Thước Kiều Tiên
Chương 42: Lo sợ không đâu
Thời gian ba trăm năm dài bao nhiêu, phàm nhân khó mà tưởng tượng được, nên biết triều Đường cũng chỉ tồn tại hơn hai trăm năm.
Trong vòng ba trăm năm cứ đau khổ tìm kiếm một người chuyển thế, hết lần này đến lần khác lấy thân phận một người xa lạ xuất hiện ở trước mặt nàng, quen biết đến tìm hiểu nhau rồi ly biệt vì cái chết, rốt cuộc là cảm giác gì? Ngay cả yêu như Lữ Đại cũng khó mà tưởng tượng được.
Nàng đã từng xem qua một cuốn thoại bản do phàm nhân viết, là 《Cửu thế tình duyên》, kể lại một hoa tinh nghiêng nước nghiêng thành kết duyên với một thư sinh đa sầu đa bệnh, còn chưa kịp cùng nhau tới Vu sơn thì thư sinh kia bị bệnh qua đời. Hoa tinh rất đau lòng, sau này cũng đi tìm thư sinh kia khi chuyển thế giống như Bạch Diệc Nan, mỗi một kiếp gặp nhau đều là tiếng sét ái tình, yêu nhau thắm thiết.
Cho đến kiếp thứ chín, cả hai phu thê đều phi thăng thành tiên, còn viên mãn hơn cả mặt trăng đêm Trung thu.
Lữ Đại xem xong cũng không thấy cảm động, thậm chí còn có chút buồn cười. Câu chuyện này được biên không chút hợp lý, đại thiên thế giới biến ảo vô cùng, lòng người hiểm ác đa đoan, tình ái càng không đơn giản, có thể ân ái đã là không dễ dàng, nếu quả thật cửu sinh cửu thế thì rõ là người si nói mộng.
Thế nhưng Bạch Diệc Nan yêu Quế Nương bảy kiếp, thứ tình cảm si mê này đang tồn tại ngay bên cạnh nàng, thật sự quá đáng tiếc.
Nàng ngồi ở trước gương chải đầu, Giang Bình đi tới, ngồi xuống chiếc ghế nhỏ ở bên cạnh nàng, nghịch mái tóc đen bóng như mực của nàng, thở dài nói: “Nếu biểu muội biết là tâm ý của lão Bạch, chắc chắn sẽ rất cảm động. Năm nay muội ấy tròn mười sáu, cũng vì bệnh nên vẫn chưa thành thân. Lão Bạch nói vị danh y kia có thể trị hết bệnh của nàng, cữu phụ mẫu lại muốn vội vàng thu xếp hôn sự cho nàng. Lấy bối cảnh của lão Bạch thì hôn sự này chắc hẳn sẽ thành, nhưng ta thấy hắn không muốn tiếp tục nữa.”
Lữ Đại nghĩ, có lẽ không phải y không muốn tiếp tục, mà là mất đi nhiều tu vi như vậy thì không có cách nào tiếp tục được nữa.
Nàng nói: “Dây dưa đã nhiều năm, có lẽ ông chủ Bạch cũng mệt mỏi rồi.”
Giang Bình khẽ gật đầu: “Nhìn dáng vẻ của hắn, chắc hẳn kiếp trước đã cùng biểu muội tan rã trong không vui. Chuyện này cũng không thể tránh được, dù sao qua một kiếp nàng lại quên hắn, làm sao có thể luôn luôn vui vẻ được.”
Hắn nắm chặt bàn tay của Lữ Đại rồi áp lên má, mắt nhìn nàng chăm chú: “Dù vậy, nếu ta là yêu thì vẫn không kìm được mà đi tìm nương tử chuyển thế.”
Hắn nói chuyện nghiêm túc như vậy, trong lòng Lữ Đại lại thấy ngọt ngào, nàng cười nói: “Nếu như ta là yêu, ta cũng sẽ đi tìm lang quân chuyển thế.”
Giang Bình nói: “Ta lại không muốn nàng tìm ta. Ta không thể chọn lựa vận mệnh cho kiếp sau, có lẽ sẽ rất xấu, rất nghèo, thay vì để nàng ghét bỏ thì nên dừng ở kiếp này thôi.”
Lữ Đại kinh ngạc nhìn hắn, trong lồ ng ngực như có một dòng nước ấm dâng trào, lướt qua cổ họng, nàng kìm lòng không được mở miệng, dịu dàng nói: “Mặc kệ chàng biến thành thế nào, ta cũng sẽ không ghét bỏ.”
Tuy rằng tương lai không thể giữ vẹn lời thề, nhưng vào giờ này khắc này, đối diện với một người anh tuấn như hắn, đây là lời nói chân thành từ tận đáy lòng của nàng.
Mấy lời tâm tình chẳng phải đều như thế sao? Lúc thốt ra khỏi miệng thì đâu có mấy người mang theo chân thành, quay đầu lại đã là hoàng lịch của năm sau*.
(*hoàng lịch năm sau: một thành ngữ Trung Quốc, có nghĩa là một cái gì đó lỗi thời hoặc kinh nghiệm cũ, không còn được áp dụng vào một hoàn cảnh mới. Xuất phát từ “Dã tẩu bộc ngôn”.)
Giang Bình hôn lên môi nàng, đôi môi hồng phớt vừa lau đi son phấn, cười dịu dàng nói: “Nhưng ta không nỡ để nàng chịu khổ.”
Ánh mắt Lữ Đại xao động, ôm lấy cổ của hắn, được hắn bế lên giường, hết sức lưu manh.
Hôm sau trời vừa sáng, Giang Bình đã viết thư xong, kêu gã sai vặt đưa đến Nghiêm gia ở Hàng Châu. Trên thư chỉ nói hắn có một vị bằng hữu lâu năm từng đi khắp giang hồ, quen biết một vị danh y của phủ Khai Phong, có thể trị bệnh cho Quế Nương.
Chờ hắn đi ra ngoài, Lữ Đại để lại người rơm ở đó, còn mình đến Kê Minh Tự.
Tiếng chuông từ tháp chuông cổ vang vọng trong gió, vô cùng trang nghiêm.
Đám người tranh nhau đốt hương đã tới, ngoài cửa núi xếp hàng từng chiếc kiệu, các chủ quán bán điểm tâm loay hoay bận rộn, quý nhân ngồi trong kiệu đương nhiên không ăn loại đồ ăn thô thiển này, nên phần lớn chỉ bán cho những người hầu và kiệu phu của họ.
Tiểu Hỉ Thước xuyên qua một mảng khói lửa, bay vào Bằng Hư Các, tấm ván gỗ lát thành hành lang không có một hạt bụi, hai con mèo trắng ngửa bụng lười biếng nằm ở đó.
Cửa sổ xung quanh đều mở rộng, Lữ Minh Hồ nhắm mắt ngồi thiền định trên chiếc giường trong phòng, bên cạnh đặt một cây phất trần, một con mèo hoa đứng trên mặt đất quơ móng vuốt, gảy râu dài rủ xuống.
Lò sưởi Thọ Sơn phun ra làn khói mỏng, qua lớp sương khói nhìn người như thật như ảo. Tiểu Hỉ Thước đứng trên bệ cửa sổ nhìn y ngây người, Lữ Minh Hồ mở mắt ra, nhưng không nhìn nàng, mà là cầm lấy phất trần, trêu đùa con mèo hoa kia.
Mèo hoa thấy y chơi đùa với mình thì rất vui vẻ, thả người nhảy lên đầu gối y, nịnh hót meo một tiếng.
Lữ Minh Hồ vuốt v e lưng của nó, nó thích thú lắc lư cái đuôi, phát ra âm thanh ư ử như đang niệm kinh.
Tiểu Hỉ Thước ghen tuông cực độ, xông lên phía trước, biến thành hình người, cướp lấy mèo hoa trong tay y rồi ném nó ra ngoài cửa, hung dữ nói: “Không cho ngươi vào đây nữa!”
Mèo vốn là thiên địch* của chim, nhưng con mèo hoa này không thành tinh, bị nàng dọa chạy vào rừng cây không thấy bóng dáng đâu nữa.
(*thiên địch: kẻ thù trong tự nhiên.)
Vẻ mặt Tiểu Hỉ Thước lúc này mới hòa hoãn, trở lại trong phòng, Lữ Minh Hồ lại nhắm mắt, thản nhiên nói: “Ngươi tới đây làm gì?”
Dường như y chẳng mấy vui vẻ, có lẽ là bởi vì tối hôm qua nàng không đến tìm y. Lữ Đại ngẫm nghĩ, tròng mắt đảo quanh, lấy ra ba nén hương rồi coi y như tượng thần mà vái ba lạy, cắm ở trên lư hương trước mặt y, cười tủm tỉm nói: “Ta tới đốt nén hương đầu tiên cho thiên quân.”
Lữ Minh Hồ mở mắt ra, nhìn nàng, nói: “Ngươi đúng là rất thành tâm.”
Trong lời nói có ý châm chọc như cây kim, Lữ Đại nghe ra, mặt dày nói: “Đây là điều tất nhiên, nhìn ra Cửu Châu Tứ Hải, Bát Hoang Lục Hợp, bay trên trời, bơi dưới nước, đi trên mặt đất, không có ai chân thành với Minh Hồ hơn ta.”
Lữ Minh Hồ không nói gì, muốn chế nhạo nhưng lại nhịn xuống.
Lữ Đại rót chén trà, hai tay dâng lên cho y, ngồi ở bên cạnh y, nói: “Minh Hồ đến Kê Minh Tự làm gì vậy?”
Lữ Minh Hồ uống một ngụm trà: “Ngày trước ta ở Hạc Trì Sơn bắt được một con cự mãng ăn thịt người, nó có một cây Hàng Ma Xử*, sư phụ nhận ra đây là đồ của Kê Minh Tự. Qua tra khảo, cự mãng kia khai ra, Hàng Ma Xử có được là do nó giết đệ tử của Huyền Tương Đại Sư. Sư phụ bảo ta áp giải nó đến Kê Minh Tự, giao cho Huyền Tương Đại Sư xử trí.”
(*Hàng Ma Xử: còn gọi là Phạm Lâm Phổ Ba Xử, một đầu là kim cương, một đầu khác là chày sắt hình tam giác, đoạn giữa có ba tượng phật, một tượng cười, một tượng giận, một tượng mắng chửi. Là pháp khí thông thường để hàng phục ma quỷ.)
Lữ Đại hỏi: “Vậy Trâu Y Nhân thì thế nào?”
Lữ Minh Hồ đáp: “Hắn ở lại dương gian làm xằng làm bậy, tất nhiên phải đến Địa phủ nhận phạt.”
Lữ Đại thở dài: “Mấy ngày nữa ta muốn đến Thiên Sơn.”
Lữ Minh Hồ nhìn nàng với ánh mắt khó hiểu: “Đến Thiên Sơn làm gì?”
Lữ Đại kể chuyện của Bạch Diệc Nan và Quế Nương cho y nghe, y vuốt chén trà, trong mắt không có chút gợn sóng nào. Đối với y, câu chuyện như vậy cũng chỉ là một điều bình thường.
Lữ Đại hạ thấp người nằm lên đầu gối y, vẻ mặt có chút sầu não: “Mặc dù Quế Nương là nữ tử kia chuyển thế, tính ra cũng không có quan hệ gì với hắn, thế nhưng hắn lại sẵn lòng dùng tu vi của mình để cứu nàng. Ta muốn khuyên hắn chớ có như thế, nhưng biết không khuyên nổi.”
Lữ Minh Hồ nói: “Nếu như Giang Bình chuyển thế cũng có bệnh bất trị, ngươi có bằng lòng bỏ tu vi để cứu hắn không?”
Lữ Đại nghiêm túc suy nghĩ: “Ta không biết, nhưng nếu là Minh Hồ chuyển thế, dù là muốn mạng của ta thì ta cũng không tiếc.”
Lữ Minh Hồ không phải tình lang của nàng, cho nên đây không phải lời tâm tình mà là lời nói thật, vĩnh viễn không mất đi hiệu lực.
Nàng có thể sống lâu như vậy, từ một con Tiểu Hỉ Thước ngây thơ vô tri biến thành một hình hài biết sướng vui giận buồn, yêu hận dục cầu, đều là bởi vì y. Đối với nàng, cho dù chỉ có một sợi thần hồn chuyển thế của y, nàng cũng nguyện ý dốc hết tất cả.
Mặt trời đỏ lên cao, sương mù âm u tích tụ một đêm tan hết trong ánh mặt trời, núi rừng xanh um, hoa tươi nở rộ.
Lữ Minh Hồ vuốt v e đầu nàng, ánh mắt dịu dàng: “Ai thèm cái mạng nhỏ này của ngươi chứ.”
Trong vòng ba trăm năm cứ đau khổ tìm kiếm một người chuyển thế, hết lần này đến lần khác lấy thân phận một người xa lạ xuất hiện ở trước mặt nàng, quen biết đến tìm hiểu nhau rồi ly biệt vì cái chết, rốt cuộc là cảm giác gì? Ngay cả yêu như Lữ Đại cũng khó mà tưởng tượng được.
Nàng đã từng xem qua một cuốn thoại bản do phàm nhân viết, là 《Cửu thế tình duyên》, kể lại một hoa tinh nghiêng nước nghiêng thành kết duyên với một thư sinh đa sầu đa bệnh, còn chưa kịp cùng nhau tới Vu sơn thì thư sinh kia bị bệnh qua đời. Hoa tinh rất đau lòng, sau này cũng đi tìm thư sinh kia khi chuyển thế giống như Bạch Diệc Nan, mỗi một kiếp gặp nhau đều là tiếng sét ái tình, yêu nhau thắm thiết.
Cho đến kiếp thứ chín, cả hai phu thê đều phi thăng thành tiên, còn viên mãn hơn cả mặt trăng đêm Trung thu.
Lữ Đại xem xong cũng không thấy cảm động, thậm chí còn có chút buồn cười. Câu chuyện này được biên không chút hợp lý, đại thiên thế giới biến ảo vô cùng, lòng người hiểm ác đa đoan, tình ái càng không đơn giản, có thể ân ái đã là không dễ dàng, nếu quả thật cửu sinh cửu thế thì rõ là người si nói mộng.
Thế nhưng Bạch Diệc Nan yêu Quế Nương bảy kiếp, thứ tình cảm si mê này đang tồn tại ngay bên cạnh nàng, thật sự quá đáng tiếc.
Nàng ngồi ở trước gương chải đầu, Giang Bình đi tới, ngồi xuống chiếc ghế nhỏ ở bên cạnh nàng, nghịch mái tóc đen bóng như mực của nàng, thở dài nói: “Nếu biểu muội biết là tâm ý của lão Bạch, chắc chắn sẽ rất cảm động. Năm nay muội ấy tròn mười sáu, cũng vì bệnh nên vẫn chưa thành thân. Lão Bạch nói vị danh y kia có thể trị hết bệnh của nàng, cữu phụ mẫu lại muốn vội vàng thu xếp hôn sự cho nàng. Lấy bối cảnh của lão Bạch thì hôn sự này chắc hẳn sẽ thành, nhưng ta thấy hắn không muốn tiếp tục nữa.”
Lữ Đại nghĩ, có lẽ không phải y không muốn tiếp tục, mà là mất đi nhiều tu vi như vậy thì không có cách nào tiếp tục được nữa.
Nàng nói: “Dây dưa đã nhiều năm, có lẽ ông chủ Bạch cũng mệt mỏi rồi.”
Giang Bình khẽ gật đầu: “Nhìn dáng vẻ của hắn, chắc hẳn kiếp trước đã cùng biểu muội tan rã trong không vui. Chuyện này cũng không thể tránh được, dù sao qua một kiếp nàng lại quên hắn, làm sao có thể luôn luôn vui vẻ được.”
Hắn nắm chặt bàn tay của Lữ Đại rồi áp lên má, mắt nhìn nàng chăm chú: “Dù vậy, nếu ta là yêu thì vẫn không kìm được mà đi tìm nương tử chuyển thế.”
Hắn nói chuyện nghiêm túc như vậy, trong lòng Lữ Đại lại thấy ngọt ngào, nàng cười nói: “Nếu như ta là yêu, ta cũng sẽ đi tìm lang quân chuyển thế.”
Giang Bình nói: “Ta lại không muốn nàng tìm ta. Ta không thể chọn lựa vận mệnh cho kiếp sau, có lẽ sẽ rất xấu, rất nghèo, thay vì để nàng ghét bỏ thì nên dừng ở kiếp này thôi.”
Lữ Đại kinh ngạc nhìn hắn, trong lồ ng ngực như có một dòng nước ấm dâng trào, lướt qua cổ họng, nàng kìm lòng không được mở miệng, dịu dàng nói: “Mặc kệ chàng biến thành thế nào, ta cũng sẽ không ghét bỏ.”
Tuy rằng tương lai không thể giữ vẹn lời thề, nhưng vào giờ này khắc này, đối diện với một người anh tuấn như hắn, đây là lời nói chân thành từ tận đáy lòng của nàng.
Mấy lời tâm tình chẳng phải đều như thế sao? Lúc thốt ra khỏi miệng thì đâu có mấy người mang theo chân thành, quay đầu lại đã là hoàng lịch của năm sau*.
(*hoàng lịch năm sau: một thành ngữ Trung Quốc, có nghĩa là một cái gì đó lỗi thời hoặc kinh nghiệm cũ, không còn được áp dụng vào một hoàn cảnh mới. Xuất phát từ “Dã tẩu bộc ngôn”.)
Giang Bình hôn lên môi nàng, đôi môi hồng phớt vừa lau đi son phấn, cười dịu dàng nói: “Nhưng ta không nỡ để nàng chịu khổ.”
Ánh mắt Lữ Đại xao động, ôm lấy cổ của hắn, được hắn bế lên giường, hết sức lưu manh.
Hôm sau trời vừa sáng, Giang Bình đã viết thư xong, kêu gã sai vặt đưa đến Nghiêm gia ở Hàng Châu. Trên thư chỉ nói hắn có một vị bằng hữu lâu năm từng đi khắp giang hồ, quen biết một vị danh y của phủ Khai Phong, có thể trị bệnh cho Quế Nương.
Chờ hắn đi ra ngoài, Lữ Đại để lại người rơm ở đó, còn mình đến Kê Minh Tự.
Tiếng chuông từ tháp chuông cổ vang vọng trong gió, vô cùng trang nghiêm.
Đám người tranh nhau đốt hương đã tới, ngoài cửa núi xếp hàng từng chiếc kiệu, các chủ quán bán điểm tâm loay hoay bận rộn, quý nhân ngồi trong kiệu đương nhiên không ăn loại đồ ăn thô thiển này, nên phần lớn chỉ bán cho những người hầu và kiệu phu của họ.
Tiểu Hỉ Thước xuyên qua một mảng khói lửa, bay vào Bằng Hư Các, tấm ván gỗ lát thành hành lang không có một hạt bụi, hai con mèo trắng ngửa bụng lười biếng nằm ở đó.
Cửa sổ xung quanh đều mở rộng, Lữ Minh Hồ nhắm mắt ngồi thiền định trên chiếc giường trong phòng, bên cạnh đặt một cây phất trần, một con mèo hoa đứng trên mặt đất quơ móng vuốt, gảy râu dài rủ xuống.
Lò sưởi Thọ Sơn phun ra làn khói mỏng, qua lớp sương khói nhìn người như thật như ảo. Tiểu Hỉ Thước đứng trên bệ cửa sổ nhìn y ngây người, Lữ Minh Hồ mở mắt ra, nhưng không nhìn nàng, mà là cầm lấy phất trần, trêu đùa con mèo hoa kia.
Mèo hoa thấy y chơi đùa với mình thì rất vui vẻ, thả người nhảy lên đầu gối y, nịnh hót meo một tiếng.
Lữ Minh Hồ vuốt v e lưng của nó, nó thích thú lắc lư cái đuôi, phát ra âm thanh ư ử như đang niệm kinh.
Tiểu Hỉ Thước ghen tuông cực độ, xông lên phía trước, biến thành hình người, cướp lấy mèo hoa trong tay y rồi ném nó ra ngoài cửa, hung dữ nói: “Không cho ngươi vào đây nữa!”
Mèo vốn là thiên địch* của chim, nhưng con mèo hoa này không thành tinh, bị nàng dọa chạy vào rừng cây không thấy bóng dáng đâu nữa.
(*thiên địch: kẻ thù trong tự nhiên.)
Vẻ mặt Tiểu Hỉ Thước lúc này mới hòa hoãn, trở lại trong phòng, Lữ Minh Hồ lại nhắm mắt, thản nhiên nói: “Ngươi tới đây làm gì?”
Dường như y chẳng mấy vui vẻ, có lẽ là bởi vì tối hôm qua nàng không đến tìm y. Lữ Đại ngẫm nghĩ, tròng mắt đảo quanh, lấy ra ba nén hương rồi coi y như tượng thần mà vái ba lạy, cắm ở trên lư hương trước mặt y, cười tủm tỉm nói: “Ta tới đốt nén hương đầu tiên cho thiên quân.”
Lữ Minh Hồ mở mắt ra, nhìn nàng, nói: “Ngươi đúng là rất thành tâm.”
Trong lời nói có ý châm chọc như cây kim, Lữ Đại nghe ra, mặt dày nói: “Đây là điều tất nhiên, nhìn ra Cửu Châu Tứ Hải, Bát Hoang Lục Hợp, bay trên trời, bơi dưới nước, đi trên mặt đất, không có ai chân thành với Minh Hồ hơn ta.”
Lữ Minh Hồ không nói gì, muốn chế nhạo nhưng lại nhịn xuống.
Lữ Đại rót chén trà, hai tay dâng lên cho y, ngồi ở bên cạnh y, nói: “Minh Hồ đến Kê Minh Tự làm gì vậy?”
Lữ Minh Hồ uống một ngụm trà: “Ngày trước ta ở Hạc Trì Sơn bắt được một con cự mãng ăn thịt người, nó có một cây Hàng Ma Xử*, sư phụ nhận ra đây là đồ của Kê Minh Tự. Qua tra khảo, cự mãng kia khai ra, Hàng Ma Xử có được là do nó giết đệ tử của Huyền Tương Đại Sư. Sư phụ bảo ta áp giải nó đến Kê Minh Tự, giao cho Huyền Tương Đại Sư xử trí.”
(*Hàng Ma Xử: còn gọi là Phạm Lâm Phổ Ba Xử, một đầu là kim cương, một đầu khác là chày sắt hình tam giác, đoạn giữa có ba tượng phật, một tượng cười, một tượng giận, một tượng mắng chửi. Là pháp khí thông thường để hàng phục ma quỷ.)
Lữ Đại hỏi: “Vậy Trâu Y Nhân thì thế nào?”
Lữ Minh Hồ đáp: “Hắn ở lại dương gian làm xằng làm bậy, tất nhiên phải đến Địa phủ nhận phạt.”
Lữ Đại thở dài: “Mấy ngày nữa ta muốn đến Thiên Sơn.”
Lữ Minh Hồ nhìn nàng với ánh mắt khó hiểu: “Đến Thiên Sơn làm gì?”
Lữ Đại kể chuyện của Bạch Diệc Nan và Quế Nương cho y nghe, y vuốt chén trà, trong mắt không có chút gợn sóng nào. Đối với y, câu chuyện như vậy cũng chỉ là một điều bình thường.
Lữ Đại hạ thấp người nằm lên đầu gối y, vẻ mặt có chút sầu não: “Mặc dù Quế Nương là nữ tử kia chuyển thế, tính ra cũng không có quan hệ gì với hắn, thế nhưng hắn lại sẵn lòng dùng tu vi của mình để cứu nàng. Ta muốn khuyên hắn chớ có như thế, nhưng biết không khuyên nổi.”
Lữ Minh Hồ nói: “Nếu như Giang Bình chuyển thế cũng có bệnh bất trị, ngươi có bằng lòng bỏ tu vi để cứu hắn không?”
Lữ Đại nghiêm túc suy nghĩ: “Ta không biết, nhưng nếu là Minh Hồ chuyển thế, dù là muốn mạng của ta thì ta cũng không tiếc.”
Lữ Minh Hồ không phải tình lang của nàng, cho nên đây không phải lời tâm tình mà là lời nói thật, vĩnh viễn không mất đi hiệu lực.
Nàng có thể sống lâu như vậy, từ một con Tiểu Hỉ Thước ngây thơ vô tri biến thành một hình hài biết sướng vui giận buồn, yêu hận dục cầu, đều là bởi vì y. Đối với nàng, cho dù chỉ có một sợi thần hồn chuyển thế của y, nàng cũng nguyện ý dốc hết tất cả.
Mặt trời đỏ lên cao, sương mù âm u tích tụ một đêm tan hết trong ánh mặt trời, núi rừng xanh um, hoa tươi nở rộ.
Lữ Minh Hồ vuốt v e đầu nàng, ánh mắt dịu dàng: “Ai thèm cái mạng nhỏ này của ngươi chứ.”
Bình luận truyện