản xuất tự động hiện đại thì cao hơn.
“Món sứ giả cổ này thực sự rất tốt, gần giống như đồ thật ấy.” Trương Văn Chiêu cầm mai bình khắc hoa sen kinh thán không thôi, “Nếu như một người mới vào nghề thấy được vật này, không chừng tưởng là hàng thật mua về luôn đó chứ.”
Loại chuyện này cũng không phải không có khả năng, gốm giả cổ cao cấp cũng không có khắc kí hiệu gì, nếu như ông chủ tiệm bán đồ cổ tâm tính đen tối, nói đồ giả cổ là đồ thật để bán, người ít kinh nghiệm rất dễ bị mắc lừa.
Thầy Cao ngồi ở một bên mí mắt chớp một cái nói rằng: “Vết tích làm mới rõ ràng như vậy cũng không nhìn ra được, uống thuốc cũng là đáng đời.” Uống thuốc là tiếng lóng trong nghề đồ cổ, có nghĩa là bị mắc lừa, cùng “Đóng học phí ” hay “Mua giáo huấn” đều như nhau. Đều chỉ người có nhãn lực kém, đem đồ giả nhìn thành đồ thật mua về, kết quả là tiền bị mất nhưng cũng chẳng được gì.
Thầy Cao làm cái nghề này rất lâu rồi. Mấy năm gần đây thị trường sưu tầm nóng lên, khiến công việc của ông cũng tốt hơn nhiều. Bây giờ trên thị trường vàng thau lẫn lộn, 20 năm trước còn có thể tìm trong trăm món có một món hàng thật. Mà bây giờ trong một nghìn, một vạn món có một món là thật cũng coi như không tệ, còn lại tất cả đều là hàng giả.
Rất nhiều người vọng tưởng muốn phát tài, ôm mộng đẹp gia nhập vào hàng ngũ sưu tầm, nhưng ngay cả kiến thức cơ bản cũng không hiểu được, mới học được chút da lông liền mạnh tay. Ngốc như vậy, không bị làm thịt mới là lạ.
Thầy Cao coi như là người có lương tâm, thế nhưng ông cũng không quản được chuyện của người khác. Có người nguyện ý chịu đòn mắc lừa, muốn ngăn cũng ngăn không được.
“Cái mai bình đó ngươi lưu lại cho ta.” Thầy Cao nói với Trương Văn Chiêu đang cầm mai bình yêu thích không buông tay.
Trương Văn Chiêu bất ngờ nhìn ông: “Vì sao?”
Thầy Cao vẻ mặt hung dữ nói rằng: “Hỏi nhiều như vậy làm gì? Bảo ngươi lưu lại thì ngươi liền lưu lại đi!”
Trương Văn Chiêu thấy ông hung dữ như vậy, vẻ mặt đau khổ nói rằng: “Thầy Cao, người muốn lưu lại cũng được, nhưng phải cho em biết lý do chứ.”
Thầy Cao sắc mặt hơi hòa hoãn, không để ý nói rằng: “Ta muốn mang nó cho một lão bằng hữu nhìn thử.”
Trương Văn Chiêu bừng tỉnh, tự cho là đã hiểu nói rằng: “Đây là việc nên làm, nên làm.”
Đem đi khoe chứ gì, người nào có thứ gì tốt cũng sẽ không nhịn được hướng bằng hữu khoe khoang a. Chắc giống như khi hắn có được rượu Nghiêu đi. Nghĩ tới rượu Nghiêu, nước bọt của Trương Văn Chiêu liền bắt đầu tự động tiết ra.
Hắn cũng không phải chưa từng uống qua rượu ngon, thế nhưng không có loại nào lại hiệu quả giống như rượu Nghiêu vậy, uống vào liền nung ra được đồ sứ tốt.
Trương Văn Chiêu có chút mê tín, luôn cảm thấy rượu này được chọn làm rượu tế nhất định là có đạo lý của nó.
Lão hán kia lúc nào mới ủ xong mẻ rượu kế tiếp đây nhỉ? Suy nghĩ của Trương Văn Chiêu bay càng lúc càng xa, ngay cả thầy Cao đem mai bình từ trong tay hắn mang đi cũng chưa phục hồi tinh thần lại .
Sau khi làm ra sản phẩm, nhân viên xưởng gốm Văn Vận làm việc liên tục mấy ngày được phép nghỉ ngơi.
Từ Cửu Chiếu lái xe điện đã được sửa xong trở về, nhưng không đi viện mồ côi, ngược lại là thừa dịp thời điểm ít người quay trở về xưởng gốm. Cậu quang minh chính đại đi vào bên trong xưởng, hướng lò bỏ hoang phía sau đi đến.
Nhân viên xưởng chỉ nghỉ có một ngày, không thừa dịp lần này thì cũng không biết tới lúc nào mới có cơ hội.
Đi khoảng năm sáu phút mới tới được lò hoang.
Lúc này đã đầu xuân, cây lại ra chồi mới, khắp nơi đều có lá non cỏ nhỏ.
Cái hố này không tính là rất sâu, độ sâu chỉ bằng một người bình thường, miệng hố rất lớn, giáp ranh là sườn núi không dốc lắm, không đến mức khiến cho người bỗng nhiên té xuống được.
Nguyên thân chính là chết ở chỗ này, mà Từ Cửu Chiếu cũng là ở chỗ này sống lại.
Từ Cửu Chiếu đi một vòng quanh hố.
Hố rất bình thường, kỳ thực đây là nơi chôn những đồ phế phẩm mà thôi, hầu như không có bất cứ dị thường nào.
Nơi bị nhuộm máu tươi trước kia, Trương Văn Chiêu sợ xui xẻo đã sớm kêu người lấp đất lên. Bất quá Từ Cửu Chiếu vẫn có thể nhớ được vị trí ban đầu.
Xuống đến đáy hố, Từ Cửu Chiếu đứng vững trên mặt đất, từ trong túi ny lon mang theo bên mình xuất ra một cái xẻng nhỏ đã chuẩn bị trước đó. Hướng nơi phát sinh ra tia sáng bắt đầu đào.
Thầy Cao xin nghỉ rời đi, Trương Văn Chiêu không kịp chờ đợi liền cầm điện thoại di động lên gọi điện cho ông chủ tiệm đồ cổ Thượng Hải, để cho hắn đến nhận hàng. Ông chủ Thượng Hải biết được đồ sứ nung chế thành công thì rất cao hứng, ngay tức khắc liền đón chuyến bay gần nhất bay sang.
Ông chủ kia thấy mẻ gốm giả cổ rất là mừng rỡ, bất quá trong lòng phát khổ bởi vì số lượng thành phẩm so với hắn dự đoán thì nhiều hơn, nuốt không hết được a.
Nghĩ một chút, ông chủ kia đành phải gọi điện cho bằng hữu là chủ một tiệm đồ cổ khác đến, hai người liên hợp cùng nhau mua hàng đem về.
Trong lúc chờ người, ông chủ kia ngồi chồm hổm ở một góc lần lượt xem từng món đồ sứ, Trương Văn Chiêu thì đem Phùng Trung Bảo kéo qua một bên.
“Cháu có biết thầy Cao lần này cầm mai bình đi bái phỏng người nào không?” Trương Văn Chiêu nhỏ giọng hỏi.
Phùng Trung Bảo lắc đầu: “Cháu không biết a, thầy đem mai bình cầm đi sao? Vì sao lại mang đi chứ?”
Phùng Trung Bảo là cháu trai bên ngoại của Trương Văn Chiêu, nếu không phải như vậy, Phùng Trung Bảo cũng không có khả năng cả ngày biếng nhác không ai quản.
Mọi người đều nói cậu cháu giống nhau, Trương Văn Chiêu cũng có điểm bát quái (nhiều chuyện), đương nhiên hắn chỉ hiếu kỳ với người hắn cảm thấy hứng thú thôi.
“Nói là đem cho bằng hữu nhìn một chút.” Trương Văn Chiêu nói rằng: “Biết ông ta nhiều năm như vậy, cũng không nghe nói có bằng hữu gì a.”
Phùng Trung Bảo ngoài ý muốn cực kỳ: “Thầy cầm tác phẩm của Tiểu Từ Tử cho bằng hữu nhìn sao? Có ý tứ gì chứ?”
“Cái gì?!” Trương Văn Chiêu nhịn không được hét lớn một tiếng, thiếu chút nữa điếc luôn lỗ tai của Phùng Trung Bảo. “Đó không phải là tác phẩm của thầy Cao sao?”
Phùng Trung Bảo che cái lỗ tai, tránh ra xa, Trương Văn Chiêu tức giận, kéo lỗ tai của hắn hô: “Cháu nói rõ cho ta, mai bình là do ai làm?”
Hắn tại sao không biết trong xưởng còn có một cao thủ làm gốm giả cổ chứ?
Phùng Trung Bảo tội nghiệp duỗi cái cổ nhằm giảm bớt đau đớn trên lỗ tai: “Cậu a ~ mau buông tay! Đau chết mất.” �
Rốt cuộc cũng là ruột thịt, Trương Văn Chiêu thấy hắn khoa trương kêu đau, hấp tấp bỏ tay ra, còn xoa xoa cho hắn.
“Nói mau.”
Phùng Trung Bảo không dám trì hoãn nữa, vội vàng đem chuyện tác phẩm mai bình là của Từ Cửu Chiếu nói ra.
“Điều đó sao có khả năng được?” Trương Văn Chiêu khó tin.
Phùng Trung Bảo lập tức tinh thần tỉnh táo, ưỡn ngực tự tin nói: “Sao không có khả năng chứ, lúc đó cháu ở bên cạnh Tiểu Từ Tử, tận mắt thấy cậu ta vẽ hoa văn mà!”
Trương Văn Chiêu giật mình thất thần một hồi, thật lâu mới tiếp nhận được đả kích này. Phục hồi tinh thần lại nhìn Phùng Trung Bảo rồi nhớ tới dáng vẻ của Từ Cửu Chiếu, nhất thời giận không có chỗ phát tiết: “Tên tiểu tử khốn kiếp này! Cháu theo học thầy Cao cũng đã mấy năm đi, tại sao tài nghệ còn thua kém một học trò mới học có mấy tháng chứ?! Nói mau, bình thường đều lén lút giở thủ đoạn trốn việc, phải không?!”
Hầu như tất cả mọi người không hẹn mà cùng đem thời gian 4 tháng học nghề trước đó của Từ Cửu Chiếu quên đi, nhưng nếu có nhớ thì cũng khó có thể tiếp nhận được chuyện này.
Cậu rủ mắt nhìn mai bình phủ men trắng xanh khắc hoa sen trước mắt.
Cái này ở trong mắt mọi người là một tác phẩm khiến người ta phải thán phục hâm mộ, ở trong mắt thầy Cao có thể nói là kiệt tác, nhưng ở trong mắt cậu thì là một thành phẩm có vô số khuyết điểm.
Phôi sứ quá dày, mặt men không sáng bóng lắm, tổng thể toàn thân có vẻ to lớn thô kệch. Điều khiến Từ Cửu Chiếu không hài lòng nhất chính là hoa văn hoa sen quấn quanh kia. Nét vẽ quá nhợt nhạt!
Bởi vì lúc đó cậu thất thần, căn bản là không tập trung tư tưởng để vẽ, đường nét vẽ ra căn bản không có lực độ, nét bút tùy hứng lại không dụng tâm.
Từ Cửu Chiếu quả thực không đành lòng nhìn thẳng vào tác phẩm của mình, hận không thể đem mai bình đoạt lại đem đập vỡ cùng với các thứ phẩm phế thải kia rồi đem chôn đi, mắt không thấy nữa cho thoải mái.
Thầy Cao mặc dù trong lòng tán dương mai bình không dứt, ngoài miệng cũng không có nói trắng ra. Để tránh cho người tuổi trẻ sẽ kiêu căng, chỉ nói là: “Lần này coi như cậu vận khí tốt, đốt một lần liền thành công. Nhưng làm người cũng không thể thấy thỏa mãn mà dừng lại không tiến lên. Có nghe thấy hay không ?”
Từ Cửu Chiếu thở phào, nếu như thầy Cao trực tiếp khen cậu, cậu thật sự không biết nên bày ra biểu cảm gì cho đúng. Tâm tình rất phức tạp, thật là quỷ dị mà.
Từ Cửu Chiếu dạ một tiếng, cung kính nói: “Vâng. Em nhất định cẩn tuân theo dạy bảo của người.” Từ Cửu Chiếu mang theo ánh mắt sùng kính nhìn thầy Cao, nghĩ thầm lần này người cũng nên thu cậu làm đồ đệ rồi chứ?
Vậy mà ánh mắt thầy Cao chỉ chạm mắt cậu một cái, rồi coi như không có chuyện gì xảy ra dời mắt đi .
Từ Cửu Chiếu không hiểu nhìn thầy Cao kêu người cất đi mai bình kia, tiếp tục kiểm kê thành phẩm, đem cậu gạt bỏ sang một bên.
Từ Cửu Chiếu cũng không khó chịu, không có lúng túng đứng tại chỗ, xoay người đi tiếp tục thu dọn các hộp đất đã được mở ra.
Bất quá tay cậu làm thì vẫn làm nhưng trong lòng không nhịn được băn khoăn, đây là ý gì? Chẳng lẽ là ngại ánh mắt nhiều người sao?
Cậu nào biết thầy Cao trong lòng cũng rất xoắn xuýt đau khổ ấy chứ, thật là một hạt giống tốt a! Nhưng ông làm sao có thể lòng dạ đen tối, đem Từ Cửu Chiếu thu làm môn hạ chứ.
Kiểm kê hoàn tất, lần này mở lò nung ra tổng cộng 13 món sứ giả cổ tinh phẩm, sứ giả cổ chất lượng trung bình: 56 món, sứ giả cổ loại kém: 67 món, còn lại đa số là đồ sứ tầm thường và có lỗi.
Ngoài mấy món phế phẩm không thể nhìn nổi bị đem đi đập nát để thu hồi lại nguyên liệu ra, tổng cộng có 136 món, đạt xấp xỉ 70% tổng thành phẩm làm cho Trương Văn Chiêu vui mừng cười toe toét.
Đứng ở trong kho hàng, Trương Văn Chiêu nhìn kỹ từng món, tuy rằng mẻ sứ này ông chủ tiệm đồ cổ ở Thượng Hải đã xác định, nhưng giá chốt lại là phải căn cứ vào chất lượng thành phẩm cùng các mặt khác mà tính toán.
Tính luôn mai bình trắng xanh của Từ Cửu Chiếu thì tổng cộng có mười ba món tinh phẩm cao cấp, mỗi một món đều có thể bán ra với giá 2 ~ 3 vạn theo giá sỉ – không sai, mới chỉ tính theo giá bán sỉ mà thôi. Mà loại chất lượng trung bình thì có thể bán mỗi món với giá 8000 ~ 1 vạn, còn những loại cấp thấp có thể bán giá trên 800 đồng/món.
Có lẽ có người muốn nói, sứ giả cổ cao cấp sao mắc vậy, trong tiệm bán đồ cổ bất quá cũng mấy nghìn đồng thôi, thậm chí chỉ cần bỏ ra một trăm đồng là có thể mua được một cái chén giả cổ cao cấp rồi.
Những thứ giả cổ “cao cấp” kia làm sao có thể so với sứ giả cổ cao cấp nung bằng củi tùng ở xưởng gốm Văn Vận chứ! Chẳng qua là treo danh xưng cho dễ nghe mà thôi.
Thiêu sài diêu (lò đốt bằng củi tùng) cho thành phẩm chất lượng rất cao, so với dùng lò điện đồ gốm sứ khi nung ra càng thêm có nét chân thật, trình tự làm gốm sứ giả cổ hầu như chênh lệch không bao nhiêu, chỉ là tiền thuê nhân công so với dùng dây chuyền sản xuất tự động hiện đại thì cao hơn.
“Món sứ giả cổ này thực sự rất tốt, gần giống như đồ thật ấy.” Trương Văn Chiêu cầm mai bình khắc hoa sen kinh thán không thôi, “Nếu như một người mới vào nghề thấy được vật này, không chừng tưởng là hàng thật mua về luôn đó chứ.”
Loại chuyện này cũng không phải không có khả năng, gốm giả cổ cao cấp cũng không có khắc kí hiệu gì, nếu như ông chủ tiệm bán đồ cổ tâm tính đen tối, nói đồ giả cổ là đồ thật để bán, người ít kinh nghiệm rất dễ bị mắc lừa.
Thầy Cao ngồi ở một bên mí mắt chớp một cái nói rằng: “Vết tích làm mới rõ ràng như vậy cũng không nhìn ra được, uống thuốc cũng là đáng đời.” Uống thuốc là tiếng lóng trong nghề đồ cổ, có nghĩa là bị mắc lừa, cùng “Đóng học phí ” hay “Mua giáo huấn” đều như nhau. Đều chỉ người có nhãn lực kém, đem đồ giả nhìn thành đồ thật mua về, kết quả là tiền bị mất nhưng cũng chẳng được gì.
Thầy Cao làm cái nghề này rất lâu rồi. Mấy năm gần đây thị trường sưu tầm nóng lên, khiến công việc của ông cũng tốt hơn nhiều. Bây giờ trên thị trường vàng thau lẫn lộn, 20 năm trước còn có thể tìm trong trăm món có một món hàng thật. Mà bây giờ trong một nghìn, một vạn món có một món là thật cũng coi như không tệ, còn lại tất cả đều là hàng giả.
Rất nhiều người vọng tưởng muốn phát tài, ôm mộng đẹp gia nhập vào hàng ngũ sưu tầm, nhưng ngay cả kiến thức cơ bản cũng không hiểu được, mới học được chút da lông liền mạnh tay. Ngốc như vậy, không bị làm thịt mới là lạ.
Thầy Cao coi như là người có lương tâm, thế nhưng ông cũng không quản được chuyện của người khác. Có người nguyện ý chịu đòn mắc lừa, muốn ngăn cũng ngăn không được.
“Cái mai bình đó ngươi lưu lại cho ta.” Thầy Cao nói với Trương Văn Chiêu đang cầm mai bình yêu thích không buông tay.
Trương Văn Chiêu bất ngờ nhìn ông: “Vì sao?”
Thầy Cao vẻ mặt hung dữ nói rằng: “Hỏi nhiều như vậy làm gì? Bảo ngươi lưu lại thì ngươi liền lưu lại đi!”
Trương Văn Chiêu thấy ông hung dữ như vậy, vẻ mặt đau khổ nói rằng: “Thầy Cao, người muốn lưu lại cũng được, nhưng phải cho em biết lý do chứ.”
Thầy Cao sắc mặt hơi hòa hoãn, không để ý nói rằng: “Ta muốn mang nó cho một lão bằng hữu nhìn thử.”
Trương Văn Chiêu bừng tỉnh, tự cho là đã hiểu nói rằng: “Đây là việc nên làm, nên làm.”
Đem đi khoe chứ gì, người nào có thứ gì tốt cũng sẽ không nhịn được hướng bằng hữu khoe khoang a. Chắc giống như khi hắn có được rượu Nghiêu đi. Nghĩ tới rượu Nghiêu, nước bọt của Trương Văn Chiêu liền bắt đầu tự động tiết ra.
Hắn cũng không phải chưa từng uống qua rượu ngon, thế nhưng không có loại nào lại hiệu quả giống như rượu Nghiêu vậy, uống vào liền nung ra được đồ sứ tốt.
Trương Văn Chiêu có chút mê tín, luôn cảm thấy rượu này được chọn làm rượu tế nhất định là có đạo lý của nó.
Lão hán kia lúc nào mới ủ xong mẻ rượu kế tiếp đây nhỉ? Suy nghĩ của Trương Văn Chiêu bay càng lúc càng xa, ngay cả thầy Cao đem mai bình từ trong tay hắn mang đi cũng chưa phục hồi tinh thần lại .
Sau khi làm ra sản phẩm, nhân viên xưởng gốm Văn Vận làm việc liên tục mấy ngày được phép nghỉ ngơi.
Từ Cửu Chiếu lái xe điện đã được sửa xong trở về, nhưng không đi viện mồ côi, ngược lại là thừa dịp thời điểm ít người quay trở về xưởng gốm. Cậu quang minh chính đại đi vào bên trong xưởng, hướng lò bỏ hoang phía sau đi đến.
Nhân viên xưởng chỉ nghỉ có một ngày, không thừa dịp lần này thì cũng không biết tới lúc nào mới có cơ hội.
Đi khoảng năm sáu phút mới tới được lò hoang.
Lúc này đã đầu xuân, cây lại ra chồi mới, khắp nơi đều có lá non cỏ nhỏ.
Cái hố này không tính là rất sâu, độ sâu chỉ bằng một người bình thường, miệng hố rất lớn, giáp ranh là sườn núi không dốc lắm, không đến mức khiến cho người bỗng nhiên té xuống được.
Nguyên thân chính là chết ở chỗ này, mà Từ Cửu Chiếu cũng là ở chỗ này sống lại.
Từ Cửu Chiếu đi một vòng quanh hố.
Hố rất bình thường, kỳ thực đây là nơi chôn những đồ phế phẩm mà thôi, hầu như không có bất cứ dị thường nào.
Nơi bị nhuộm máu tươi trước kia, Trương Văn Chiêu sợ xui xẻo đã sớm kêu người lấp đất lên. Bất quá Từ Cửu Chiếu vẫn có thể nhớ được vị trí ban đầu.
Xuống đến đáy hố, Từ Cửu Chiếu đứng vững trên mặt đất, từ trong túi ny lon mang theo bên mình xuất ra một cái xẻng nhỏ đã chuẩn bị trước đó. Hướng nơi phát sinh ra tia sáng bắt đầu đào.
Thầy Cao xin nghỉ rời đi, Trương Văn Chiêu không kịp chờ đợi liền cầm điện thoại di động lên gọi điện cho ông chủ tiệm đồ cổ Thượng Hải, để cho hắn đến nhận hàng. Ông chủ Thượng Hải biết được đồ sứ nung chế thành công thì rất cao hứng, ngay tức khắc liền đón chuyến bay gần nhất bay sang.
Ông chủ kia thấy mẻ gốm giả cổ rất là mừng rỡ, bất quá trong lòng phát khổ bởi vì số lượng thành phẩm so với hắn dự đoán thì nhiều hơn, nuốt không hết được a.
Nghĩ một chút, ông chủ kia đành phải gọi điện cho bằng hữu là chủ một tiệm đồ cổ khác đến, hai người liên hợp cùng nhau mua hàng đem về.
Trong lúc chờ người, ông chủ kia ngồi chồm hổm ở một góc lần lượt xem từng món đồ sứ, Trương Văn Chiêu thì đem Phùng Trung Bảo kéo qua một bên.
“Cháu có biết thầy Cao lần này cầm mai bình đi bái phỏng người nào không?” Trương Văn Chiêu nhỏ giọng hỏi.
Phùng Trung Bảo lắc đầu: “Cháu không biết a, thầy đem mai bình cầm đi sao? Vì sao lại mang đi chứ?”
Phùng Trung Bảo là cháu trai bên ngoại của Trương Văn Chiêu, nếu không phải như vậy, Phùng Trung Bảo cũng không có khả năng cả ngày biếng nhác không ai quản.
Mọi người đều nói cậu cháu giống nhau, Trương Văn Chiêu cũng có điểm bát quái (nhiều chuyện), đương nhiên hắn chỉ hiếu kỳ với người hắn cảm thấy hứng thú thôi.
“Nói là đem cho bằng hữu nhìn một chút.” Trương Văn Chiêu nói rằng: “Biết ông ta nhiều năm như vậy, cũng không nghe nói có bằng hữu gì a.”
Phùng Trung Bảo ngoài ý muốn cực kỳ: “Thầy cầm tác phẩm của Tiểu Từ Tử cho bằng hữu nhìn sao? Có ý tứ gì chứ?”
“Cái gì?!” Trương Văn Chiêu nhịn không được hét lớn một tiếng, thiếu chút nữa điếc luôn lỗ tai của Phùng Trung Bảo. “Đó không phải là tác phẩm của thầy Cao sao?”
Phùng Trung Bảo che cái lỗ tai, tránh ra xa, Trương Văn Chiêu tức giận, kéo lỗ tai của hắn hô: “Cháu nói rõ cho ta, mai bình là do ai làm?”
Hắn tại sao không biết trong xưởng còn có một cao thủ làm gốm giả cổ chứ?
Phùng Trung Bảo tội nghiệp duỗi cái cổ nhằm giảm bớt đau đớn trên lỗ tai: “Cậu a ~ mau buông tay! Đau chết mất.” �
Rốt cuộc cũng là ruột thịt, Trương Văn Chiêu thấy hắn khoa trương kêu đau, hấp tấp bỏ tay ra, còn xoa xoa cho hắn.
“Nói mau.”
Phùng Trung Bảo không dám trì hoãn nữa, vội vàng đem chuyện tác phẩm mai bình là của Từ Cửu Chiếu nói ra.
“Điều đó sao có khả năng được?” Trương Văn Chiêu khó tin.
Phùng Trung Bảo lập tức tinh thần tỉnh táo, ưỡn ngực tự tin nói: “Sao không có khả năng chứ, lúc đó cháu ở bên cạnh Tiểu Từ Tử, tận mắt thấy cậu ta vẽ hoa văn mà!”
Trương Văn Chiêu giật mình thất thần một hồi, thật lâu mới tiếp nhận được đả kích này. Phục hồi tinh thần lại nhìn Phùng Trung Bảo rồi nhớ tới dáng vẻ của Từ Cửu Chiếu, nhất thời giận không có chỗ phát tiết: “Tên tiểu tử khốn kiếp này! Cháu theo học thầy Cao cũng đã mấy năm đi, tại sao tài nghệ còn thua kém một học trò mới học có mấy tháng chứ?! Nói mau, bình thường đều lén lút giở thủ đoạn trốn việc, phải không?!”
Hầu như tất cả mọi người không hẹn mà cùng đem thời gian 4 tháng học nghề trước đó của Từ Cửu Chiếu quên đi, nhưng nếu có nhớ thì cũng khó có thể tiếp nhận được chuyện này.
Bình luận truyện