Thiên Hậu Pk Nữ Hoàng
Chương 9: Trình diễn trò hay
Thế Tông nghe lén mấy người nói chuyện, vốn chỉ là hứng thú nhất thời, muốn xem Thái tử phi làm thế nào ứng phó với việc Thành vương phi gây khó dễ, có phải là đã tiến bộ đúng như mấy ngày nay nàng biểu hiện như vậy hay không. Nhưng kết quả làm hắn kinh ngạc đồng thời còn có gì đó hơn cả mong đợi.
Trong triều, ngay cả Thừa tướng cũng phân tích trình bày nhựng thiệt hơn được mất của việc kìm chế Phật giáo, phát triển Tát Mãn, nhưng chỉ cần theo lòng dân thì quốc gia ổn định được cả hai phương diện này vào tay. Tuy rằng cuối cùng, Thế Tông vẫn bị Thừa tướng thuyết phục, nhưng với tín ngưỡng của dân tộc mình mà không được khen ngợi, nói cho cùng thì trong lòng cũng không ngờ được. Nay nghe Âu Dương Tuệ Như nói xong càng thêm thấu đáo, giật mình thông suốt, tâm tình thoáng chốc sung sướng hẳn lên.
“Bình thân.” Thế Tông cho mọi người đứng lên, đi đến bên cạnh Thái Hậu ngồi xuống, rồi ngoắc Âu Dương Tuệ Như lại, giọng điệu vô cùng hòa ái, “Thái Tử Phi, đến bên người trẫm.”
Thế Tông vỗ vỗ vị trí bên cạnh mình, ý bảo Âu Dương Tuệ Như ngồi xuống.
Âu Dương Tuệ Như cúi đầu cười, thoải mái đi tới, khụy chân làm động phúc lễ*, líu lo nói: “Tạ ơn phụ hoàng ban thưởng ghế.” Nói xong, dứt khoát ngồi xuống.
Cử chỉ Âu Dương Tuệ Như hào phóng, nụ cười thoải mái, ánh mắt lại trong suốt đến thấy đáy, hoàn toàn không giống bộ dáng làm bộ làm tịch hay nhăn nhăn nhó nhó như các nữ nhân ở hậu cung này.
Thế Tông nhìn vào đôi mắt sáng ngời trong suốt như nước của Âu Dương Tuệ Như, tâm tình càng cảm thấy dễ chịu, trên khuôn mặt anh tuấn cương ngạnh nhịn không được lộ ra một chút ý cười, mở miệng khen: “Thái tử phi chỉ xem kinh văn Tát Mãn vài ngày lại có kiến giải phi phàm như vậy, quả là không dễ. Thừa tướng thật biết cách dạy con!”
“Còn không đúng sao! Ai gia đã nói, đứa nhỏ này có tuệ căn, dễ dạy, đúng là trò giỏi hơn thầy mà!” Thái Hậu cười tủm tỉm phụ họa theo.
Mấy người còn lại động tác cứng ngắc gật gật đầu, tỏ vẻ đồng ý.
Âu Dương Tuệ Như lập tức ‘biễu diễn’ vẻ mặt ngượng ngùng, hai má hơi hơi hồng, xua tay khiêm tốn nói: “Phụ hoàng và Hoàng tổ mẫu khen trật rồi, Tuệ Như nhất thời giác ngộ mà thốt ra thôi. Nếu nay lại kêu Tuệ Như nói một tràng đạo lý lớn như vậy, cho dù Tuệ Như có nghĩ đến ‘nát óc’ cũng không thể.”
Nói xong, Âu Dương Tuệ Như dùng đầu ngón tay trỏ chỉ chỉ vào cái trán, cặp lộng mày nhăn lại, bộ dáng có chút nhăn mặt nhíu mày làm như gặp việc khó nghĩ.
Bị vẻ mặt thẳng thắn mà đáng yêu của Âu Dương Tuệ Như quyến rũ, Thế Tông mỉm cười, không nhịn được mở miệng an ủi, “Hiện tại nghĩ không ra cũng không sao, không chừng lần tới ai lại kích thích ngươi một phen, ngươi lại có linh cảm đấy?”
Dứt lời, Thế Tông ý vị sâu xa nheo mắt liếc Thành vương phi một cái.
Sắc mặt Thành vương phi trắng bệch, vội vàng cúi đầu tránh né tầm mắt của Thế Tông.
Âu Dương Tuệ Như thấy thế, trong nội tâm cười thầm, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ mở to đôi mắt sùng bái nhìn Thế Tông, cực kì nhu thuận gật đầu.
Thế Tông thấy Âu Dương Tuệ Như khi thì nhanh nhẹn, khi thì trầm tĩnh, khi thì trí tuệ hơn người, khi thì lại lộ ra một vẻ hồn nhiên chân chất, trong lòng thầm than quả nhiên là đứa nhỏ vẫn còn chưa định tính, lại đối với tính uyển chuyển của Âu Dương Tuệ Như cảm thấy vừa lòng.
Nay, Âu Dương Tuệ Như không mù mờ đi tự làm khổ, rảnh rỗi đến Từ Ninh Cung báo hiếu, có Thái Hậu bên cạnh dạy bảo, đối với Thái Tử Phi này, Thế Tông có thể xem như yên tâm .
Chấm dứt đề tài ban nãy, Thế Tông ngược lại nói với Thái Hậu, “Mẫu hậu, tuy rằng hiện tại không thích hợp để sửa đổi quốc giáo, nhưng mà Mẫu hậu có thể truyền bá giáo lý Tát Mãn với các mệnh phụ triều đình, để cho các quý tộc tiếp nhận Tát Mãn trước. Đợi cho Đại Kim ta hưng thịnh, giáo chúng Tát Mãn dần lan ra cả nước chỉ là chuyện sớm muộn.”
Thái Hậu từng là nữ vu Tát Mãn, xưa nay vốn lấy việc truyền bá giáo lý Tát Mãn làm nhiệm vụ của mình, đối với việc phát triển giáo chúng, khuếch trương việc dạy bảo Tát Mãn vô cùng coi trọng. Thế Tông đã quyết định không thay đổi quốc giáo, trì hoãn việc mở rộng Tát Mãn giáo trong dân gian, sợ Thái Hậu thất vọng, cố ý tiến đến an ủi.
Thái Hậu ôn hòa gật đầu, “Ừ, mọi việc cần làm từng bước. Người Trung Nguyên ít nghe nói đến Tát Mãn, nếu muốn cho bọn họ chấp nhận, đều phải trải qua một quá trình. Hiện tại, cần bình yên vượt qua đại hạn Tây Nam trước, không để nạn dân Tây Nam bất ngờ làm phản, ảnh hưởng đến việc ổn định căn cơ Đại Kim mới là chuyện đại sự, những việc khác đều có thể từ từ lại.”
Thế Tông gật đầu tràn đầy đồng cảm, trong lòng có chút hổ thẹn. Lập Tát Mãn làm quốc giáo vốn là hứa hẹn của hắn đối Thái Hậu, nay là hắn thất tín, cũng may hắn đã tìm được cái khác bồi thường, khó chịu trong lòng mới vơi đi vài ba phần.
Nghĩ đến đây, đôi mày nhíu chặt của Thế Tông mới giãn ra, nâng tay hướng cung nhân phía sau kêu: “Người đâu, đem lễ vật trẫm mang cho Thái Hậu trình lên.”
Trong đám người, một giọng nữ thanh thúy đáp lời.
Thái Hậu kinh ngạc nhíu mày, tò mò mở miệng hỏi, “Ồ? Hoàng đế còn mang theo lễ vật đến cho ai gia?”
Trong mắt Thế Tông ngậm cười, “Trẫm thất tín với mẫu hậu, đương nhiên là muốn tìm một chút gì đó vừa ý để bồi thường.”
Thái Hậu nghe vậy trong lòng như se lại, vẻ mặt chờ mong nhìn về phía nữ quan đang cầm một cái đại hộp gấm tiến lên.
Thấy Giang Ánh Nguyệt đi ra từ trong đám cung nhân, con ngươi Âu Dương Tuệ Như lóe lóe, nhìn chằm chằm cái hộp trong tay Giang Ánh Nguyệt, trong lòng hơi động, cũng không dám dời tầm mắt một chút mảy may nào. Âu Dương Tuệ Như có dự cảm, nàng chờ đợi nhiều ngày như vậy là để diễn, có thể cũng sắp lên sàn diễn rồi.
Giang Ánh Nguyệt vô cùng cung kính quỳ bên chân Thái Hậu, giơ cái hộp lên cao quá đầu, cúi đầu nói: “Xin mời Thái Hậu xem qua.”
Thái Hậu tiếp nhận hộp gấm, dưới ánh mắt cổ vũ Thế Tông, mở ngay nắp hộp tại chỗ, đợi thấy rõ đồ vật bên trong hộp, hít một ngụm khí lạnh.
Nghe thấy âm thanh Thái Hậu hút không khí, lại thấy biểu tình Thái Hậu khiếp sợ, mọi người ở đây nhịn nén được tò mò, đều hướng hộp gấm trong tay nàng nhìn lại.
Tát Mãn: là một tín ngưỡng;
Đất nước Tây Tạng tiếp giáp với tây Á và đông bắc Á, trong đó gồm có các tộc người sinh sống bằng nghề du mục hoặc nghề săn bắn ở khu vực cao nguyên thảo nguyên nầy, và họ cùng có một cộng đồng tín ngưỡng-đó là tín ngưỡng “Vu”, một thứ tôn giáo của thời nguyên thủy, tín ngưỡng Vu là “Khẩu Lý” (trong miệng) của dân Tây Bá Lợi Á còn có tên là Tát Mãn (Shama). Do đó, trong môn tôn giáo học cũng liệt kê Tát Mãn là một tín ngưỡng, và gọi là Tát Mãn giáo. Tát Mãn giáo lấy Tây Bá Lợi Á làm trung tâm rồi mở rộng ra bốn phía như Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương (còn gọi là Lý Ngột Nhi) và Tây Tạng v.v.Trong xã hội của các dân tộc người vừa nêu có một phương thức sinh hoạt giống nhau, đó là tất cả đều tiếp nhận tín ngưỡng Tát Mãn giáo.
Tát Mãn giáo là do luyện tập các huyễn thuật và phù chú mà thành, và gọi đó là “Công Năng Vu”. Công Năng Vu tương tự như “ĐạoThuật Uy Lực” của Trung Quốc. Công Năng Vu có thể trị liệu bệnh tật, bói toán kiết hung, giải trừ tà ma, cầu mưa, dập lửa. Trong Tát Mãn giáo có một việc mà Công Năng Vu không thể làm được, đó là lập đại đạo tràng để cầu Thần giáng. Tín ngưỡng nguyên thủy của Tây Tạng vốn dĩ là Bổng giáo (Bon). “Bon” là tiếng Mông Cổ có nghĩa là Vu Sư. Điều này cho thấy Bổng giáo cũng là một chi trong hệ thống Tát Mãn giáo.
Không lâu trước khi Phật giáo bắt đầu thịnh hành ở Tây Tạng, thì liền bị tín đồ Tát Mãn giáo đố kỵ; mới dẫn đến chuyện vị Tạng vương là Lãng Đạt Ma-một tín đồ Tát Mãn giáo, nổi lên huỷ diệt Phật giáo. Về sau, khi Phật giáo phục hưng Bổng giáo mới được quy hóa về Phật giáo, có người lấy Phật giáo bổ sung vào Bổng giáo mà thành Hắc giáo; giống như Phật giáo, do hấp thu các thành phần của Bổng giáo và tạo thành nét đặc sắc của Lạt-ma giáo. Mãi đến trước khi lục địa Trung Quốc kiến lập chính quyền tại Tây Tạng, thì tại các chùa Phật của Lạt-ma giáo vẫn còn Phật sự về Thần giáng. Cũng giống như Mật giáo Ấn Độ lấy các thần của Ấn Độ giáo làm vị hộ pháp cho Phật giáo. Lạt-ma giáo của Tây Tạng cũng lấy thần của Bổng giáo đưa vào Phật giáo.
Âu Dương Tuệ Như ngồi ở bên cạnh Thế Tông, cách Thái Hậu một vị trí chỗ ngồi, nên không nhìn thấy món đồ trong tay Thái Hậu, vô cùng nóng lòng muốn chứng thực suy đoán của mình, rốt cục không khắc chế được xúc động, lặng lẽ nhấc nửa cái mông lên, cố rướn mình vươn cổ ra, lướt qua người Thế Tông, nhìn hướng vào bên trong hộp.
Thế Tông thấy hai mắt Âu Dương Tuệ Như mở to, gần như muốn rớt ra ngoài, cặp mắt trợn lên trộm dò xét bên trong hộp gấm, giống như chú mèo con đang hiếu kỳ tràn đầy, biểu tình hay động tác đều vô cùng đáng yêu, cho nên chẳng những không trách tội mà còn mỉm cười, lặng lẽ nhích thân mình để Âu Dương Tuệ Như dễ dàng xem rõ ràng hơn một chút.
Thế Tông vừa dịch ra, thoáng chốc tầm mắt Âu Dương Tuệ Như trống trải không ít, khẩn cấp nhìn vào bên trong hộp, đợi đến khi nhìn thấy mấy quyển sách ố vàng, cũ nát không chịu nổi bên trong hộp, suy đoán trong lòng đã được xác thực, căng thẳng toàn thân từ nãy giờ lập tức được thả lỏng, rốt cục không chống đỡ việc ngồi chỉ bằng nửa cái mông, soạt một tiếng quay trở lại ngồi ngay ngắn.
Âu Dương Tuệ Như dựa lưng vào lưng ghế tựa, xiết chặt khăn thêu trong tay, nàng hít một hơi sâu, thầm cảm thấy may mắn: Nguy hiểm quá! Hôm nay quả thực nên rất cám ơn Thành vương phi và Vệ vương phi đúng lúc đến tìm, còn cố tình kéo dài thời gian làm cho nàng chưa kịp rời đi, bằng không, nàng sẽ bỏ qua tiết mục Giang Ánh Nguyệt diễn trò hay lần thứ hai.
Trong kịch bản có ghi, mấy quyển kinh thư này những quyển kinh thư lâu đời nhất trong lịch sử, là kinh thư kinh điển nhất của Tát Mãn, tên là 《Sa Môn Kinh 》, bộ kinh thư này được truyền vào bộ lạc Nữ Chân, từ đó Tát Mãn giáo được người trong bộ tộc Nữ Chân truyền bá ra, đặt tên là Tát Mãn cũng bởi vì phát âm của nó cũng gần với ‘Sa môn’. (Chỗ này tác giả bảo sao thì nghe vậy, tớ không biết tiếng bông ah)
Bộ kinh thư này vốn là từ mấy trăm năm trước do thương nhân La Sát* đưa vào Đại Kim, qua tay nhiều lần, cuối cùng không biết di lạc nơi nào, là thần điển mà vu sư Tát Mãn mơ ước tha thiết. Thái Hậu vì tìm kiếm bộ kinh thư này, hàng năm không biết phái đi bao nhiêu nhân lực và tài lực, không nghĩ tới, nguyện vọng này cuối cùng hôm nay cũng thực hiện được.
(*罗刹: La sát hay 羅斯 La Tư : nước Nga ngày nay)
Thái Hậu khắc chế nội tâm kích động, thật cẩn thận nâng niu kinh thư, cầm trên tay dò xét trước sau, cẩn thận quan sát, ngay cả góc, cạnh, gáy cũng không bỏ qua, sau khi xem một lúc lâu, rốt cục cảm thấy xem xét bên ngoài đủ rồi mới thận trọng mở trang sách ra, đến khi thấy rõ bên trên trang sách ghi dày đặt chữ La Sát, Thái Hậu thở ra một hơi thật dài, như trút được gánh nặng cảm thán nói: “Quả nhiên là 《 Sa Môn kinh 》 thật, đáng tiếc, một bộ kinh thư, ai gia nhìn chỉ có thể biết một hai phần, thật sự là đáng tiếc!”
Sách quý đến tay nhưng không cách nào hiểu thấu đáo, Thái Hậu sau khi kích động qua đi, tâm tình cũng bình ổn lại.
Thế Tông cười cười thần bí, đưa mắt nhìn Giang Ánh Nguyệt vẫn đang quỳ trên mặt đất, trong mắt hàm chứa nồng đậm tán thưởng.
Đem biểu tình Thế Tông thu hết vào trong mắt, Âu Dương Tuệ Như khẽ cắn môi, trong lòng thầm nghĩ: rốt cục cũng đã đến lượt Giang Ánh Nguyệt lên sân khấu rồi sao?
Hôm nay diễn màn này, đối với Giang Ánh Nguyệt mà nói thì việc đó có ý nghĩa vô cùng.
Trong kịch bản ghi lại thế này: Giang Ánh Nguyệt vô cùng hiểu rõ chữ nghĩa La Sát Quốc, đem 《 sa môn kinh 》 từ đầu chí cuối dịch ra, đóng thành hai bộ sách viết tay bằng chữ Nữ Chân và chữ Hán, cung kính hiến dâng cho Thái Hậu, được Thái Hậu ưu ái, lại được Thái Hậu ban cho tài vật để mà quyên góp viện trợ nạn hạn hán Tây Nam, Thái Hậu đặc biệt ra ý chỉ khen ngợi, từ đó bùng nổ phong trào quyên tặng lạc quyên mà đồng thời dẫn đầu tần phi hậu cung cùng các mệnh phụ triều đình, giải quyết tình thế khẩn cấp giúp Thế Tông.
Trải qua việc lần này, Giang Ánh Nguyệt trở thành người tâm phúc bên cạnh Thái Hậu và Thế Tông. Nếu không phải có Thái Hậu ủng hộ, cho dù Giang Ánh Nguyệt đã hai lần cứu tánh mạng Thế Tông, bằng xuất thân đê tiện do nàng ta bịa đặt thì tuyệt đối không có khả năng được sắc phong làm Hoàng quý phi, để từ đó xưng bá hậu cung, càng không nói đến việc tự mình làm nữ hoàng .
Âu Dương Tuệ Như lẳng lặng ôn lại nội dung đoạn kịch ở trong đầu một lần, nàng cúi đầu, yên lặng chờ đợi Giang Ánh Nguyệt lên biểu diễn.
Việc phiên dịch kinh văn quả thật Âu Dương Tuệ Như nàng không có cách nào, bởi vì nàng không biết tiếng Nga. Nhưng mà, ‘cướp vai’ lại là việc khác, đó là một kỹ thuật sống, không phải chỉ ‘cướp’ trên màn ảnh, có đôi khi quá trình chờ đợi để ‘cướp’ ngược lại càng thêm xuất sắc, càng có thể nâng cao cho hiệu quả cho ý tưởng.
Vào lúc nào thì nên ra tay, Âu Dương Tuệ Như đã suy nghĩ thật tốt từ sớm .
Giang Ánh Nguyệt không biết chính mình đã bị người ta theo dõi, để hộp gấm xuống, cẩn thận từ trong hộp lấy ra hai bộ kinh văn mới trình Thái Hậu xem, “Khởi bẩm Thái Hậu, nơi này còn có 《 Sa Môn kinh 》 bản dịch chữ Kim và chữ Hán, mời Thái Hậu xem qua.” Trong lời nói, không có nửa điểm nhắc đến công lao chính mình.
Thái Hậu kinh ngạc mở to hai mắt, vội vàng tiếp nhận bản dịch, xem rất nhanh, sau một lúc lâu, kinh hỉ mở miệng khen: “Bản dịch này tường thuật tóm lược vô cùng toàn diện, lời dịch cũng khá ngắn gọn, đặc biệt chữ này, chữ viết đoan chính, kiểu chữ lớn nhỏ cũng thật thích hợp, toàn bộ đều là niêm hoa tiểu giai** xinh đẹp như thế này, ai gia thoạt nhìn không cần phí bao nhiêu nhãn lực, vô cùng tốt! Ai phiên dịch ? Ai gia muốn thưởng thật nhiều!”
(**拈花小楷 niêm hoa tiểu giai: tạm hiểu là chữ nhỏ ngay hàng như dùng tay cầm hoa đặt vào – cầm tay xếp chữ-)
Thế Tông mỉm cười, nhìn về phía Giang Ánh Nguyệt nói: “Người này xa tận chân trời, gần ngay trước mắt. Giang nữ quan, còn không mau tạ ơn Thái Hậu?”
Giang Ánh Nguyệt được Thái Hậu khen ngợi như vậy, thanh lệ trên mặt không chút lộ ra vẻ tự mãn, không kiêu ngạo không siểm nịnh cúi người, dập đầu thật mạnh ba cái, giọng nói chỉ toàn chân thành: “Được Thái Hậu khích lệ, nô tỳ thẹn không dám nhận. Nô tỳ chính là vận khí tốt, trùng hợp hiểu biết được chút chữ La Sát, thuận tay làm mà thôi. Nếu không, Đại Kim ta nhân tài đông đúc, làm sao đến lượt nô tỳ thay Thái Hậu cống hiến sức lực? Xin Thái Hậu thu hồi ban thưởng.”
Thái độ nàng không kiêu căng không nóng vội, không kiêu ngạo không siểm nịnh lập tức chiếm được hảo cảm của Thái Hậu, Thái Hậu cười từ ái, xua tay nói: “Giang nữ quan thật quá khiêm nhượng! Thân là nữ tử, còn học rộng tài cao như thế, đúng là khó có được, ban thưởng này, ngươi phải nhận! Người đâu, ban thưởng!”
Thế Tông gật đầu đồng ý, hướng cung nhân phía sau vẫy tay nói: “Thái Hậu nói phải, ban thưởng này cũng coi như trẫm góp một phần, các ngươi tức khắc đi trong cung trẫm lấy đến.”
Vài cung nhân nhận lệnh, rời khỏi chính điện, một lúc lâu sau lại tiến vào, trên tay mỗi người đều đang cầm rất nhiều tài bảo, có vàng bạc tiền tài, có châu báu ngọc thạch, còn có mấy thất tuyết gấm mềm mại bồng bềnh như tự tỏa sáng. (thất: từ chỉ số lượng, đơn vị dùng cho vải, lụa: nếp, xấp, tấm, v.v)
Ban thưởng nhiều như vậy, mấy người Nguyên phi đang ngồi nhìn mà trong mắt lộ ra vẻ cực kỳ hâm mộ.
Âu Dương Tuệ Như đối với mấy thứ này cũng không có hứng thú, nàng chỉ hơi hơi đảo mắt qua vài lần liền dời tầm mắt, ngược lại nhìn về phía Giang Ánh Nguyệt, nội tâm chờ mong biểu hiện kế tiếp của nàng ta.
Trong triều, ngay cả Thừa tướng cũng phân tích trình bày nhựng thiệt hơn được mất của việc kìm chế Phật giáo, phát triển Tát Mãn, nhưng chỉ cần theo lòng dân thì quốc gia ổn định được cả hai phương diện này vào tay. Tuy rằng cuối cùng, Thế Tông vẫn bị Thừa tướng thuyết phục, nhưng với tín ngưỡng của dân tộc mình mà không được khen ngợi, nói cho cùng thì trong lòng cũng không ngờ được. Nay nghe Âu Dương Tuệ Như nói xong càng thêm thấu đáo, giật mình thông suốt, tâm tình thoáng chốc sung sướng hẳn lên.
“Bình thân.” Thế Tông cho mọi người đứng lên, đi đến bên cạnh Thái Hậu ngồi xuống, rồi ngoắc Âu Dương Tuệ Như lại, giọng điệu vô cùng hòa ái, “Thái Tử Phi, đến bên người trẫm.”
Thế Tông vỗ vỗ vị trí bên cạnh mình, ý bảo Âu Dương Tuệ Như ngồi xuống.
Âu Dương Tuệ Như cúi đầu cười, thoải mái đi tới, khụy chân làm động phúc lễ*, líu lo nói: “Tạ ơn phụ hoàng ban thưởng ghế.” Nói xong, dứt khoát ngồi xuống.
Cử chỉ Âu Dương Tuệ Như hào phóng, nụ cười thoải mái, ánh mắt lại trong suốt đến thấy đáy, hoàn toàn không giống bộ dáng làm bộ làm tịch hay nhăn nhăn nhó nhó như các nữ nhân ở hậu cung này.
Thế Tông nhìn vào đôi mắt sáng ngời trong suốt như nước của Âu Dương Tuệ Như, tâm tình càng cảm thấy dễ chịu, trên khuôn mặt anh tuấn cương ngạnh nhịn không được lộ ra một chút ý cười, mở miệng khen: “Thái tử phi chỉ xem kinh văn Tát Mãn vài ngày lại có kiến giải phi phàm như vậy, quả là không dễ. Thừa tướng thật biết cách dạy con!”
“Còn không đúng sao! Ai gia đã nói, đứa nhỏ này có tuệ căn, dễ dạy, đúng là trò giỏi hơn thầy mà!” Thái Hậu cười tủm tỉm phụ họa theo.
Mấy người còn lại động tác cứng ngắc gật gật đầu, tỏ vẻ đồng ý.
Âu Dương Tuệ Như lập tức ‘biễu diễn’ vẻ mặt ngượng ngùng, hai má hơi hơi hồng, xua tay khiêm tốn nói: “Phụ hoàng và Hoàng tổ mẫu khen trật rồi, Tuệ Như nhất thời giác ngộ mà thốt ra thôi. Nếu nay lại kêu Tuệ Như nói một tràng đạo lý lớn như vậy, cho dù Tuệ Như có nghĩ đến ‘nát óc’ cũng không thể.”
Nói xong, Âu Dương Tuệ Như dùng đầu ngón tay trỏ chỉ chỉ vào cái trán, cặp lộng mày nhăn lại, bộ dáng có chút nhăn mặt nhíu mày làm như gặp việc khó nghĩ.
Bị vẻ mặt thẳng thắn mà đáng yêu của Âu Dương Tuệ Như quyến rũ, Thế Tông mỉm cười, không nhịn được mở miệng an ủi, “Hiện tại nghĩ không ra cũng không sao, không chừng lần tới ai lại kích thích ngươi một phen, ngươi lại có linh cảm đấy?”
Dứt lời, Thế Tông ý vị sâu xa nheo mắt liếc Thành vương phi một cái.
Sắc mặt Thành vương phi trắng bệch, vội vàng cúi đầu tránh né tầm mắt của Thế Tông.
Âu Dương Tuệ Như thấy thế, trong nội tâm cười thầm, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ mở to đôi mắt sùng bái nhìn Thế Tông, cực kì nhu thuận gật đầu.
Thế Tông thấy Âu Dương Tuệ Như khi thì nhanh nhẹn, khi thì trầm tĩnh, khi thì trí tuệ hơn người, khi thì lại lộ ra một vẻ hồn nhiên chân chất, trong lòng thầm than quả nhiên là đứa nhỏ vẫn còn chưa định tính, lại đối với tính uyển chuyển của Âu Dương Tuệ Như cảm thấy vừa lòng.
Nay, Âu Dương Tuệ Như không mù mờ đi tự làm khổ, rảnh rỗi đến Từ Ninh Cung báo hiếu, có Thái Hậu bên cạnh dạy bảo, đối với Thái Tử Phi này, Thế Tông có thể xem như yên tâm .
Chấm dứt đề tài ban nãy, Thế Tông ngược lại nói với Thái Hậu, “Mẫu hậu, tuy rằng hiện tại không thích hợp để sửa đổi quốc giáo, nhưng mà Mẫu hậu có thể truyền bá giáo lý Tát Mãn với các mệnh phụ triều đình, để cho các quý tộc tiếp nhận Tát Mãn trước. Đợi cho Đại Kim ta hưng thịnh, giáo chúng Tát Mãn dần lan ra cả nước chỉ là chuyện sớm muộn.”
Thái Hậu từng là nữ vu Tát Mãn, xưa nay vốn lấy việc truyền bá giáo lý Tát Mãn làm nhiệm vụ của mình, đối với việc phát triển giáo chúng, khuếch trương việc dạy bảo Tát Mãn vô cùng coi trọng. Thế Tông đã quyết định không thay đổi quốc giáo, trì hoãn việc mở rộng Tát Mãn giáo trong dân gian, sợ Thái Hậu thất vọng, cố ý tiến đến an ủi.
Thái Hậu ôn hòa gật đầu, “Ừ, mọi việc cần làm từng bước. Người Trung Nguyên ít nghe nói đến Tát Mãn, nếu muốn cho bọn họ chấp nhận, đều phải trải qua một quá trình. Hiện tại, cần bình yên vượt qua đại hạn Tây Nam trước, không để nạn dân Tây Nam bất ngờ làm phản, ảnh hưởng đến việc ổn định căn cơ Đại Kim mới là chuyện đại sự, những việc khác đều có thể từ từ lại.”
Thế Tông gật đầu tràn đầy đồng cảm, trong lòng có chút hổ thẹn. Lập Tát Mãn làm quốc giáo vốn là hứa hẹn của hắn đối Thái Hậu, nay là hắn thất tín, cũng may hắn đã tìm được cái khác bồi thường, khó chịu trong lòng mới vơi đi vài ba phần.
Nghĩ đến đây, đôi mày nhíu chặt của Thế Tông mới giãn ra, nâng tay hướng cung nhân phía sau kêu: “Người đâu, đem lễ vật trẫm mang cho Thái Hậu trình lên.”
Trong đám người, một giọng nữ thanh thúy đáp lời.
Thái Hậu kinh ngạc nhíu mày, tò mò mở miệng hỏi, “Ồ? Hoàng đế còn mang theo lễ vật đến cho ai gia?”
Trong mắt Thế Tông ngậm cười, “Trẫm thất tín với mẫu hậu, đương nhiên là muốn tìm một chút gì đó vừa ý để bồi thường.”
Thái Hậu nghe vậy trong lòng như se lại, vẻ mặt chờ mong nhìn về phía nữ quan đang cầm một cái đại hộp gấm tiến lên.
Thấy Giang Ánh Nguyệt đi ra từ trong đám cung nhân, con ngươi Âu Dương Tuệ Như lóe lóe, nhìn chằm chằm cái hộp trong tay Giang Ánh Nguyệt, trong lòng hơi động, cũng không dám dời tầm mắt một chút mảy may nào. Âu Dương Tuệ Như có dự cảm, nàng chờ đợi nhiều ngày như vậy là để diễn, có thể cũng sắp lên sàn diễn rồi.
Giang Ánh Nguyệt vô cùng cung kính quỳ bên chân Thái Hậu, giơ cái hộp lên cao quá đầu, cúi đầu nói: “Xin mời Thái Hậu xem qua.”
Thái Hậu tiếp nhận hộp gấm, dưới ánh mắt cổ vũ Thế Tông, mở ngay nắp hộp tại chỗ, đợi thấy rõ đồ vật bên trong hộp, hít một ngụm khí lạnh.
Nghe thấy âm thanh Thái Hậu hút không khí, lại thấy biểu tình Thái Hậu khiếp sợ, mọi người ở đây nhịn nén được tò mò, đều hướng hộp gấm trong tay nàng nhìn lại.
Tát Mãn: là một tín ngưỡng;
Đất nước Tây Tạng tiếp giáp với tây Á và đông bắc Á, trong đó gồm có các tộc người sinh sống bằng nghề du mục hoặc nghề săn bắn ở khu vực cao nguyên thảo nguyên nầy, và họ cùng có một cộng đồng tín ngưỡng-đó là tín ngưỡng “Vu”, một thứ tôn giáo của thời nguyên thủy, tín ngưỡng Vu là “Khẩu Lý” (trong miệng) của dân Tây Bá Lợi Á còn có tên là Tát Mãn (Shama). Do đó, trong môn tôn giáo học cũng liệt kê Tát Mãn là một tín ngưỡng, và gọi là Tát Mãn giáo. Tát Mãn giáo lấy Tây Bá Lợi Á làm trung tâm rồi mở rộng ra bốn phía như Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương (còn gọi là Lý Ngột Nhi) và Tây Tạng v.v.Trong xã hội của các dân tộc người vừa nêu có một phương thức sinh hoạt giống nhau, đó là tất cả đều tiếp nhận tín ngưỡng Tát Mãn giáo.
Tát Mãn giáo là do luyện tập các huyễn thuật và phù chú mà thành, và gọi đó là “Công Năng Vu”. Công Năng Vu tương tự như “ĐạoThuật Uy Lực” của Trung Quốc. Công Năng Vu có thể trị liệu bệnh tật, bói toán kiết hung, giải trừ tà ma, cầu mưa, dập lửa. Trong Tát Mãn giáo có một việc mà Công Năng Vu không thể làm được, đó là lập đại đạo tràng để cầu Thần giáng. Tín ngưỡng nguyên thủy của Tây Tạng vốn dĩ là Bổng giáo (Bon). “Bon” là tiếng Mông Cổ có nghĩa là Vu Sư. Điều này cho thấy Bổng giáo cũng là một chi trong hệ thống Tát Mãn giáo.
Không lâu trước khi Phật giáo bắt đầu thịnh hành ở Tây Tạng, thì liền bị tín đồ Tát Mãn giáo đố kỵ; mới dẫn đến chuyện vị Tạng vương là Lãng Đạt Ma-một tín đồ Tát Mãn giáo, nổi lên huỷ diệt Phật giáo. Về sau, khi Phật giáo phục hưng Bổng giáo mới được quy hóa về Phật giáo, có người lấy Phật giáo bổ sung vào Bổng giáo mà thành Hắc giáo; giống như Phật giáo, do hấp thu các thành phần của Bổng giáo và tạo thành nét đặc sắc của Lạt-ma giáo. Mãi đến trước khi lục địa Trung Quốc kiến lập chính quyền tại Tây Tạng, thì tại các chùa Phật của Lạt-ma giáo vẫn còn Phật sự về Thần giáng. Cũng giống như Mật giáo Ấn Độ lấy các thần của Ấn Độ giáo làm vị hộ pháp cho Phật giáo. Lạt-ma giáo của Tây Tạng cũng lấy thần của Bổng giáo đưa vào Phật giáo.
Âu Dương Tuệ Như ngồi ở bên cạnh Thế Tông, cách Thái Hậu một vị trí chỗ ngồi, nên không nhìn thấy món đồ trong tay Thái Hậu, vô cùng nóng lòng muốn chứng thực suy đoán của mình, rốt cục không khắc chế được xúc động, lặng lẽ nhấc nửa cái mông lên, cố rướn mình vươn cổ ra, lướt qua người Thế Tông, nhìn hướng vào bên trong hộp.
Thế Tông thấy hai mắt Âu Dương Tuệ Như mở to, gần như muốn rớt ra ngoài, cặp mắt trợn lên trộm dò xét bên trong hộp gấm, giống như chú mèo con đang hiếu kỳ tràn đầy, biểu tình hay động tác đều vô cùng đáng yêu, cho nên chẳng những không trách tội mà còn mỉm cười, lặng lẽ nhích thân mình để Âu Dương Tuệ Như dễ dàng xem rõ ràng hơn một chút.
Thế Tông vừa dịch ra, thoáng chốc tầm mắt Âu Dương Tuệ Như trống trải không ít, khẩn cấp nhìn vào bên trong hộp, đợi đến khi nhìn thấy mấy quyển sách ố vàng, cũ nát không chịu nổi bên trong hộp, suy đoán trong lòng đã được xác thực, căng thẳng toàn thân từ nãy giờ lập tức được thả lỏng, rốt cục không chống đỡ việc ngồi chỉ bằng nửa cái mông, soạt một tiếng quay trở lại ngồi ngay ngắn.
Âu Dương Tuệ Như dựa lưng vào lưng ghế tựa, xiết chặt khăn thêu trong tay, nàng hít một hơi sâu, thầm cảm thấy may mắn: Nguy hiểm quá! Hôm nay quả thực nên rất cám ơn Thành vương phi và Vệ vương phi đúng lúc đến tìm, còn cố tình kéo dài thời gian làm cho nàng chưa kịp rời đi, bằng không, nàng sẽ bỏ qua tiết mục Giang Ánh Nguyệt diễn trò hay lần thứ hai.
Trong kịch bản có ghi, mấy quyển kinh thư này những quyển kinh thư lâu đời nhất trong lịch sử, là kinh thư kinh điển nhất của Tát Mãn, tên là 《Sa Môn Kinh 》, bộ kinh thư này được truyền vào bộ lạc Nữ Chân, từ đó Tát Mãn giáo được người trong bộ tộc Nữ Chân truyền bá ra, đặt tên là Tát Mãn cũng bởi vì phát âm của nó cũng gần với ‘Sa môn’. (Chỗ này tác giả bảo sao thì nghe vậy, tớ không biết tiếng bông ah)
Bộ kinh thư này vốn là từ mấy trăm năm trước do thương nhân La Sát* đưa vào Đại Kim, qua tay nhiều lần, cuối cùng không biết di lạc nơi nào, là thần điển mà vu sư Tát Mãn mơ ước tha thiết. Thái Hậu vì tìm kiếm bộ kinh thư này, hàng năm không biết phái đi bao nhiêu nhân lực và tài lực, không nghĩ tới, nguyện vọng này cuối cùng hôm nay cũng thực hiện được.
(*罗刹: La sát hay 羅斯 La Tư : nước Nga ngày nay)
Thái Hậu khắc chế nội tâm kích động, thật cẩn thận nâng niu kinh thư, cầm trên tay dò xét trước sau, cẩn thận quan sát, ngay cả góc, cạnh, gáy cũng không bỏ qua, sau khi xem một lúc lâu, rốt cục cảm thấy xem xét bên ngoài đủ rồi mới thận trọng mở trang sách ra, đến khi thấy rõ bên trên trang sách ghi dày đặt chữ La Sát, Thái Hậu thở ra một hơi thật dài, như trút được gánh nặng cảm thán nói: “Quả nhiên là 《 Sa Môn kinh 》 thật, đáng tiếc, một bộ kinh thư, ai gia nhìn chỉ có thể biết một hai phần, thật sự là đáng tiếc!”
Sách quý đến tay nhưng không cách nào hiểu thấu đáo, Thái Hậu sau khi kích động qua đi, tâm tình cũng bình ổn lại.
Thế Tông cười cười thần bí, đưa mắt nhìn Giang Ánh Nguyệt vẫn đang quỳ trên mặt đất, trong mắt hàm chứa nồng đậm tán thưởng.
Đem biểu tình Thế Tông thu hết vào trong mắt, Âu Dương Tuệ Như khẽ cắn môi, trong lòng thầm nghĩ: rốt cục cũng đã đến lượt Giang Ánh Nguyệt lên sân khấu rồi sao?
Hôm nay diễn màn này, đối với Giang Ánh Nguyệt mà nói thì việc đó có ý nghĩa vô cùng.
Trong kịch bản ghi lại thế này: Giang Ánh Nguyệt vô cùng hiểu rõ chữ nghĩa La Sát Quốc, đem 《 sa môn kinh 》 từ đầu chí cuối dịch ra, đóng thành hai bộ sách viết tay bằng chữ Nữ Chân và chữ Hán, cung kính hiến dâng cho Thái Hậu, được Thái Hậu ưu ái, lại được Thái Hậu ban cho tài vật để mà quyên góp viện trợ nạn hạn hán Tây Nam, Thái Hậu đặc biệt ra ý chỉ khen ngợi, từ đó bùng nổ phong trào quyên tặng lạc quyên mà đồng thời dẫn đầu tần phi hậu cung cùng các mệnh phụ triều đình, giải quyết tình thế khẩn cấp giúp Thế Tông.
Trải qua việc lần này, Giang Ánh Nguyệt trở thành người tâm phúc bên cạnh Thái Hậu và Thế Tông. Nếu không phải có Thái Hậu ủng hộ, cho dù Giang Ánh Nguyệt đã hai lần cứu tánh mạng Thế Tông, bằng xuất thân đê tiện do nàng ta bịa đặt thì tuyệt đối không có khả năng được sắc phong làm Hoàng quý phi, để từ đó xưng bá hậu cung, càng không nói đến việc tự mình làm nữ hoàng .
Âu Dương Tuệ Như lẳng lặng ôn lại nội dung đoạn kịch ở trong đầu một lần, nàng cúi đầu, yên lặng chờ đợi Giang Ánh Nguyệt lên biểu diễn.
Việc phiên dịch kinh văn quả thật Âu Dương Tuệ Như nàng không có cách nào, bởi vì nàng không biết tiếng Nga. Nhưng mà, ‘cướp vai’ lại là việc khác, đó là một kỹ thuật sống, không phải chỉ ‘cướp’ trên màn ảnh, có đôi khi quá trình chờ đợi để ‘cướp’ ngược lại càng thêm xuất sắc, càng có thể nâng cao cho hiệu quả cho ý tưởng.
Vào lúc nào thì nên ra tay, Âu Dương Tuệ Như đã suy nghĩ thật tốt từ sớm .
Giang Ánh Nguyệt không biết chính mình đã bị người ta theo dõi, để hộp gấm xuống, cẩn thận từ trong hộp lấy ra hai bộ kinh văn mới trình Thái Hậu xem, “Khởi bẩm Thái Hậu, nơi này còn có 《 Sa Môn kinh 》 bản dịch chữ Kim và chữ Hán, mời Thái Hậu xem qua.” Trong lời nói, không có nửa điểm nhắc đến công lao chính mình.
Thái Hậu kinh ngạc mở to hai mắt, vội vàng tiếp nhận bản dịch, xem rất nhanh, sau một lúc lâu, kinh hỉ mở miệng khen: “Bản dịch này tường thuật tóm lược vô cùng toàn diện, lời dịch cũng khá ngắn gọn, đặc biệt chữ này, chữ viết đoan chính, kiểu chữ lớn nhỏ cũng thật thích hợp, toàn bộ đều là niêm hoa tiểu giai** xinh đẹp như thế này, ai gia thoạt nhìn không cần phí bao nhiêu nhãn lực, vô cùng tốt! Ai phiên dịch ? Ai gia muốn thưởng thật nhiều!”
(**拈花小楷 niêm hoa tiểu giai: tạm hiểu là chữ nhỏ ngay hàng như dùng tay cầm hoa đặt vào – cầm tay xếp chữ-)
Thế Tông mỉm cười, nhìn về phía Giang Ánh Nguyệt nói: “Người này xa tận chân trời, gần ngay trước mắt. Giang nữ quan, còn không mau tạ ơn Thái Hậu?”
Giang Ánh Nguyệt được Thái Hậu khen ngợi như vậy, thanh lệ trên mặt không chút lộ ra vẻ tự mãn, không kiêu ngạo không siểm nịnh cúi người, dập đầu thật mạnh ba cái, giọng nói chỉ toàn chân thành: “Được Thái Hậu khích lệ, nô tỳ thẹn không dám nhận. Nô tỳ chính là vận khí tốt, trùng hợp hiểu biết được chút chữ La Sát, thuận tay làm mà thôi. Nếu không, Đại Kim ta nhân tài đông đúc, làm sao đến lượt nô tỳ thay Thái Hậu cống hiến sức lực? Xin Thái Hậu thu hồi ban thưởng.”
Thái độ nàng không kiêu căng không nóng vội, không kiêu ngạo không siểm nịnh lập tức chiếm được hảo cảm của Thái Hậu, Thái Hậu cười từ ái, xua tay nói: “Giang nữ quan thật quá khiêm nhượng! Thân là nữ tử, còn học rộng tài cao như thế, đúng là khó có được, ban thưởng này, ngươi phải nhận! Người đâu, ban thưởng!”
Thế Tông gật đầu đồng ý, hướng cung nhân phía sau vẫy tay nói: “Thái Hậu nói phải, ban thưởng này cũng coi như trẫm góp một phần, các ngươi tức khắc đi trong cung trẫm lấy đến.”
Vài cung nhân nhận lệnh, rời khỏi chính điện, một lúc lâu sau lại tiến vào, trên tay mỗi người đều đang cầm rất nhiều tài bảo, có vàng bạc tiền tài, có châu báu ngọc thạch, còn có mấy thất tuyết gấm mềm mại bồng bềnh như tự tỏa sáng. (thất: từ chỉ số lượng, đơn vị dùng cho vải, lụa: nếp, xấp, tấm, v.v)
Ban thưởng nhiều như vậy, mấy người Nguyên phi đang ngồi nhìn mà trong mắt lộ ra vẻ cực kỳ hâm mộ.
Âu Dương Tuệ Như đối với mấy thứ này cũng không có hứng thú, nàng chỉ hơi hơi đảo mắt qua vài lần liền dời tầm mắt, ngược lại nhìn về phía Giang Ánh Nguyệt, nội tâm chờ mong biểu hiện kế tiếp của nàng ta.
Bình luận truyện