Thiết Huyết Đại Minh
Chương 442: Xuất binh
Trong lúc Vương Phác đang nói chuyện với Lý Hương Quân thì bên ngoài cửa vọng vào giọng nói của Lã Lục:
- Vương gia, ba vị các lão đã đến rồi.
- Lão gia tử đến rồi?
Vương Phác không hài lòng lắc đầu, quay sang nói với Lý Hương Quân:
- Như vậy đi, bây giờ nàng hãy đi tìm Khinh Yên, làm sao để nàng ta thuật lại tường tận tình báo của Nhật Bản và chuẩn bị tốt kế hoạch chi tiết tác chiến với Nhật, đợi ta và các Lão gia tử bàn bạc xong suôi sẽ đến tìm hai nàng.
- Dạ!
Lý Hương Quân ngoan ngoãn dạ một tiếng rồi quay người bước ra ngoài.
Vương Phác lúc này mới chỉnh xửa lại quần áo, cùng với Lã Lục đi tới tiền sảnh. Ở tiền sảnh, Tôn Truyền Đình, Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí sớm đã có mặt, vừa nhìn thấy bóng dáng của họ, Vương Phác đã chắp tay và đon đả cười nói bắt chuyện:
- Ai dà, đúng là thất lễ đã để ba vị các lão đợi lâu.
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí vội vàng đứng dậy hành lễ:
- Không dám, không dám.
Tôn Truyền Đình cười khổ lắc đầu, nói với Tiền Khiêm Ích:
- Tiền các lão, mau đem kế hoạch năm năm của Nội Các thảo cho Vương Gia xem.
Tiền Khiêm Ích đáp lại, rồi trịnh trọng lấy từ trên bàn một sấp văn kiện đưa cho Vương Phác, còn Vương Phác thì cũng khẩn trương đưa tay ra nhận lấy, vừa mở ra thì trang đầu tiên đã hiện ra tên sách được viết bằng chữ khải, ngay ngắn thẳng hàng thành dòng: “Cương yếu kế hoạch năm năm”. Nhìn hàng chữ này Vương Phác mới nhớ ra, kế hoạch năm năm này là chính hắn đã yêu cầu Nội Các đặc biệt soạn ra.
Mấy năm nay, cùng với sự phát triển vương triều Đại Minh, kinh tế được khôi phục, công thương nghiệp ngày càng hưng thịnh, và cũng vì vậy mà sự việc càng ngày càng trở nên phức tạp, càng ngày càng khó quản lý, Vương Phác nhớ lại những kinh nghiệm của hậu thế, đã đặc biệt căn dặn Nội Các soạn ra một kế hoạch năm năm, nhằm sắp xếp những việc đại sự, việc gấp trong năm năm thành một danh mục, sau đó sẽ dựa theo danh mục đó để thực hiện từng việc từng việc một.
Nhân lúc Vương Phác đang xem bản kế hoạch, Tiền Khiêm Ích liền giải thích:
- Vương Gia, Nội Các lần này đã soạn ra kế hoạch năm năm, trong đó chỉ ra rằng phải chú trọng phát triển công thương nghiệp, đây cũng là một trong điểm mà Vương Gia đã từng đề cập đến, phục hưng công nghiệp có ba điều quan trong: thứ nhất, giảm bớt những trở ngại trong việc phát triển công thương nghiệp, thứ 2 là các ngân hàng sẽ cho các nơi sản xuất có quy mô nhà xưởng trở lên vay vốn, thứ ba là yêu cầu viện quân sự khoa học nỗ lực phát triển khoa học kỹ thật, để thay thế máy móc, nâng cao hiệu quả lao động.
Trở ngại lớn nhất trong việc phát triển công thương nghiệp là quan niệm truyền thống thâm căn cố đề của người dân Trung Quốc.
Ví dụ như trong ngành khai khoáng, từ xưa đến nay, người Trung Quốc có tình cảm đặc biệt sâu đậm với đất đai, nên khoáng sản được khai thác từ dưới lòng đất lên sẽ không vì những quan niệm xưa kia mà công nhận chúng, đặc biệt là những khoáng sản có trong khu vực đất của những nhà quyền quý hoặc là trong những khu lăng mộ quan viên. Những nhà quyền quý, quan viên này luôn luôn viện vào cớ phong thủy mà ra sức gây trở ngại, đây chính là lúc cần chính phủ trung ương dùng những biện pháp mạnh để giải quyết.
Cái này thì cũng không có gì đáng nói lắm, chỉ cần Nội Các và chính phủ Trung Ương Quân có những biện pháp cứng rắn là được, Vương Phác tin rằng sẽ không có vấn đề gì trong chuyện này.
Việc mà khiến Vương Phác có chút lo lắng là việc cho những nơi sản xuất có quy mô nhà xưởng trở lên vay vốn, đối với Vương Phác mà nói, số tiền khởi động của ngân hàng sẽ không bao giờ trở thành vấn đề cả, bởi số ngân lượng mà bán đấu giá tài sản quan doanh lần trước vẫn được cất giữ ở trong kho của Hộ Bộ, hơn nữa còn có ngân lương của nhà họ Vương, gần hai nghìn vạn lạng bạc mà Hoàng Đắc Công bán được trong buổi bán đấu giá số vàng bạc châu báu mò được ở sông Hồn lên. Chỉ tính riêng hai khoản tiền này cũng đủ đề mở một ngân hàng quốc gia và một ngân hàng tư nhân.
Điều khiến Vương Phác lo lắng là người có thể làm việc trong lĩnh vực ngân hàng, vấn đề này đúng là ngân hàng của nước Đại Minh đang thiếu hụt nghiêm trọng. Ngân hàng là một bộ ngành quan trọng, tiền sinh ra tiền, đương nhiên là tốt nhưng phàm là ngành nào có lợi nhuận cao thì tức là rủi ro cũng cao, ngộ nhỡ không cẩn thận, tích lũy quá nhiều tài sản đen, thì có thể làm thâm hụt vốn, vì vậy không thể không cẩn thận.
Tạm thời đặt bản văn kiện trong tay xuống, Vương Phác lên tiếng hỏi:
- Ba vị các lão đã bàn bạc qua việc thành lập ngân hàng chưa?
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí cùng liếc mắt về phía Tôn Truyền Đình, Tôn Truyền Đình đánh phái lên tiếng:
- Đại khái là đã bàn bạc qua, từ tình hình trước mắt có thể thấy rằng, các ngành nghề của Giang Nam không nhiều thì ít đều tồn tại vấn đề tiền vốn, nếu như bọn họ có được sự giúp đỡ để bổ sung chỗ tài chính bị thiếu, ta tin rằng tốc độ phát triển sẽ nhanh hơn rất nhiều.
Dừng lại một lúc, Tiền Khiêm Ích bổ xung thêm:
- Một vấn đề khác chính là tỷ giá giao dịch, trước mắt công thương nghiệp của Giang Nam đang đứng trước một cơ hội phát triển cực lớn, tơ lụa của Chiết Trực, đồ gốm của Giang Tây, lá trà của Phúc Kiến, dược liệu của Vân Nam, rượu của Sơn Tây, đồ lông da của Tắc Ngoại, nhân sâm của Liêu Đông, lương thực của Hồ Quảng, hàng hóa qua lại nhộn nhịp, buôn bán càng ngày càng sầm uất, trong đó có những lần buôn bán mà giá trị lên tới mấy chục vạn lượng bạc, các thương gia mang nhiều ngân lương như vậy quả thực là hơi bất tiện, vì vậy việc thành lập ngân hàng là một việc cần phải giải quyết ngay lập tức.
Lã Đại Khí có chút buồn chán:
- Điều đáng tiếc duy nhất là quốc nội của chúng ta không có nhân tài có chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Vương Phác ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Như vậy đi…đầu tiên là sẽ mời một vài chuyên gia có chuyên môn cao trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng đến từ Châu Âu, sau đó sẽ thành lập khoa tiền tệ tài chính trong trường đại học Đế Quốc và trường đại học Dương Minh, bồi dưỡng một thế hệ nhân tài có chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng, ba năm sau chúng ta sẽ có đủ nhân tài phục vụ trong lĩnh vực này, đến lúc đó chúng ta sẽ chính sức mở ngân hàng, các vị thấy sao?
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí đồng thời vỗ tay và tán dương:
- Vương Gia anh minh!
Tôn Truyền Đình cũng phụ họa theo:
- Vậy chúng ta cứ tiến hành như vậy đi!
Vương Phác đúng lúc đó liền cắt ngang:
- Nhưng vẫn còn vấn đề về việc nghiên cứu phát triển và thay thế máy móc của Viện khoa học quân sự nữa, đây cũng là một vấn đề quan trọng.
Cùng với sự yên bình trong cuộc sống của người dân và sự phát triển nhanh chóng của công thương nghiệp Giang Nam, lỗ hổng về lực lượng lao động trong nước càng ngày càng lớn, rất nhiều công trường vì không đủ nhân công mà phải thu hẹp quy mô sản xuất, nhiều công trường sản xuất hàng không đúng đủ thời gian mà buộc phải hủy đơn đặt hàng, hơn nữa tình hình này đang ngày một nghiêm trọng hơn.
Nếu muốn giải quyết được vấn đề thiếu nhân lực này, thì có hai phương án.
Một là đi cướp nhân lực, ý nghĩ đã xuất hiện ở trong đầu Vương Phác từ rất lâu rồi, đối tượng được nhắm đến chính là Nhật Bản, hai là yêu cầu Viện quân sự khoa học nghiên cứu phát triển máy móc để thay thế.
Ví dụ như sản xuất tơ lụa, cụ thể là máy xe sợt và máy dệt, chỉ cần Viện quân sự khoa học có thể nghiên cứu chế tạo ra máy móc có hiệu suất cao thì mặc dù là trong tình hình thiếu hụt nhân lực nhưng sản lượng của các nhà xưởng vẫn sẽ được nâng cao. Hoặc là trong ngành xe lửa chạy bằng động cơ, một khi Viện quân sự khoa học nghiên cứu chế tạo thành công xe lửa chạy bằng động cơ, sau đó sẽ xây dựng các đường ray đơn tuyến nối liền các nhà máy, khu khai khoáng thì có thể giảm thiều được sức lao động trong việc vận chuyển khoáng sản, hiệu suất luyện kim cũng theo đó mà được nâng cao.
Đây đều là những mặt tốt có thể nhìn thấy ngay, và đương nhiên là còn rất nhiều những điểm tốt tiềm năng, nói tóm lại, cải cách sớm nhất trong ngành công nghiệp trong lịch sử các nước phương tây là từ hai ngành se sợi và dệt may. Lúc đó cuộc cải cách máy móc của châu Âu là tự phát trong nhân dân, còn trong nước Đại Minh rộng lớn như thế này thì cuộc cải cách cơ khí sẽ được chính phủ lãnh đạo và toàn lực ủng hộ, Vương Phác tin rằng hiệu quả sẽ được nâng lên đáng kể và thời gian tiến hành cải cách cũng sẽ được rút ngắn.
Tôn Truyền Đình ngẫm nghĩ một chút, chợt nói:
- Viện Khoa học quân sự hiện đang bề bộn cải tiến máy hơi nước và tàu chiến bọc thép, căn bản là không rút ra được nhiều công nhân và tinh lực để nghiên cứ chế tạo máy móc thay thế, theo lão phu thấy không bằng như này, tiếp tục đi phương tây mời một nhóm người có tài, mặt khác thành lập một Viện Khoa học Đế quốc chuyên cải tiến máy móc sản xuất cho các nghành nghề, thế được không?
Vương Phác liên tục gật đầu tán dương:
- Chủ ý hay! Việc tìm người hãy giao cho Johan đi.
Tiền Khiêm Ích đáp lại:
- Vâng! Johan bây giờ là Hồng Y giáo chủ của giáo khu Viễn Đông Thiên Chúa Giáo, cũng là đại sứ toàn quyền của Đại Minh chúng ta ở châu Âu, việc này giao cho ngài ấy là hợp lý nhất.
- Vậy cứ quyết định như thế trước.
Tồn Truyền Đình gật đầu quay sang phía Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí:
- Chúng ta nên quay về Nội Các, soạn ra một kế hoạch chi tiết về ba trọng điểm trên.
Sau khi tiễn ba người Tôn Truyền Đình, Vương Phác đi thẳng đến chỗ của Liễu Khinh Yên.
Trước hiên nhà, Liễu Khinh Yên đang chỉnh sửa tình báo có liên quan đến Nhật Bản, ba năm trước đây, Liễu Khinh Yên đã bắt đầu công việc thăm dò tình hình Nhật Bản, trọng điểm thăm dò chính là cảng Nagasaki, cảng Osaka, ngoài ra còn có thành Giang Hộ. Cảng Nagasaki, cảng Osaka là hai cảng khẩu Nhật Bản chuyên dùng để buôn bán thông thương với nước ngoài, còn thành Giang Hộ là trung tâm quân sự chính trị của Nhật Bản, tầm quan trọng thì không cần phải nói thêm.
Nghe được tiếng bước chân quen thuộc, trên khuôn mặt với làn da trắng nõn của Liễu Khinh Yên thoáng hiện lên vẻ vui mừng.
Rất nhanh, hai cánh tay cường tráng, rắn chắc ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Liễu Khinh Yên, sức nóng từ hai cánh tay đó tỏa ra khiến Liễu Khinh Yên khẽ kêu lên một tiếng, nàng quay lại nhìn Vương Phác, hai khuôn mặt chỉ cách nhau gang tấc, nàng cười cười nói nói:
- Vương Gia, ngài ăn chán hoa nhà rồi hay sao mà lại muốn hái hoa dại thế?
- Hái hoa dại?
Trên mặt Vương Phác thoáng hiện lên nét bối rối:
- Hái hoa dại nào?
Liễu Khinh Yên cười quyến rũ nói:
- Ngài vội vã cử nô gia đến giúp ngài sưu tập tình báo về Nhật Bản, không phải là vì muốn chinh phục Nhật Bản, muốn thử mùi vị của nữ nhân Nhật Bản hay sao?
- Chuyện này thì nàng nhầm rồi.
Đôi cánh tay to khỏe của Vương Phác càng xiết chặt lấy vòng eo của Liễu Khinh Yên, rồi cười với nàng một nụ cười rất phong lưu:
- Lần này xuất binh cướp nữ nhân chỉ là thứ yếu, cái chính là cướp nam nhân kìa.
Liễu Khinh Yên tròn xoe mắt ngạc nhiên:
- Cái gì? Cướp nam nhân?
Nói xong, trên khuôn mặt xinh đệp mỹ miều của Liễu Khinh Yên thoáng hiện lên chút khó hiểu, rồi nàng lại cười nũng nịu:
- Gia, thiếp đúng là không biết ngài còn có một sở thích đặc biệt này đó!
Vương Phác vừa khẽ liếm vành tai của Liễu Khinh Yên vừa mơ hồ hỏi nàng:
- Nhân khẩu phân bố ở đâu vậy?
Liễu Khinh Yên thở hổn hển đáp:
- Chủ yếu là tập trung ở trung phía tây đảo Bản Châu (Honshu), vùng bình nguyên Quan Đông dân số là đông đúc nhất, còn có Giang Hộ chỗ Mạc Phủ cũng là thành phố lớn nhất của Nhật Bản, dân số ở đây ít nhất cũng có trên 55 vạn người cũng có thể coi là dân số của Nam Kinh, Dương Châu, Tô Châu và Hàng Châu của Đại Minh chúng ta mới có thể hơn được dân số của Giang Hộ.
- Giang Hộ? Đó không phải là Đông Kinh à?
- Vương gia, ba vị các lão đã đến rồi.
- Lão gia tử đến rồi?
Vương Phác không hài lòng lắc đầu, quay sang nói với Lý Hương Quân:
- Như vậy đi, bây giờ nàng hãy đi tìm Khinh Yên, làm sao để nàng ta thuật lại tường tận tình báo của Nhật Bản và chuẩn bị tốt kế hoạch chi tiết tác chiến với Nhật, đợi ta và các Lão gia tử bàn bạc xong suôi sẽ đến tìm hai nàng.
- Dạ!
Lý Hương Quân ngoan ngoãn dạ một tiếng rồi quay người bước ra ngoài.
Vương Phác lúc này mới chỉnh xửa lại quần áo, cùng với Lã Lục đi tới tiền sảnh. Ở tiền sảnh, Tôn Truyền Đình, Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí sớm đã có mặt, vừa nhìn thấy bóng dáng của họ, Vương Phác đã chắp tay và đon đả cười nói bắt chuyện:
- Ai dà, đúng là thất lễ đã để ba vị các lão đợi lâu.
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí vội vàng đứng dậy hành lễ:
- Không dám, không dám.
Tôn Truyền Đình cười khổ lắc đầu, nói với Tiền Khiêm Ích:
- Tiền các lão, mau đem kế hoạch năm năm của Nội Các thảo cho Vương Gia xem.
Tiền Khiêm Ích đáp lại, rồi trịnh trọng lấy từ trên bàn một sấp văn kiện đưa cho Vương Phác, còn Vương Phác thì cũng khẩn trương đưa tay ra nhận lấy, vừa mở ra thì trang đầu tiên đã hiện ra tên sách được viết bằng chữ khải, ngay ngắn thẳng hàng thành dòng: “Cương yếu kế hoạch năm năm”. Nhìn hàng chữ này Vương Phác mới nhớ ra, kế hoạch năm năm này là chính hắn đã yêu cầu Nội Các đặc biệt soạn ra.
Mấy năm nay, cùng với sự phát triển vương triều Đại Minh, kinh tế được khôi phục, công thương nghiệp ngày càng hưng thịnh, và cũng vì vậy mà sự việc càng ngày càng trở nên phức tạp, càng ngày càng khó quản lý, Vương Phác nhớ lại những kinh nghiệm của hậu thế, đã đặc biệt căn dặn Nội Các soạn ra một kế hoạch năm năm, nhằm sắp xếp những việc đại sự, việc gấp trong năm năm thành một danh mục, sau đó sẽ dựa theo danh mục đó để thực hiện từng việc từng việc một.
Nhân lúc Vương Phác đang xem bản kế hoạch, Tiền Khiêm Ích liền giải thích:
- Vương Gia, Nội Các lần này đã soạn ra kế hoạch năm năm, trong đó chỉ ra rằng phải chú trọng phát triển công thương nghiệp, đây cũng là một trong điểm mà Vương Gia đã từng đề cập đến, phục hưng công nghiệp có ba điều quan trong: thứ nhất, giảm bớt những trở ngại trong việc phát triển công thương nghiệp, thứ 2 là các ngân hàng sẽ cho các nơi sản xuất có quy mô nhà xưởng trở lên vay vốn, thứ ba là yêu cầu viện quân sự khoa học nỗ lực phát triển khoa học kỹ thật, để thay thế máy móc, nâng cao hiệu quả lao động.
Trở ngại lớn nhất trong việc phát triển công thương nghiệp là quan niệm truyền thống thâm căn cố đề của người dân Trung Quốc.
Ví dụ như trong ngành khai khoáng, từ xưa đến nay, người Trung Quốc có tình cảm đặc biệt sâu đậm với đất đai, nên khoáng sản được khai thác từ dưới lòng đất lên sẽ không vì những quan niệm xưa kia mà công nhận chúng, đặc biệt là những khoáng sản có trong khu vực đất của những nhà quyền quý hoặc là trong những khu lăng mộ quan viên. Những nhà quyền quý, quan viên này luôn luôn viện vào cớ phong thủy mà ra sức gây trở ngại, đây chính là lúc cần chính phủ trung ương dùng những biện pháp mạnh để giải quyết.
Cái này thì cũng không có gì đáng nói lắm, chỉ cần Nội Các và chính phủ Trung Ương Quân có những biện pháp cứng rắn là được, Vương Phác tin rằng sẽ không có vấn đề gì trong chuyện này.
Việc mà khiến Vương Phác có chút lo lắng là việc cho những nơi sản xuất có quy mô nhà xưởng trở lên vay vốn, đối với Vương Phác mà nói, số tiền khởi động của ngân hàng sẽ không bao giờ trở thành vấn đề cả, bởi số ngân lượng mà bán đấu giá tài sản quan doanh lần trước vẫn được cất giữ ở trong kho của Hộ Bộ, hơn nữa còn có ngân lương của nhà họ Vương, gần hai nghìn vạn lạng bạc mà Hoàng Đắc Công bán được trong buổi bán đấu giá số vàng bạc châu báu mò được ở sông Hồn lên. Chỉ tính riêng hai khoản tiền này cũng đủ đề mở một ngân hàng quốc gia và một ngân hàng tư nhân.
Điều khiến Vương Phác lo lắng là người có thể làm việc trong lĩnh vực ngân hàng, vấn đề này đúng là ngân hàng của nước Đại Minh đang thiếu hụt nghiêm trọng. Ngân hàng là một bộ ngành quan trọng, tiền sinh ra tiền, đương nhiên là tốt nhưng phàm là ngành nào có lợi nhuận cao thì tức là rủi ro cũng cao, ngộ nhỡ không cẩn thận, tích lũy quá nhiều tài sản đen, thì có thể làm thâm hụt vốn, vì vậy không thể không cẩn thận.
Tạm thời đặt bản văn kiện trong tay xuống, Vương Phác lên tiếng hỏi:
- Ba vị các lão đã bàn bạc qua việc thành lập ngân hàng chưa?
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí cùng liếc mắt về phía Tôn Truyền Đình, Tôn Truyền Đình đánh phái lên tiếng:
- Đại khái là đã bàn bạc qua, từ tình hình trước mắt có thể thấy rằng, các ngành nghề của Giang Nam không nhiều thì ít đều tồn tại vấn đề tiền vốn, nếu như bọn họ có được sự giúp đỡ để bổ sung chỗ tài chính bị thiếu, ta tin rằng tốc độ phát triển sẽ nhanh hơn rất nhiều.
Dừng lại một lúc, Tiền Khiêm Ích bổ xung thêm:
- Một vấn đề khác chính là tỷ giá giao dịch, trước mắt công thương nghiệp của Giang Nam đang đứng trước một cơ hội phát triển cực lớn, tơ lụa của Chiết Trực, đồ gốm của Giang Tây, lá trà của Phúc Kiến, dược liệu của Vân Nam, rượu của Sơn Tây, đồ lông da của Tắc Ngoại, nhân sâm của Liêu Đông, lương thực của Hồ Quảng, hàng hóa qua lại nhộn nhịp, buôn bán càng ngày càng sầm uất, trong đó có những lần buôn bán mà giá trị lên tới mấy chục vạn lượng bạc, các thương gia mang nhiều ngân lương như vậy quả thực là hơi bất tiện, vì vậy việc thành lập ngân hàng là một việc cần phải giải quyết ngay lập tức.
Lã Đại Khí có chút buồn chán:
- Điều đáng tiếc duy nhất là quốc nội của chúng ta không có nhân tài có chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Vương Phác ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Như vậy đi…đầu tiên là sẽ mời một vài chuyên gia có chuyên môn cao trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng đến từ Châu Âu, sau đó sẽ thành lập khoa tiền tệ tài chính trong trường đại học Đế Quốc và trường đại học Dương Minh, bồi dưỡng một thế hệ nhân tài có chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng, ba năm sau chúng ta sẽ có đủ nhân tài phục vụ trong lĩnh vực này, đến lúc đó chúng ta sẽ chính sức mở ngân hàng, các vị thấy sao?
Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí đồng thời vỗ tay và tán dương:
- Vương Gia anh minh!
Tôn Truyền Đình cũng phụ họa theo:
- Vậy chúng ta cứ tiến hành như vậy đi!
Vương Phác đúng lúc đó liền cắt ngang:
- Nhưng vẫn còn vấn đề về việc nghiên cứu phát triển và thay thế máy móc của Viện khoa học quân sự nữa, đây cũng là một vấn đề quan trọng.
Cùng với sự yên bình trong cuộc sống của người dân và sự phát triển nhanh chóng của công thương nghiệp Giang Nam, lỗ hổng về lực lượng lao động trong nước càng ngày càng lớn, rất nhiều công trường vì không đủ nhân công mà phải thu hẹp quy mô sản xuất, nhiều công trường sản xuất hàng không đúng đủ thời gian mà buộc phải hủy đơn đặt hàng, hơn nữa tình hình này đang ngày một nghiêm trọng hơn.
Nếu muốn giải quyết được vấn đề thiếu nhân lực này, thì có hai phương án.
Một là đi cướp nhân lực, ý nghĩ đã xuất hiện ở trong đầu Vương Phác từ rất lâu rồi, đối tượng được nhắm đến chính là Nhật Bản, hai là yêu cầu Viện quân sự khoa học nghiên cứu phát triển máy móc để thay thế.
Ví dụ như sản xuất tơ lụa, cụ thể là máy xe sợt và máy dệt, chỉ cần Viện quân sự khoa học có thể nghiên cứu chế tạo ra máy móc có hiệu suất cao thì mặc dù là trong tình hình thiếu hụt nhân lực nhưng sản lượng của các nhà xưởng vẫn sẽ được nâng cao. Hoặc là trong ngành xe lửa chạy bằng động cơ, một khi Viện quân sự khoa học nghiên cứu chế tạo thành công xe lửa chạy bằng động cơ, sau đó sẽ xây dựng các đường ray đơn tuyến nối liền các nhà máy, khu khai khoáng thì có thể giảm thiều được sức lao động trong việc vận chuyển khoáng sản, hiệu suất luyện kim cũng theo đó mà được nâng cao.
Đây đều là những mặt tốt có thể nhìn thấy ngay, và đương nhiên là còn rất nhiều những điểm tốt tiềm năng, nói tóm lại, cải cách sớm nhất trong ngành công nghiệp trong lịch sử các nước phương tây là từ hai ngành se sợi và dệt may. Lúc đó cuộc cải cách máy móc của châu Âu là tự phát trong nhân dân, còn trong nước Đại Minh rộng lớn như thế này thì cuộc cải cách cơ khí sẽ được chính phủ lãnh đạo và toàn lực ủng hộ, Vương Phác tin rằng hiệu quả sẽ được nâng lên đáng kể và thời gian tiến hành cải cách cũng sẽ được rút ngắn.
Tôn Truyền Đình ngẫm nghĩ một chút, chợt nói:
- Viện Khoa học quân sự hiện đang bề bộn cải tiến máy hơi nước và tàu chiến bọc thép, căn bản là không rút ra được nhiều công nhân và tinh lực để nghiên cứ chế tạo máy móc thay thế, theo lão phu thấy không bằng như này, tiếp tục đi phương tây mời một nhóm người có tài, mặt khác thành lập một Viện Khoa học Đế quốc chuyên cải tiến máy móc sản xuất cho các nghành nghề, thế được không?
Vương Phác liên tục gật đầu tán dương:
- Chủ ý hay! Việc tìm người hãy giao cho Johan đi.
Tiền Khiêm Ích đáp lại:
- Vâng! Johan bây giờ là Hồng Y giáo chủ của giáo khu Viễn Đông Thiên Chúa Giáo, cũng là đại sứ toàn quyền của Đại Minh chúng ta ở châu Âu, việc này giao cho ngài ấy là hợp lý nhất.
- Vậy cứ quyết định như thế trước.
Tồn Truyền Đình gật đầu quay sang phía Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí:
- Chúng ta nên quay về Nội Các, soạn ra một kế hoạch chi tiết về ba trọng điểm trên.
Sau khi tiễn ba người Tôn Truyền Đình, Vương Phác đi thẳng đến chỗ của Liễu Khinh Yên.
Trước hiên nhà, Liễu Khinh Yên đang chỉnh sửa tình báo có liên quan đến Nhật Bản, ba năm trước đây, Liễu Khinh Yên đã bắt đầu công việc thăm dò tình hình Nhật Bản, trọng điểm thăm dò chính là cảng Nagasaki, cảng Osaka, ngoài ra còn có thành Giang Hộ. Cảng Nagasaki, cảng Osaka là hai cảng khẩu Nhật Bản chuyên dùng để buôn bán thông thương với nước ngoài, còn thành Giang Hộ là trung tâm quân sự chính trị của Nhật Bản, tầm quan trọng thì không cần phải nói thêm.
Nghe được tiếng bước chân quen thuộc, trên khuôn mặt với làn da trắng nõn của Liễu Khinh Yên thoáng hiện lên vẻ vui mừng.
Rất nhanh, hai cánh tay cường tráng, rắn chắc ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Liễu Khinh Yên, sức nóng từ hai cánh tay đó tỏa ra khiến Liễu Khinh Yên khẽ kêu lên một tiếng, nàng quay lại nhìn Vương Phác, hai khuôn mặt chỉ cách nhau gang tấc, nàng cười cười nói nói:
- Vương Gia, ngài ăn chán hoa nhà rồi hay sao mà lại muốn hái hoa dại thế?
- Hái hoa dại?
Trên mặt Vương Phác thoáng hiện lên nét bối rối:
- Hái hoa dại nào?
Liễu Khinh Yên cười quyến rũ nói:
- Ngài vội vã cử nô gia đến giúp ngài sưu tập tình báo về Nhật Bản, không phải là vì muốn chinh phục Nhật Bản, muốn thử mùi vị của nữ nhân Nhật Bản hay sao?
- Chuyện này thì nàng nhầm rồi.
Đôi cánh tay to khỏe của Vương Phác càng xiết chặt lấy vòng eo của Liễu Khinh Yên, rồi cười với nàng một nụ cười rất phong lưu:
- Lần này xuất binh cướp nữ nhân chỉ là thứ yếu, cái chính là cướp nam nhân kìa.
Liễu Khinh Yên tròn xoe mắt ngạc nhiên:
- Cái gì? Cướp nam nhân?
Nói xong, trên khuôn mặt xinh đệp mỹ miều của Liễu Khinh Yên thoáng hiện lên chút khó hiểu, rồi nàng lại cười nũng nịu:
- Gia, thiếp đúng là không biết ngài còn có một sở thích đặc biệt này đó!
Vương Phác vừa khẽ liếm vành tai của Liễu Khinh Yên vừa mơ hồ hỏi nàng:
- Nhân khẩu phân bố ở đâu vậy?
Liễu Khinh Yên thở hổn hển đáp:
- Chủ yếu là tập trung ở trung phía tây đảo Bản Châu (Honshu), vùng bình nguyên Quan Đông dân số là đông đúc nhất, còn có Giang Hộ chỗ Mạc Phủ cũng là thành phố lớn nhất của Nhật Bản, dân số ở đây ít nhất cũng có trên 55 vạn người cũng có thể coi là dân số của Nam Kinh, Dương Châu, Tô Châu và Hàng Châu của Đại Minh chúng ta mới có thể hơn được dân số của Giang Hộ.
- Giang Hộ? Đó không phải là Đông Kinh à?
Bình luận truyện