Trâm – Nữ Hoạn Quan
Chương 18: Ngọc nước xiêm gió
Chiều hôm ấy, trong
cung truyền tin ra, Vương hoàng hậu đau đớn vì tiểu muội trong họ qua
đời mà thành bệnh, được đưa tới cung Thái Cực tĩnh dưỡng. Mọi việc trong cung sẽ do Triệu thái phi và Quách thục phi xử lý thay.
“Từ khi Cao Tông và Võ hậu chuyển tới ở cung Đại Minh, cung Thái Cực vẫn bỏ không, chỉ để mấy vị thái phi lớn tuổi ở. Hiện giờ Vương hoàng hậu bị đưa tới cung Thái Cực sống một mình, nghe nói là vì cái chết của Vương Nhược không lành, nên hoàng hậu mới bị hoàng đế tống đi cách ly, cũng coi như đẩy vào lãnh cung.”
Lư Vân Trung Lư tiểu công công ở Quỳ vương phủ xưa nay luôn hứng thú với những chuyện thâm cung bí sử, hào hứng bình luận tình hình thiên hạ ngay giữa lúc các hoạn quan dùng bữa tối.
“Trên đời làm gì có chuyện hoàng hậu chuyển đến biệt cung chứ!”
“Hừm, ngươi đừng có nói, Hán Vũ Đế và Trần A Kiều chẳng phải tiền lệ đấy ư?”
“Theo ta thấy nhà họ Vương lần này gay go rồi!”
Hoàng Tử Hà thản nhiên dọn bát đũa rồi đứng dậy đem đến nhà bếp.
“Này này, Sùng Cổ, hôm ấy chẳng phải ngươi theo gia sang nhà họ Vương bái tế Vương Nhược cô nương đó ư? Ngươi mau kể xem, nghe nói hôm ấy hoàng hậu khóc lóc tóc tai rũ rượi, mặt mày tái nhợt, có đúng không?”
Hoàng Tử Hà à một tiếng, thong thả nói, “Đúng thế, hoàng hậu điện hạ rất đau lòng.”
“Nghe nói ngươi còn đeo vòng cho các xác ở linh đường hả? Ôi chao… đúng là khiến chúng ta phục sát đất đấy!”
“Ừm.” Phớt lờ ánh mắt kính sợ của mọi người, Hoàng Tử Hà thờ ơ gật đầu, rồi đột nhiên nhớ ra một chuyện, “Gia nhân nhà họ Vương có nói gì khác không? Lời đồn trong kinh thế nào?”
“Không có gì, chẳng phải vụ này do ngươi phá ư? Hai a đầu của Vương cô nương câu kết với dư đảng Bàng Huân, hại chết cô ấy. y, người ta chẳng đồn là ngươi phá vụ này đó à? Kể lại tỉ mỉ tình tiết cho chúng ta nghe mau!”
“… Đại khái là thế, có gì để kể đâu.” Nói đoạn cô bưng bát đũa hối hả quay đầu đi thẳng. Nực cười, cô đâu phải thần tiên, làm sao trong nháy mắt bịa ra được câu chuyện Nhàn Vân Nhiễm Vân giết hại Vương Nhược chứ?
Hoàng Tử Hà đưa bát đũa đến nhà bếp, vừa bước ra, đã bị đám gác cửa gọi lại.
Đại hoạn quan Trường Khánh của hoàng hậu muốn gặp.
Tuy đã lưu lạc đến tận cung Thái Cực, Trường Khánh vẫn giữ nguyên tư thế của một đại hoạn quan hạng nhất hạng nhì trong cung, cằm hơi hếch, nhìn người bằng hai lỗ mũi, “Dương công công, hoàng hậu điện hạ triệu kiến, nói rằng có người muốn trò chuyện với ngươi.”
“Ồ, vâng, xin công công đợi cho một lát.” Hoàng Tử Hà không dám chậm trễ, vội chạy về phòng thay đồ, đi được nửa đường, cô dừng bước nghỉ ngợi, cuối cũng vẫn rẽ vào báo với Lý Thư Bạch một tiếng.
Tiết trời đang nóng dần lên, dạo này Lý Thư Bạch thường ở đình Chẩm Lưu cạnh hồ Lâm.
Lúc Hoàng Tử Hà đến, y đang ngồi một mình nhìn ra hồ. Lá sen cao thấp xòe trên mặt nước, ánh đèn lồng mới thắp tỏa ra mờ ảo, làm mặt lá như đọng tuyết hay khói mỏng.
Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.
Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.
Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.
Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.
Hoàng Tử Hà thoáng do dự, song tính ra thì vẫn phải trông vào y để được phát lương, bèn chạy đến.
“Sắp tối rồi, định đi đâu đấy?”
“Hoàng hậu phái Trường Khánh tới triệu kiến tôi, nói có người muốn gặp.”
“Ồ.” Lý Thư Bạch bình thản đáp, đoạn xua tay ý bảo cô đi. Song khi cô vừa quay người, chợt thấy bị đá mạnh vào khoeo, tức thì chân phải tê dại rồi xiêu đi, cả người mất thăng bằng, ùm một tiếng, ngã lộn đầu xuống hồ sen.
May sao hồ sen không sâu, Hoàng Tử Hà lại biết bơi, cô vùng vẫy bò dậy, đứng giữa đống lá sen ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, hậm hực hỏi, “Tại sao?”
Y chẳng nói chẳng rằng, chỉ khoanh tay đứng trên bờ nhìn cô.
Hoàng Tử Hà hằm hằm vuốt gương mặt nhớp nháp bùn lẫn nước, giẫm vào mấy phiến đá Thái Hồ bên bờ trèo lên, vừa vắt ống tay áo tong tỏng nước vừa cáu kỉnh, “Vương gia có ý gì vậy? Thế này thì tôi phải tắm rửa thay đồ mới vào cung được, lại dằng dai lâu quá…”
Chưa nói dứt câu, cô liếc thấy vạt áo Lý Thư Bạch lay động, lập tức nhảy sang bên cạnh, chuẩn bị né cú đá của y, nào ngờ cú đá này Lý Thư Bạch lại quét ngang, nhảy sang bên cũng chẳng tránh được, lại bị đá ngã xuống hồ.
Mặt hồ sóng sánh, bọt nước bắn tung tóe rồi đổ rào rào xuống những lá sen quanh đó, lá sen đọng nước lay động dập dềnh bên người cô, khắp hồ loang loáng ánh nước, tạo thành vô vàn đốm sáng cứ chập rồi tách trước mắt Hoàng Tử Hà.
Lý Thư Bạch đứng trên bờ, tủm tỉm cười, gió đêm lùa vào tà áo lụa mỏng xanh biếc một màu trời nước, toát ra khí chất cao quý thanh nhã thực khiến người ta mê mẩn.
Song Hoàng Tử Hà chỉ thấy kẻ này hiểm ác vô cùng. Cô đứng giữa làn nước đục ngầu, bên đám lá sen rách nát, quên cả gỡ những rong rêu thủy tảo dính trên mặt trên đầu, lóp ngóp lội vào bờ, song không trèo lên mà ngẩng đầu trừng mắt nhìn y, “Tại sao?”
Lý Thư Bạch khom người nhìn cô, tựa hồ hết sức thích thú trước bộ dạng lôi thôi lếch thếch này, nét cười hiếm hoi lồ lộ nơi khóe mắt, “Tại sao cái gì?”
“Hết lần này đến lần khác đá tôi xuống nước, vui lắm sao?”
“Vui chứ.” Lý Thư Bạch trơ tráo gật đầu, “Vụ án hóc búa bao nhiêu ngày, hôm nay lại được phá giải trong một buổi sáng, đương nhiên phải tìm vài trò giải trí.”
Hoàng Tử Hà thấy mình sắp nổ tung vì tức giận, “Trò giải trí của vương gia là nhìn tôi ngã xuống nước hai lần ư?”
Lý Thư Bạch thu lại nụ cười, “Dĩ nhiên không phải.”
Đoạn y ngoắc ngoắc tay, ra hiệu cho cô leo lên. Hoàng Tử Hà thở hồng hộc vịn vào phiến đá Thái Hồ, trèo lên bờ lần nữa, còn chưa kịp mở miệng, thậm chí chưa kịp đứng vững đã nghe tiếng gió bên tai, cô chỉ thấy cảnh vật trước mắt bỗng đảo lộn cả lên, thân hình chợt lạnh buốt, bên tai vang lên tiếng rơi tõm xuống nước và tiếng bọt nước bắn tung tóe, cùng tiếng hét vô thức của mình – cô biết, mình lại một lần nữa rơi xuống hồ.
“Phải ba lần mới đã.”
Hoàng Tử Hà giận điên người, gắng lắm mới tóm được đám lá sen mà đứng dậy, rút chiếc khăn tay lõng bõng nước lẫn bùn lau qua bùn dính trên mặt, lườm y một cái rồi chẳng nói chẳng rằng, bước thấp bước cao quay sang bờ bên kia hồ sen, rồi theo bậc thềm đi lên.
Tiết trời đầu hạ vẫn còn hơi se se khiến cô rùng cả mình, tự biết phải mau mau về tắm nước nóng, bằng không ắt sẽ cảm lạnh.
Liếc thấy Lý Thư Bạch đang men theo bờ hồ tiến lại phía mình, song lúc này cô vừa giận vừa uất, bèn lờ đi coi như không thấy, quay ngoắt người rảo bước đi thẳng.
Giọng nói chậm rãi của y vang lên, “Nhàn Vân và Nhiễm Vân đã chết rồi.”
Bước chân cô liền khựng lại, ngây người một thoáng rồi quay phắt lại nhìn y.
Lý Thư Bạch đứng phía sau cô, vẫn bình tĩnh như thường.
“Bởi thế, một tiểu hoạn quan như ngươi hôm nay có mất tích trong cung Thái Cực thì cũng chỉ như một hạt bụi, khẽ thổi là bay thôi.”
Hoàng Tử Hà đứng đờ ra trước hồ sen, gió mang theo hơi nước thổi tới, khiến cô thấy hơi lạnh thấm dần vào người. Cô không nhìn y nữa, chỉ cúi đầu bất động nhìn những chiếc lọng xanh lô nhô cao thấp dưới hồ.
“Cảnh Dục.” Lý Thư Bạch cao giọng gọi.
Cảnh Dục từ bên ngoài khung cửa tròn bước vào, thấy Hoàng Tử Hà bê bết bùn, nước rỏ tong tỏng, không khỏi kinh ngạc liếc mắt nhìn, “Vương gia.”
“Đi nói với Trường Khánh rằng Dương Sùng Cổ sẩy chân rơi xuống nước, giờ tối rồi, e rằng chỉnh trang xong thì đã quá muộn, không tiện quấy rầy hoàng hậu.”
Cảnh Dục vâng dạ, lập tức đi khỏi.
Hoàng Tử Hà cắn môi hỏi, “Vậy còn mai?”
“Mai ấy hả? Ngươi sẩy chân rơi xuống nước, lẽ nào lại không cảm mạo” Chẳng lẽ còn có thể vào cung để lây cho hoàng hậu hay sao?” Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Đợi ngươi bình phục hẳn cũng phải mất một hai tháng, đến lúc đó hoàng thượng hoàng hậu cũng biết ngươi là kẻ giữ miệng kín như bưng, hẳn lòng nghi ngại sẽ giảm đi.”
Hoàng Tử Hà ấp úng hồi lâu mới ngượng ngập nói, “Đa tạ vương gia.”
Dứt lời, cô thấy lòng thê lương khôn tả. Thói đời thật trớ trêu, tên khốn đá mình rớt xuống nước đến ba lần, vậy mà mình còn phải cung kính cảm tạ y.
Lý Thư Bạch nhìn bộ dạng lướt thướt thảm hại của Hoàng Tử Hà,không nhịn được buột thốt, “Ngươi…”
Hoàng Tử Hà ngước lên, đợi y căn dặn.
Song y khựng lại một khắc rồi quay đầu nhìn những lá sen trên hồ, giơ tay ra hiệu cho cô lui xuống.
Hoàng Tử Hà như trút được gánh nặng, vội khom người hành lễ lui ra.
Cả người ướt sũng, cô lần đến nhà bếp xách hai thùng nước nóng, tắm rửa sạch sẽ rồi lau qua quýt mái tóc vừa gội, đổ vật người xuống giường.
Thời gian này phải liên tục chạy Đông chạy Tây, lúc nào cũng canh cánh trong lòng về vụ án, quả thực mệt mỏi vô cùng. Bởi vậy vừa nằm xuống kê đầu lên gối, cô liền ngủ thiếp đi.
Chẳng biết ngủ mất bao lâu, cô chợt nghe tiếng gõ cửa khe khẽ.
Thói quen cảnh giác hình thành trong mấy tháng bôn ba lặn lội khiến cô mở bừng mắt, nhỏm dậy nhìn quanh phòng, chỉ thấy tối như bưng, hẳn là đêm đã khuya lắm.
Cô khoác áo trở dậy mở cửa, thấy Lý Thư Bạch đứng ngay trước cửa, tay trái cầm một ngọn đèn, tay phải xách một hộp cơm nhỏ. Dưới ánh đèn vàng cam ấm áp, gương mặt hoàn mỹ lạnh lùng bỗng như êm dịu hơn.
Thấy cô sững người, y cũng chẳng buồn để ý, chỉ đặt hộp cơm lên bàn, “Cũng tốt, khỏi cần ta phải gọi.”
Tuy kinh ngạc đến sững sờ, song đó chỉ là phản ứng vô thức của cơ thể, thực ra Hoàng Tử Hà vẫn chưa tỉnh hắn, cô mơ màng nhìn y, vội vã buộc túm mái tóc rối bù vì vừa ngủ dậy lại, nhìn ra sắc trời tối đen bên ngoài hỏi, “Giờ là lúc nào rồi?”
“Giờ Tý hai khắc.” Y mở hộp cơm, lấy một chén gì đó nâu sẫm đưa tới trước mặt cô, “Canh gừng, uống đi.”
Cô giương đôi mắt kèm nhèm cau mày nhìn y hồi lâu, cuối cùng mới nhận ra một điểm phi lý, “Quỳ vương gia, nửa đêm canh ba đích thân đến tìm tôi… Chỉ để đưa một bát canh gừng?”
“Dĩ nhiên không phải.” Y đáp, quay ngay người bước ra ngoài, tiện tay khép cửa lại, “Mặc quần áo vào đi, có người đến thăm đấy.”
Người có thể khiến Quỳ vương gia nửa đêm canh ba đích thân tới gọi Hoàng Tử Hà, đương nhiên không phải hạng tầm thường.
Mỹ nhân dưới đèn, đẹp như đào mận.
Thiếu nữ vận trang phục cung nữ thông thường đứng trước mặt họ. Tiếc rằng đóa hoa tươi thắm ngày nào nay đã bị ăn mòn bởi đau buồn và sầu thảm. Nàng ngẩng lên nhìn họ, bên mai còn cài cây trâm sương lá, lấp lánh dưới ánh đèn.
Vương Nhược. Hay nói cách khác, là Tiểu Thi.
Hoàng Tử Hà nhất thời ngẩn ra. Tiểu Thi lẳng lặng gập người xuống bái chào họ, xiêm y mềm mại sẽ quét trên mặt đất, âm thầm như một đóa hoa lìa cành chẳng cần gió thổi.
“Tiểu Thi cảm tạ ơn cứu mạng năm xưa của vương gia.”
Lý Thư Bạch chỉ gật đầu.
Tiểu Thi cứ quỳ dưới đất không đứng lên, nhìn y bằng cặp mắt trầm tĩnh mà bi ai, trong đôi mắt ấy như cuộn trào muôn niềm ngàn ý, song chẳng thốt nổi nửa lời.
Mãi một lúc lâu sau, nàng mới cất giọng khàn khàn, “Tôi bấy lâu nay vẫn ở trong cung Thái Cực… Nơi đó bị bỏ hoang, gần như không có người ngoai lai vãng, càng không ai biết tôi là ai. Mãi cho đến hôm nay, hoàng hậu tới bảo tôi rằng, nếu không phải tại tôi thì Tuyết Sắc đã không chết.”
Tiểu Thi buồn rầu nói, cúi đầu quỳ dưới đất, câm lặng đến mức gần như không hít thở.
Hoàng Tử Hà chậm rãi nói, “Tất cả đều do trời xui đất khiến, cái chết của Tuyết Sắc… không thể coi là tại cô được.”
Gương mặt tái trắng của Tiểu Thi đã chẳng còn sắc hồng điểm xuyết, thay vào đó là vẻ nhợt nhạt lạnh băng. Nàng nhìn cô bằng ánh mắt yếu ớt, không có mảy may sinh khí, “Nhưng tôi thấy hoàng hậu điện hạ nói phải, nếu không có tôi, Tuyết Sắc sẽ không chết…”
Hoàng Tử Hà phản bác, “Nhưng nếu không có cô, ba năm trước Tuyết Sắc đã không còn trên đời nữa rồi.”
Nghe vậy, Tiểu Thi cũng chẳng tỏ vẻ nhẹ nhõm hơn, trái lại càng cúi gằm đầu, cuối cùng gần như phủ phục xuống đất. Áp trán lên mu bàn tay đặt trên mặt đất, giọng nàng nghèn nghẹn, “Nếu không có Tuyết Sắc, tôi đã không còn trên đời này nữa rồi. Trong đám loạn quân, chúng tôi nương tựa vào nhau, rồi cùng đến Dương Châu, đến Bồ Châu. Lan Đại cô cô coi chúng tôi như con ruột, tôi cũng cùng Tuyết Sắc theo cô học đàn học múa. Tuy học hành chẳng tới đâu, song ba năm nay, chúng tôi sống rất hạnh phúc, nếu… nếu Phùng nương không xuất hiện, thì đến tận bây giờ, cũng vẫn rất hạnh phúc…”
Lý Thư Bạch vẫn hững hờ.
“Hôm nay hoàng hậu nổi giận nhiếc móc, nói tôi tham luyến hư vinh, vọng tưởng thay thế Tuyết Sắc, đến nỗi gây sai lầm. Nhưng thực ra, tôi và Tuyết Sắc không hề biết thân phận hiện giờ của bà ấy, ngay cả Phùng nương lúc đến đón chúng tôi cũng không hay biết…” Tiểu Thi bưng mặt run run nói, nước mắt ứa ra lăn dài qua kẽ tay nhỏ xuống, không sao ngăn nổi. “Bấy giờ cả nhà Lan Đại cô cô đã đi Trương Dịch… Tuyết Sắc nghe người canh cửa chuyển lời rằng mẹ cô ấy nhờ người tới đón lên kinh hứa hôn, bèn bàn bạc với tôi, nói hiện giờ không muốn gả chồng. Huống hồ năm xưa mẹ cô ấy tham luyến vinh hoa, vứt bỏ hai cha con, cha cô ấy vì thế mà đau buồn thành bệnh, mới ngoài ba mươi đã qua đời. Bởi vậy cô ấy không muốn gặp lại mẹ! Song tôi khuyên rằng, hiện giờ chúng tôi ở chung với Lan Đại cô cô, tuy cô cô nhiệt tình giúp đỡ, nhưng xuất thân của chúng tôi như vậy, muốn tìm tấm chồng tử tế cũng chẳng dễ dàng gì. Nếu mẹ có thể kiếm cho cô ấy một đám tử tế, thì cũng tốt… Nào ngờ Tuyết Sắc nắm lấy tay tôi nói, ‘Hay là thế này, dù sao mẹ đã vứt bỏ muội từ năm năm tuổi, Phùng nương cũng chỉ gặp chúng ta ở Dương Châu một lần từ hồi mười ba mười bốn, bấy giờ mới từ Từ Châu đến, mặt mày lấm lem đất cát, ai biết mặt chúng ta bây giờ đâu. Tỷ cứ nhận là muội, theo Phùng nương lên kinh, nếu quả có đám tốt, tỷ được gả vào nhà tử tế thì thực may mắn.’ Sau đó… Sau đó… Sau đó cô ấy rút bên người ra thoi bạc năm xưa Quỳ vương gia cho chúng tôi, chặt làm đôi rồi đưa tôi một nửa nói, ‘Lấy vật này làm chứng, hy vọng tỷ lên kinh có thể nghe ngóng giúp muội tin tức về người đó, xem hiện nay y đang ở đâu. Ba năm rồi, sao y không cầm cây trâm tới tìm muội? Dù y đến Dương Châu, người của Vân Thiều Uyển cũng sẽ báo với y Lan Đại cô cô đang ở Bồ Châu mà…’ Bấy giờ tôi rất muốn nói với cô ấy rằng, cây trâm đó đã bị đối phương vứt bỏ ngay khi cô ấy vừa quay đầu đi rồi. Tôi âm thầm cất giữ giúp cô ấy suốt ba năm nay, định khi nào cô ấy xuất giá mới trả lại. Song tôi biết nếu nói vậy, nhất định Tuyết Sắc sẽ rất đau khổ nên lại nghĩ, hay khoan nói vội, cứ đem đến kinh thành rồi trao trả cho mẹ cô ấy.”
Nói đến đây, Tiểu Thi thẫn thờ hồi lâu mới cắn môi kể tiếp, “Sau đó, tôi đến nhà họ Vương, vừa gặp hoàng hậu, tôi đã biết hai đứa gây ra sai lầm lớn mất rồi. Chúng tôi đâu ngờ mẹ cô ấy giờ đây đã đứng trên muôn người, cứ tưởng… cứ tưởng bà ấy chẳng qua tái giá với một nhà buôn hoặc một viên quan nhỏ mà thôi. Nhưng, nhưng mà tôi không dám mở miệng! Sau khi đã biết thân phận bà ấy, biết được câu chuyện thâm cung bí sử liên quan rất nhiều người này, nếu tôi lại nói mình không phải Tuyết Sắc, há chẳng phải tự tìm đường chết? Tôi dâng lên hoàng hậu cây trâm sương lá, bà ta càng không nghi ngờ thân phận của tôi, bèn tiết lộ với tôi rằng Quỳ vương đang tuyển phi, mà trong nhà họ Vương hiện giờ không có cô gái nào xuất sắc, bảo tôi có thể dùng thân phận con gái chi thứ tư đi ứng tuyển. Bấy giờ tôi còn mừng thầm, nghĩ rằng nếu trở thành vương phi, cố nhiên vinh hoa phú quý hưởng không hết, nhất định có thể nhờ thế lực vương phủ tìm kiếm ân nhân của chúng tôi, cũng chính là người trong lòng Tuyết Sắc. Nhưng, nhưng khi tôi được dẫn vào nội điện, trông thấy Quỳ vương gia…”
Môi Tiểu Thi run bần bật, cổ họng nghẹn lại, hồi lâu không thốt nên lời. Mãi về sau, nàng mới ngưng bặt thổn thức, “Tôi đã biết rằng ý trời trêu ngươi, mọi sự đều hỏng cả rồi.”
Giọng nói khó nhọc đó, giữa đêm khuya thanh vắng, nghe càng thêm thảm thiết. Gió đêm chợt mạnh hẳn lên, ánh đèn lồng chênh chao dữ dội, loang ra từng lớp trên mặt nàng, khiến gương mặt bỗng méo mó đầy quái dị, khiến người ta kinh hãi.
“Tôi không thể nói ra bí mật giấu trong lòng, bởi thế đêm nào cũng gặp ác mộng, thấy cái kẻ cướp đoạt người yêu của Tuyết Sắc như mình không được chết yên lành… Song tôi lại không cách nào kìm được suy nghĩ xấu xa, ảo tưởng một ngày mình bay lên cành cao, trở thành Quỳ vương phi được người người ngưỡng mộ…” Nàng quỳ rạp trên mặt đất, móng tay bấu vào nền gạch gãy nứt cả ra, nhưng dường như chẳng hề đau đớn, “Tôi cũng từng nghĩ, sau khi về Quỳ vương phủ, chỉ cần không để Tuyết Sắc chạm mặt Quỳ vương là được, tôi nhất định sẽ tìm cho cô ấy một người đàn ông tốt nhất dưới gầm trời này…”
Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Thư Bạch, thấy y chỉ mải ngắm chiếc đèn lồng xoay tròn trong gió, gương mặt trơ trơ không lộ vẻ gì.
Bất giác cô thầm nghĩ, lãng phí bao nhiêu giày vò đau đớn và quyến luyến vào một gã đàn ông hoàn toàn không có mảy may cảm giác với mình, rốt cuộc có ý nghĩa gì chăng?
Giống như ngọn đèn lúc xa lúc gần trong khu vườn này vậy, dẫu huy hoàng xán lạn đến đâu, cũng chẳng ai biết nó từng phủ bóng xuống đóa hoa mỹ lệ nào giữa đêm khuya ấy?
“Mấy ngày đó tôi ăn không ngon ngủ không yên, cuối cùng vô tình tiết lộ bí mật trong lúc gặp ác mộng, chẳng rõ Phùng nương đã phát hiện thực hay chưa, song bà ấy ắt sinh nghi. Tôi biết một khi chuyện này lộ ra, thì cái mạng của tôi… hẳn sẽ mất ở Trường An. Đúng lúc này hoàng hậu lại âm thầm cử người đến hỏi tôi thấy Phùng nương có đáng tin cậy hay không. Tôi… tôi cũng chẳng rõ ma xui quỷ khiến thế nào, lại lắc đầu…”
Quả nhiên là hoàng hậu sai người hạ độc, giết chết Phùng Ức Nương, rồi ném xác vào giữa đám dân lưu vong U Châu, ngụy trang thành chết vì dịch bệnh.
“Sau đó hoàng hậu giúp cô hạ độc Phùng Ức Nương và xử lý thi thể hả?”
Tiểu Thi khóc đến gần như ngất lịm, nói không nên lời, chỉ có thể miễn cưỡng gật gật đầu.
Hoàng Tử Hà thầm thở dài, bước đến đỡ Tiểu Thi đang khóc lóc dưới đất dậy, khẽ an ủi, “Cô đứng dậy đi, hoàng hậu điện hạ giữ lại mạng cho cô là may mắn lắm rồi.”
Lý Thư Bạch lúc này mới lên tiếng hỏi, “Bà ta bảo ngươi về sau phải tự xử thế nào?”
Tiểu Thi mở tay nải bên cạnh, run rẩy nhấc ra một chiếc hũ nhỏ. Nàng ôm nó vào lòng, vuốt ve hồi lâu mới ngẩng lên nhìn họ, “Đây là tro cốt của Tuyết Sắc, tôi muốn đưa cô ấy về Liễu Châu, chôn cất bên cạnh cha cô ấy. Từ nay về sau, tôi sẽ giữ mộ cho cô ấy đến chết, ngày ngày chăm sóc, mãi không chia lìa.”
Hoàng Tử Hà đứng trước mặt nàng, nhìn những sợi tóc mai xổ ra bên má, lay động trong làn gió từ ngoài cửa lùa vào, tựa cánh lục bình không ràng không rễ, chẳng quay lại được đường cũ, cũng chẳng tìm thấy nẻo sau.
Lý Thư Bạch rút trong ngăn kéo ra hai thoi bạc đặt xuống trước mặt nàng, “Cầm lấy đi.”
Tiểu Thi nhìn hai thoi bạc gần bằng nhau, đáp khẽ, “Tuyết Sắc thường nói với tôi, nếu có một ngày gặp được gia, khi gia rút cây trâm ra, cô ấy sẽ lấy ra thoi bạc này, đây cũng coi như… tín vật định tình của hai người. Lúc ở trong điện Ung Thuần, tôi biết mình chẳng còn cách nào ở bên cạnh vương gia nữa, ngay cả Tuyết Sắc e rằng cũng… mãi mãi không thể. Bởi thế tôi mới bỏ lại nó ở đó, nghĩ rằng nếu gia thực sự còn nhớ chúng tôi thì khi trông thấy, có lẽ sẽ láng máng có ấn tượng…”
Hoàng Tử Hà thở dài, cầm nửa thoi còn lại lên nói, “Còn nửa thoi này, là do cô gái đến ngoại giáo phường để lại, cũng chính là thứ chứng minh thân phận Tuyết Sắc. Có lẽ tôi đến chỉ sau khi cô ấy bị tập kích trong gian nhà đó không lâu, cách một khắc ngắn ngủi, vậy mà cuối cùng vẫn để lỡ mất.”
“Tất cả đều là số mệnh.” Tiểu Thi cầm thoi bạc lẩm bẩm, “Là số mệnh của cô ấy, là số mệnh của tôi, cũng là số mệnh đã định sẵn từ mười hai năm trước.”
Chỉ vì một người con gái thay đổi vận mệnh của mình, bắt đầu rời khỏi quỹ đạo cuộc đời, làm biến đổi số mệnh biết bao nhiêu người.
Sau khi tiễn Tiểu Thi, Hoàng Tử Hà cứ thế đứng nhìn theo cỗ xe cung đình lặng lẽ chạy về phía ngoại ô thành Trường An, băng qua đêm khuya vắng lạnh vì lệnh giới nghiêm, đi về phía một tương lai xa xăm không sao biết được.
Vừa quay người vào cổng phủ, cô phát hiện Vĩnh Tế và Trường Khánh vốn đưa Tiểu Thi đến đang đứng chắn ngang đường, làm động tác mời cô lên xe, “Dương công công, hoàng hậu có lệnh, bất kể đêm khuya đến đâu, bất kể công công đang làm gì, bất kể có rơi xuống nước nhiễm lạnh thật không, cũng phải vào cung yết kiến.”
Đến rồi, đây hẳn là điềm sắp ra tay.
Hoàng hậu biết rõ là nếu Tiểu Thi, kẻ giữ vai trò mấu chốt trong vụ án đến xin gặp, cô mất định sẽ ra mặt, bởi thế bèn cho người phục sẵn ở đây!
Cô nhăn mặt, vô thức nhìn về phía Lý Thư Bạch.
Lý Thư Bạch thản nhiên gật đầu, ý bảo cô cứ đi theo họ.
Hoàng Tử Hà tròn xoe mắt, nín lặng nhìn y, dùng ánh mắt kêu gào: Hoàng hậu muốn làm tôi biến mất khỏi cõi đời đó!
Y chỉ đáp lại bằng ánh mắt “yên tâm, bình tĩnh”, khiến Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao. Cuộc đời bất hạnh, tình người ấm lạnh, kẻ vừa được cô giúp giải quyết một vụ án hóc búa, sao hiện giờ lại qua cầu rút ván, trơ mắt nhìn hoàng hậu ra tay với cô chứ?
Vĩnh Tế và Trường Khánh vẫn đang nhìn cô chòng chọc. Cô đành gồng mình quay ra.
Lúc đi ngang qua Lý Thư Bạch, cô nghe thấy y nói nhỏ, “Thân phận thật.”
Hả? Hoàng Tử Hà cứ ngỡ mình nghe lầm, vội quay sang nhìn y, song y vẫn thản nhiên như không, thậm chí chẳng buồn nhìn cô thêm nữa, chỉ hờ hững buông một câu, “Đêm khuya đường xa, cẩn thận nhiễm lạnh.”
Thân phận thật?
Là ý gì?
Hoàng Tử Hà theo đám người rời vương phủ, cùng Vĩnh Tế và Trường Khánh lên xe đi đến cung Thái Cực, dọc đường không ngừng vắt óc suy nghĩ.
Thành Trường An đang giới nghiêm, chỉ có tiếng vó ngựa và bánh xe lộc cộc vang vọng trên con đường thênh thang, tựa hồ cũng vang vọng trong lồng ngực cô.
Cô nghĩ đi nghĩ lại ý tứ ba chữ nọ, song nghĩ mãi cũng chỉ thấy có lẽ Lý Thư Bạch bảo cô cam chịu, chết rồi là hết. Tên khốn này, đúng lúc quan trọng, lẽ nào y hoàn toàn không định cứu cô ư?
Đúng lúc cô suýt tóm lấy thành xe khóc òa lên thì Vĩnh Tế đã dài giọng xướng, “Dương công công, đến cung Thái Cực rồi, xuống xe thôi!”
Đầu cô tê dại đi, song cũng chẳng biết làm sao, đành theo y xuống xe.
Cung Thái Cực bỏ không cả trăm năm nay lạnh lẽo vô cùng, chẳng khác nào lãnh cung trong truyền thuyết.
Giữa đêm khuya, chỉ thấy hậu cung xa xa chìm trong bóng tối, lác đác vài lồng đèn trước điện Lập Chính soi sáng cả cánh cửa và hành lang sơn son.
Hoàng Tử Hà theo sau Vĩnh Tế và Trường Khánh, từng bước tiến vào điện Lập Chính.
Cỏ xanh mượt mà len lỏi chồi ra giữa những hàng gạch xanh, những nhành dài nhất thậm chí còn lấp cả mắt cá, giẫm chân lên thấy bồng bềnh mềm mại, không có cảm giác vững chãi. Đèn đá trước cửa điện đã loang lổ nhẵn thín vì mưa gió mài mòn, lộ rõ vệt rêu xanh dưới ánh đèn.
Sen đá từ trên mái bò xuống, lớp sơn đỏ bong tróc trên cột, đều khiến người ta cảm thấy cung điện này đã lâu chưa được dọn dẹp kỹ càng. Dù hùng vĩ hoa lệ đến đâu thì cũng vẫn là một chốn bị lãng quên, ít người lai vãng.
Tôi tớ của hoàng hậu đều tháo vát, buổi chiều mới dọn đến, mà hiện giờ điện Lập Chính đã được quét dọn sạch sẽ, bài trí vừa mắt dễ chịu.
Đã tảng sáng, song hoàng hậu còn chưa đi nghỉ, người ngồi trên chiếc sập ở hậu điện, có lẽ đang đợi cô. Đám cung nữ dâng cháo tuyết lạc đã ninh kỹ cùng bốn món ăn kèm khác. Vương hoàng hậu thong thả dùng bữa, dáng điệu bình thản, tao nhã mà khoan thai, tựa hồ đã quên bẵng tên tiểu hoạn quan vừa triệu từ vương phủ đến đang đứng bên dưới, thấp thỏm đợi xử lý.
Ăn xong bữa khuya, dọn sạch bàn đi, hoàng hậu súc miệng, cạn hết một chung Cố Chử Tử Duẩn(*) rồi mới thong thả hỏi, “Dương công công có cảm thấy cung Thái Cực này đêm dài đằng đẵng, quá hiu hắt lạnh lẽo chăng?”
(*) Một loại trà xuất xứ từ núi Cố Chử ở Chiết Giang, thường được đem tiến vua, do búp trà khi còn tươi có màu tím nhạt, mặt sau lá non cuốn lại như búp măng, nên thành tên. Cố Chử Tử Duẩn có thể hiểu là măng tím ở vùng Cố Chử.
Hoàng Tử Hà đành nhắm mắt đáp, “Nếu lòng còn sôi nổi thì đi đâu cũng thấy náo nhiệt, còn như lòng đã lạnh thì nơi nào chẳng cô tịch.”
Hoàng hậu ngước mắt lên nhìn cô, giọng trầm thấp dịu dàng, “Dương công công, giờ ta phải chuyển đến cung Thái Cực, đều là do ngươi ban cho. Lòng như tro tàn cũng là ngươi một tay tạo nên. Chẳng hay ta phải ban thưởng thế nào, mới khỏi phụ ơn huệ sâu dày công công dành cho ta đây?”
Nghe thấy ý tứ trong lời lẽ của hoàng hậu, Hoàng Tử Hà chỉ thấy như có lửa đốt trong lồng ngực, mồ hôi lưng vã ra đầm đìa. Cô vừa vắt óc nghĩ tới ý nghĩa của cái gọi là “thân phận thật”, vừa đáp, “Điện hạ ngày nay chuyển sang cung mới, dù chỉ để khởi đầu cho may mắn thì cũng nên tử tế với nô tài, rộng lượng khoan dung…”
“Khoan dung ư?” Vương hoàng hậu khẽ nhếch môi, song ánh mắt vẫn lạnh băng, “Trước đây lúc nói xằng nói bậy ở nhà họ Vương, ngươi có nghĩ đến việc khoan dung với bản cung chăng?”
Vậy còn hoàng hậu? Khi lần lượt trừ khử hết người quen cũ, người thân và người yêu thuở trước, tàn nhẫn máu lạnh như thế, hoàng hậu có bao giờ ngờ đến ngày này chăng? Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, song không dám nói ra miệng, đành cúi đầu đứng đó, trơ mắt nhìn một giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống nền gạch xanh dưới chân, hồi lâu cũng không thấm vào được, để lại một vệt thẫm rất dễ thấy.
Hoàng hậu nhìn quanh rồi nói, như đang lẩm bẩm một mình, “Huống hồ, trong cung điện này, lấy đâu ra may mắn? Năm xưa Trưởng Tôn hoàng hậu qua đời ngay tại đây, dù xa hoa lộng lẫy thật đấy, nhưng luôn có người chết cả.”
Hoàng Tử Hà dán mắt nhìn giọt mồ hôi đang từ từ loang ra dưới chân mình, gượng đáp, “Trưởng Tôn hoàng hậu thông tuệ hiền thục, được Thái Tông hoàng đế kính yêu suốt kiếp, điện hạ đương nhiên cũng có thể như bà ấy, được sủng ái một đời.”
“Hừ… giờ nói gì cũng muộn rồi, Dương công công à. Nếu từ đầu ngươi lanh lợi được bằng phân nửa bây giờ, hẳn đã biết có những chuyện nên nói, có chuyện không nên nói, có những chuyện quyết định cả sinh mạng của ngươi!”
Lời hoàng hậu vang vọng bên tai cô như sấm rền, khiến cô sực hiểu. Thân phận thật, thân phận thật ư, tên Lý Thư Bạch chết giẫm, hóa ra y muốn nói thế!
Trong nháy mắt, từ tinh thần đến tâm linh thông suốt hẳn, cô liền quỳ thụp xuống đất, dập đầu lạy hoàng hậu, đoạn thưa, “Xin điện hạ nghe một câu này của nô tài, chỉ một câu thôi, nói xong dù hôm nay có chết ở đây, nô tài cũng cam tâm tình nguyện!”
Hoàng hậu cười nhạt, chậm rãi hỏi, “Câu gì?”
Hoàng Tử Hà nhìn quanh, không đáp.
Hoàng hậu thong thả giơ tay lên ra hiệu cho mọi người lui ra đợi bên ngoài, sau đó lạnh lùng nhìn cô, chẳng nói chẳng rằng.
Hoàng Tử Hà lại dập đầu lạy hoàng hậu một lạy, rồi mới ngẩng đầu lên hỏi, “Nô tài tự biết mình cầm chắc cái chết, dù chết lúc nào ở đâu cũng có khác gì nhau? Chỉ không biết điện hạ định tội gì cho nô tài?”
“Còn cần định tội nữa ư?” Hoàng hậu khinh miệt nhìn cô, như nhìn xuống con sâu cái kiến, “Ngươi biết được bí mật lớn nhất của bản cung, đã tính là tội chết hay chưa?”
“Đương nhiên là tội chết.” Hoàng Tử Hà cung kính đáp, đoạn ngẩng đầu nhìn lên, “Song hôm nay nô tài có một câu muốn tâu lên hoàng hậu điện hạ, biết đâu sau khi nghe rồi, điện hạ lại thấy chuyện này vẫn có cơ hội vãn hồi.”
“Nói.”
Hoàng Tử Hà nghe tiếng tim mình đập như trống làng, tự biết tính mạng chỉ trông vào một câu này, mong sao lời khuyên của Lý Thư Bạch phát huy tác dụng.
Cô hít vào một hơi thật sâu, khẽ đáp, “Nô tài vẫn nhớ, ba năm trước lúc mười bốn tuổi, lần đầu tiên được điện hạ triệu kiến, bấy giờ điện hạ từng bảo nô tài rằng, nếu ta có con gái, chắc cũng trạc tuổi ngươi, cũng sẽ đáng yêu thế này.”
Ánh mắt hoàng hậu nhìn cô bỗng đờ ra, sắc mặt cũng phức tạp hẳn lên dưới ánh đèn. Làm thinh hồi lâu, người mới ngập ngừng hỏi, “Ngươi… là kẻ ba năm trước…”
Cô quỳ rạp xuống, “Tội nữ Hoàng Tử Hà, khấu kiến hoàng hậu điện hạ.”
Hoàng hậu lạnh lùng hỏi, “Ngươi biết rõ ta căm ghét ngươi, chỉ muốn ngươi chết, tại sao lại tiết lộ điểm yếu của mình cho ta?”
“Bí mật của điện hạ đã được bệ hạ khoan dung, nô tỳ tin rằng đế hậu tình cảm sâu đậm, chẳng bao lâu sẽ lại nồng nàn quấn quýt như xưa. Song bí mật này lại là việc trọng đại can hệ đến sự sống chết của nô tỳ. Nô tỳ nguyện giao cả tính mạng mình vào tay điện hạ, ngày sau nếu lo ngại nô tỳ gây điều bất lợi với người, thì chỉ cần buông một câu là đủ khiến nô tỳ chết đi hàng vạn lần, chẳng cần điện hạ đích thân ra tay.”
Hoàng hậu im lặng quan sát vẻ mặt nghiêm trang của cô hồi lâu mới từ từ đứng dậy đến bên song cửa, trông ra ánh đèn leo lét phía ngoài. Nét mặt nhìn nghiêng của người rất đẹp, như một đóa mẫu đơn trắng muốt lặng lẽ nở rộ trong đêm.
Hoàng Tử Hà câm lặng theo dõi, thầm ước tính xác suất trở mặt của hoàng hậu. Mồ hôi sau lưng vẫn chưa khô, hơi lạnh thấm vào da thịt khiến cô tê tái.
Chẳng biết bao lâu sau, cô mới nghe thấy giọng hoàng hậu, không nhanh không chậm, không nặng không nhẹ, vẫn ung dung thấp trầm như thế, vang vọng trong điện, “Có phải ngươi cho rằng chỉ cần giao tính mạng vào tay ta, ta sẽ nể tình ngươi còn có chỗ dùng được mà cho qua hết những việc ngươi mạo phạm ta lúc trước hay không?”
“Hoàng Tử Hà không dám!” Cô ngước lên nhìn hoàng hậu, thành khẩn đáp, “Song nô tỳ nghĩ, điện hạ hẳn biết rõ chuyện Thái Tông hoàng đế và Ngụy Trưng, cũng như cái tình giữa Võ Hậu và Thượng Quan Uyển Nhi ngày trước. Việc đời biến đổi, thù nhà nợ nước còn cải thiện được, miễn là nô tỳ có thể phục vụ cho điện hạ, thì chuyện xưa có quan hệ gì đâu?”
Hoàng hậu chậm rãi đi đến trước mặt Hoàng Tử Hà, nhìn xuống kẻ đang quỳ mọp dưới nền đất, ánh mắt lướt dọc người cô từng tấc, từ đầu xuống vai, xuống eo rồi xuống nữa, thật lâu sau, người phụ nữ trước giờ vẫn cứng cỏi kiên cường bỗng thở dài thườn thượt, đoạn nói, “Đã vậy, ta cứ nắm lấy cái mạng ngươi trước đã. Nếu ngày sau ngươi không chịu nghe ta sai khiến, ta hẵng thu lại cũng chẳng muộn.”
“Đa tạ hoàng hậu điện hạ khai ân!” Hoàng Tử Hà dập đầu, cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra từ tất cả các lỗ chân lông trên cơ thể. Song cô chẳng dám lau đi, chỉ bất động cúi đầu vâng dạ.
Hoàng hậu chẳng buồn để ý tới cô, trầm tư hồi lâu mới hạ giọng, “Hoàng Tử Hà, Hoàng Tử Hà… Xét ra thì, ngươi cũng có công với bản cung.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên mở to mắt nhìn hoàng hậu.
“Nếu không có ngươi, có lẽ cả đời ta cũng không biết Tuyết Sắc đã chết, càng không biết nó lại… chết bởi tay ta.” Hoàng hậu nghiến chặt răng, cuối cùng cũng khó nhọc rặn ra được mấy chữ đó, đoạn thở dài, “Nếu không nhờ ngươi vạch trần, chắc phải tới khi chết xuống suối vàng gặp con, ta mới biết mình đã gây ra tội nghiệt sâu dày như thế. Bấy giờ, ta thực không biết còn mặt mũi nào nhìn nó nữa không…”
Hoàng Tử Hà nín lặng nghĩ, vậy bà lấy mặt mũi nào xuống âm phủ gặp lại Cẩm Nô vẫn kính bà như trời, yêu bà như mẹ, gặp lại Phùng Ức Nương vì muốn đền đáp ơn bà năm xưa mà chẳng nề ngàn dặm bôn ba hộ tống con gái bà lên kinh?
“Thôi đi… Còn tính toán gì nữa.” Hoàng hậu trở lại sập ngồi xuống, kéo một chiếc đệm gấm tựa người bên cửa sổ, ngẩng đầu nhìn dòng Ngân hà sáng rực bên ngoài, ánh đèn lồng đã lụi cả, chỉ còn dòng ngân hà treo ngược vắt ngang qua phía trên cung Thái Cực, từng đốm sáng nhỏ nhoi như những hạt bụi li ti trút xuống bầu trời.
Rồi tiếng hoàng hậu lại cất lên, từng chữ từng từ như chắt ra từ tim phổi, kiên định mà lạnh lùng, “Ta đã có thể từ giáo phường bước lên ngai vị cao nhất trong cung Đại Minh thì cũng sẽ có một ngày từ lãnh cung quay trở lại! Triều Đại Đường này, trên đời này, kẻ có thể lật đổ ta, còn chưa ra đời đâu!”
Hoàng Tử Hà quỳ trước mặt hoàng hậu, lòng ngổn ngang bao cảm xúc, nhất thời chẳng biết nói gì.
Dưới ánh đèn leo lét, giữa cung điện cổ xưa lạnh lẽo hoang vu, người phụ nữ cứng rắn ấy ngồi ngắm sông Ngân ngoài cửa sổ, trong một khắc chợt đưa tay lên bưng mặt, cũng lau sạch những thứ sắp lăn xuống vào lòng bàn tay.
Đồng hồ nước tí tách nhỏ giọt, đêm dài đến đâu cuối cùng cũng sắp qua, sao sáng lung linh, sắp đến lê minh.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ dập đầu với hoàng hậu, đang định đứng dậy lui ra, lại nghe giọng người vang lên trầm thấp, “Hoàng Tử Hà, ngươi đã bao giờ rơi vào cảnh ngộ tuyệt vọng, đến mức cảm thấy chi bằng chết quách cho rồi chưa?”
“Thưa rồi… Tuyệt vọng là khi cha mẹ và người nhà nô tỳ đều qua đời, nô tỳ bị quy là hung thủ, bị truy nã khắp nơi. Song nô tỳ không nghĩ đến cái chết, mà dù có chết, nô tỳ cũng không muốn đeo theo tội danh giết hại cả nhà!”
“Nhưng ta quả thực đã từng… có lúc nghĩ đến cái chết.” Hoàng hậu lặng lẽ ngả người nằm xuống sập gấm, tấm áo lụa bảy lớp hoa lệ huy hoàng phủ lên thân mình, tơ lụa lượt là vây bọc, mái tóc đen tuôn dài như suối buông xõa xung quanh. Nhưng gương mặt trắng muốt thì lộ rõ tiều tụy cùng mệt mỏi.
“Ngươi… đã bao giờ gặp Tuyết Sắc chưa? Có phải nó rất giống ta không?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Đáng tiếc, cô ấy và nô tỳ người trước kẻ sau lỡ mất nhau ở ngoại giáo phường, chưa từng gặp mặt.”
“Ừ… Ta cũng không bao giờ còn cơ hội nhìn dáng vẻ trưởng thành của con gái nữa.” Hoàng hậu thở dài nói khẽ, “Lần cuối cùng ta trông thấy Tuyết Sắc, nó mới qua sinh nhật năm tuổi. Bấy giờ ta hai mươi ba tuổi, mà Kính Tu – chính là Trình Kính Tu luôn miệng khẳng định không để tâm việc ta xuất thân từ phường ca múa, lại nói con gái lớn lên ở nơi này tất không hay, muốn ta cùng y rời đi.”
Hoàng Tử Hà không hiểu vì sao hoàng hậu lại kể những chuyện này với mình. Nhưng thấy xung quanh lặng phắc như tờ, giữa cung điện vắng vẻ, dưới đêm dài đằng đẵng, không trông được lối trước, cũng chẳng thấy đường sau, cô ngước lên nhìn Vương hoàng hậu, bất giác sinh lòng trắc ẩn, chăm chú nghe người kể tiếp.
“Vân Thiểu Uyển tuy là kỹ viện, nhưng chỉ ca múa chứ không phải lầu xanh. Các tỷ muội đều bán nghệ nuôi thân, hết sức tự trọng. Nhưng sau mấy lần tranh cãi với Kính Tu, ta cũng đàng thuận theo y, dẫn con gái cùng y lên phương Bắc, đến kinh thành thử thời vận. Bởi y cho rằng ở Trường An rộng lớn, tài vẽ của mình nhất định sẽ có người thưởng thức. Tiếc rằng đường đi rất rối ren, lính tráng giặc cướp làm loạn, tiền bạc ta gom góp bao năm đều tiêu tán hết. Lúc đến được Trường An, chúng ta đã cạn tiền, đành thuê một túp lều ở tạm. Thoạt đầu Kính Tu cũng ra ngoài thử vận may, song y không quen biết không quan hệ, ai chịu tiến cử? Chẳng bao lâu, vì bị ghẻ lạnh ở khắp nơi, y đã vỡ lẽ, không chịu ra ngoài nữa, chỉ ngồi ở nhà oán trời trách đất. Thời ở Dương Châu, Kính Tu phong lưu hào phóng, hàng ngày chỉ cần vẽ tranh tiêu khiển, đối xử với ta cũng rất dịu dàng, nên tình cảm đôi bên mặn mà hết sức. Song vừa đến Trường An, gia đình nghèo khó trăm sự khổ, ta chợt phát hiện, thì ra người đàn ông ta tìm được, đến năng lực sinh tồn còn chẳng có. Bấy giờ Tuyết Sắc lại sinh bệnh, sống trong túp lều lạnh lẽo ẩm thấp đó, ngay cả cây trâm sương lá mà Kính Tu tặng ta làm vật định tình cũng phải đem cầm. Chúng ta ăn đói mặc rét, cơm áo còn chẳng đủ, nói gì đến việc chữa bệnh cho con… Ta ôm Tuyết Sắc chạy khắp các tiệm thuốc, song vì không có tiền nên có quỳ trước của tiệm khóc lóc van nài cũng chẳng ai để mắt. Kính Tu chạy đến lôi ta về, nói ta làm bẽ mặt, ta chỉ còn cách cả đêm ôm ấp con gái, lau người cho nó, trơ mắt nhìn nó thở khò khè, nhìn sắc trời ngoài song sáng dần lên… Bấy giờ, cũng là một đêm dài thế này, tình cảnh giống hệt, tưởng đâu chỉ cần nhắm mắt lại là sẽ buông bỏ được hết thảy tuyệt vọng…”
Chuyện đã mười hai năm, song bây giờ thuật lại, hoàng hậu vẫn cảm thấy tê tái thấu xương, thấy cõi lòng sâu kín bị rạch nát. Người phủ phục trên gối, mở to cặp mắt hoang mang thất thần, lời lẽ buột miệng mơ hồ mà hỗn loạn, như thể chỉ nói cho mình nghe.
“Tuyết Sắc phúc to mạng lớn, cuối cùng cũng vượt qua được, song Kính Tu lại vì uất ức mà ngã bệnh. Thấy cả nhà sắp bị đuổi ra đường vì không trả nổi tiền thuê căn lều rách, ta đành giấu Kính Tu một mình đến chợ Tây tìm cơ hội. Ta vẫn nhớ như in bấy giờ là mùa đông rét mướt, những chiếc lá hòe lần lượt lìa cành rơi xuống lề đường. Có một người đàn bà chừng năm sáu mươi tuổi mặc áo thô màu nâu rách nát ngồi ở cửa chợ Tây xin ăn. Bà ta ôm cây tỳ bà cũ nát đã tróc sơn loang lổ, cất giọng khản đặc hát một khúc Trường tương thủ sai lời lạc điệu. Mái tóc vừa bết vừa rối bù xõa xuống vai, càng làm nổi bật gương mặt lem luốc nhăn nheo như rêu khô chồng chất trên khối đá đã bị xói mòn. Song chẳng có cách nào khác… Tấm áo rách trên mình bà ta không che nổi cơn gió lạnh như dao cắt, bàn tay lạnh đến nứt toác, bờ môi khô nẻ tím tái, trục cây đàn tỳ bà kia cũng đã lâu không so lại, dây đèn xiêu vẹo, làm sao gảy ra được một khúc ra hồn?”
Cuối cùng, từ đôi mắt thẫn thờ của hoàng hậu cũng tuôn hai hàng lệ. Người bưng mặt nghẹn ngào, “Ngươi không hiểu được… nỗi tuyệt vọng trong lòng ta bấy giờ đâu. Hôm ấy, ta đã đứng trước mặt người đàn bà nọ rất lâu. Buổi chiều lạnh lẽo âm u như sắp mưa, chợ Tây cũng vắng ngắt. Ta nhìn bà ấy, tựa như trông thấy chính mình ba mươi năm sau, từ một đóa hoa rạng rỡ đầu cành, trở thành một nắm bã đậu khoác áo rách thều thào… Không nơi nương tựa, nghèo đói bệnh tật, cuối cùng tê tái mà thê lương chết ở đầu đường, da thịt âm thầm rữa nát, chẳng ai hay biết ta từng sở hữu dung mạo và tài hoa khiến bao người phải ganh tị…”
Hoàng hậu thở dài, run rẩy hít một hơi thật sâu, đoạn khó nhọc tiếp, “Kể từ buổi chiều hôm ấy, ta đã vứt bỏ tất cả ngây thơ, hiểu ra rằng cái gọi là tình yêu, khi đối mặt với hiện thực thì chẳng chịu nổi một đòn. Thứ ta thực sự cần không phải là cùng Kính Tu sống chết có nhau, mà là tiếp tục sống, hơn nữa còn phải sống thật đủ đầy sung sướng, vĩnh viễn không bao giờ phải ôm tỳ bà ăn xin ở chợ Tây!”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn hoàng hậu.
“Đúng lúc ấy, ta gặp một người bạn cùng học nghệ năm xưa. Cô ấy vốn ngốc nghếch vụng về, dung nhan cũng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, thường hay gảy sai, học hơn ba tháng vẫn không đàn xong một khúc. Nhưng cô ấy lấy được một người buôn trà, vận áo gấm mới tinh, bên mai gài một đóa hoa vàng thật lớn, đầu cắm bảy tám cây trâm mành mành, trông trọc phú ghê gớm, song vẫn lộng lẫy hơn ta cả trăm lần. Cô ấy ngồi trên xe ngựa, thấy ta đi bộ bên đường bèn gọi lại, tỏ vẻ thông cảm pha lẫn khoa trương, hỏi han ta sao lại lưu lạc đến nỗi này, còn hỏi ta có cần giúp đỡ, tìm cho một chân dạy tỳ bà hay không. Bấy giờ cô ấy còn chẳng buồn xuống xe, ngồi trên cao nhìn xuống cười nhạo, song ta vẫn thấy mình may mắn, bởi đã đi đến bước đường cùng, nếu không có cô ấy, ta cũng chẳng biết tiếp theo đây mình sẽ đi về đâu nữa. Cô ấy dẫn ta đến nhà họ Vương Lang Gia, giới thiệu rằng ta là họ hàng xa, vì cha mẹ qua đời nên lưu lạc đến kinh thành. Nhờ ngón đàn tỳ bà khiến mọi người thán phục, ta được giữ lại, bèn quay về sắp lấy mấy bộ quần áo, đưa cho Kính Tu chút tiền vừa được người bạn kia tiếp tế, dặn rằng khi nào phát lương tháng sẽ đưa thêm.” Giọng hoàng hậu đầy buồn bã, khẽ đến gần như không thể nghe thấy, “Lúc ấy, ta thậm chí không nói với y mình sắp đi đâu. Tuyết Sắc ôm lấy chân ta khóc lóc, ta đành nghiến răng bế thốc nó lên đặt vào lòng Kính Tu. Y chỉ lặng thinh nhìn ta. Ta ra khỏi cửa, y vẫn không nói không rằng. Ta không nhịn được ngoảng lại nhìn chồng con, song chỉ thấy Kính Tu ôm Tuyết Sắc ngồi trên giường, ráng chiều rơi rớt chiếu vào mắt y, ánh mắt trống rỗng của y cứ đăm đăm nhìn ta, đăm đăm nhìn ta, mãi đến bây giờ, vẫn rành rành trước mặt…”
Giọng nói càng lúc càng khẽ, tưởng chừng không nghe thấy nữa. Song ánh mắt lại bừng bừng một ngọn lửa đen tối, khiến người ta rúng động.
Hoàng Tử Hà không khỏi buột miệng, “Chắc hẳn lúc lìa xa Tuyết Sắc, điện hạ cũng rất đau lòng.”
“Phải, song khi đã được sung sướng, ta lại chẳng ngó ngàng gì đến nó.” Hoàng hậu đưa mắt nhìn cô, mỉm cười lạnh lùng, “Ta dạy đàn ở nhà họ Vương không lâu thì Vận vương tới chơi, vào khoảnh khắc ôm tỳ bà bước ra, ta trông thấy trong mắt vương có gì đó sáng rực lên. Lúc còn ở Dương Châu, rất nhiều người cũng nhìn ta như vậy, ta đều phớt lờ, song lúc ấy, chẳng hiểu sao, ta đột nhiên, thoáng… chỉ do dự một thoáng, rồi ta nhoẻn cười với vương, ngẩng lên với dáng vẻ đằm thắm mà Kính Tu yêu thích nhất. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, Vương Lân tới tìm ta bàn bạc, nói rằng Vận vương ngộ nhận ta là con gái nhà họ Vương, bảo ta cứ đâm lao theo lao mà vào vương phủ. Lão vốn lực bất tòng tâm trước sự lụn bại của nhà họ Vương, đúng là có bệnh thì vái tứ phương, nào biết ta xuất thân từ chốn phong trần, càng không hay ta đã có chồng có con, lại dám tìm ta bàn bạc. Nghe Vương Lân nói, ta cứ như chìm vào giấc mộng, trước mắt lóe lên hình ảnh bà già chơi đàn ở chợ Tây, gương mặt đen đúa ấy, bờ môi héo úa ấy, đôi tay khô xác ấy… Ta bèn nhận lời ngay! Bấy giờ ta tự nhủ, giống như loài thiêu thân lao vào lửa, dù có chết, ta cũng nhất định phải chết ở một nơi xán lạn huy hoàng! Việc đời thực hoang đường, mười hai năm nay, ta sống trong cung như cá gặp nước, hạnh phúc đủ đầy hơn ai hết. Ta âm thầm trừ khử người bạn năm xưa tiến cử ta vào nhà họ Vương, chỉ trong mấy năm đã làm Quách thục phi thất sủng, từ dung hoa đến chiêu nghi, lên quý phi rồi đến hoàng hậu. Nghiễm nhi của ta tuy là con thứ năm của bệ hạ, song lại được phong làm thái tử. Ta biết đời này, nơi thích hợp nhất dành cho ta chính là cung đình! Đứng trên ngôi cao, được muôn người bái lạy, dù ta không có người yêu và con gái thì có làm sao? Ta vẫn sống huy hoàng tráng lệ, khiến người trong thiên hạ phải khao khát kia mà!”
Hoàng Tử Hà nói khẽ, “Nhưng con gái lại không muốn vào kinh gặp mặt người, dù người có được tất cả, song hai tay vấy đầy máu tươi của thân thích, tỷ muội và đệ tử, lẽ vào lòng không thấy bi ai hay hổ thẹn ư?”
“Hổ thẹn? Bi ai?” Đôi mắt lạnh lùng cứng cỏi của hoàng hậu thoáng qua một tia ảm đạm. Song ngay lập tức, người đã hếch cằm, cười nhạt liếc cô, “Mười hai năm trước, ta cũng từng ngây thơ lãng mạn như ngươi, cho rằng bên cạnh có chồng có con, dù nghèo đói bệnh tật vẫn là hạnh phúc mỹ mãn. Tiếc rằng… Tiếc rằng người có thể thay đổi, lòng có thể già đi, chỉ có cuộc sống là phải vật lộn để vượt qua từng ngày! Khi ngươi đứng trước bước đường cùng, ắt sẽ hiểu ra tất cả!”
Hoàng Tử Hà làm thinh hồi lâu, lại hỏi, “Bởi thế, về sau người cũng không hề gặp lại Trình Kính Tu và Tuyết Sắc ư?”
“Không hề. Sau khi quyết định bước vào Vận vương phủ, ta bèn nhờ người bạn học kia chuộc cây trâm sương lá ra, đưa đến cho họ cùng lộ phí, nói với họ rằng Mai Vãn Trí đã chết rồi, không cần tìm nữa.”
Hoàng Tử Hà im lặng đợi kể tiếp, song dường như hoàng hậu chẳng muốn kể thêm nữa, cứ ngẩn ngơ nằm duỗi người trên sập, giữa cung điện huy hoàng, thẫn thờ chìm vào hồi tưởng, thật lâu, thật lâu sau mới cúi nhìn xuống, mỉm cười thê lương. “Đúng thế, Mai Vãn Trí đã chết rồi. Từ đó trở đi, cô ta vừa sợ vừa hận tỳ bà, không bao giờ đụng đến nữa. Trên đời này chỉ còn Vương Thược, sống giữa thâm cung, cẩm tú phồn hoa, hạnh phúc hơn ai hết. Dù chết, ta cũng sẽ chết giữa gấm lụa lượt là, nhà cao cửa rộng. Đời này, ta đã đi đến tột đỉnh phồn hoa, muốn gì được nấy rồi.”
Giọng điệu thê lương khôn xiết, song không giấu nổi vẻ ương ngạnh.
Hoàng hậu không muốn nói thêm gì nữa, nên khẽ xua tay, cho Hoàng Tử Hà lui ra.
Có điều khi cô đứng dậy đi khỏi, lại nghe thấy hoàng hậu nói nhỏ phía sau, “Lời ta nói ba năm trước, là thật đấy.”
Cô ngạc nhiên ngoái lại, nhìn về phía người phụ nữ lạnh lùng quyết liệt kia. Hoàng hậu trầm tư cất tiếng, “Bấy giờ ta thấy ngươi vận chiếc áo màu ngân hồng ánh nhũ, giữa ngày xuân phơi phới, yêu kiều tiến lại, như đóa đậu khấu mới nảy đầu cành, rung rinh trong gió. Ta chợt nghĩ, nếu Tuyết Sắc ở cạnh ta lúc này, hẳn nó cũng xinh đẹp như thế.”
Đêm ở cung Thái Cực, tĩnh mịch mà lạnh lẽo.
Hoàng Tử Hà men theo con đường lúc đến, chầm chậm rời khỏi cung điện đìu hiu ấy.
Những ngôi sao trên trời lần lượt đổi rời, đèn đuốc dọc đường ra đều đã tắt cả, tiếng côn trùng nỉ non rả rích không ngừng vang vọng giữa màn đêm yên tĩnh.
Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy vô vàn những vì sao.
Nếu nói số mệnh mỗi người ứng với một ngôi sao thì trong khoảnh khắc này, dường như vận mệnh mọi người đều chỉ là một đốm sáng nhỏ nhoi không đáng kể. Người sống trên đời chẳng khác gì rơm rác, dù sao sa như mưa, trút cả xuống đồng hoang, cũng chỉ vụt qua trong thoáng chốc, đổi được câu than thở của người ngàn vạn năm sau mà thôi.
Cô đi đến cửa cung Thái Cực, cửa ngách từ từ hé mở để cô bước ra.
Dưới bầu trời sao, giữa đêm thanh vắng, có một bóng người dong dỏng đứng đó. Y nhìn cô bước ra, vẻ mặt thản nhiên, song vào khoảnh khắc nhận ra cô, đáy mắt y tựa hồ lăn tăn gợn sóng.
Hoàng Tử Hà dừng chân, nhất thời bối rối.
Y bèn tiến lại phía cô, giọng nói vẫn lạnh lùng xa cách, “Ngây ra đó làm gì? Đi thôi.”
“Vương gia…” Hoàng Tử Hà luống cuống thốt, ngẩng lên nhìn những đường nét ngời ngợi dưới sao, khẽ hỏi, “Vương gia vẫn đợi tôi từ bấy ư?”
Y quay mặt đi chỗ khác, “Tiện đường ngang qua.”
Hoàng Tử Hà nhìn ra màn đêm Trường An đang giới nghiêm, không khỏi nhoẻn cười.
Lý Thư Bạch phớt lờ cô, quay người đi về phía xe ngựa.
Hoàng Tử Hà lật đật chạy theo sau, nghĩ ngợi một thoáng, không nhịn được lại hỏi, “Lỡ như… tôi chỉ nói lỡ thôi nhé, lỡ như tôi không hiểu được ý vương gia mà bị giết thật, chẳng phải vương gia uổng công đứng đợi hay sao?”
Lý Thư Bạch chẳng buồn ngoái lại, chỉ đáp, “Thứ nhất, hoàng hậu giờ đã thất thế phải vào lãnh cung, sao dám ra tay giết kẻ vạch trần thân phận bà ta như ngươi? Nếu làm vậy bà ta phải ăn nói thế nào với bệ hạ?”
Hoàng Tử Hà nghĩ bụng, mình chưa từng sống nơi cung đình, đương nhiên không biết chuyện này. Huống hồ, nếu chắc chắn không sao, thì việc gì vương gia phải ba lần đá tôi ngã xuống nước, việc gì phải đứng đây đợi suốt đêm?
“Vậy… còn thứ hai?”
“Thứ hai…” Cuối cùng Lý Thư Bạch phải ngoảnh lại, lườm cô rất sắc. Giữa đêm thanh vắng, cơn gió lộng lặng lẽ lướt qua hai người. “Nếu ngay cả ám hiệu ấy ngươi còn không hiểu được, thì đã chẳng phải Hoàng Tử Hà.”
Hoàng Tử Hà bất giác mỉm cười.
Thoát được đại nạn, đêm thực dịu dàng. Hai người ngồi trong cỗ xe lắc lư, nhằm hướng Quỳ vương phủ.
Chiếc chuông vàng trên xe đung đưa, con cá nhỏ màu đỏ lặng lẽ ngủ dưới đáy bình lưu ly, như một đóa hoa âm thầm chìm trong làn nước.
Ánh đèn trên phố theo cửa xe chầm chậm lọt vào, rồi lại chầm chậm trôi ra.
Trong xe thoắt sáng thoắt tối, bóng người khi tỏ khi mờ, thời gian âm thầm lặng lẽ.
Ánh sáng dập dềnh như ngưng đọng giữa khoảng không hai thước ngăn giữa hai người
Lúc này đây, tại cổng thành Trường An, Tiểu Thi bưng tro cốt Tuyết Sắc cũng ngẩng đầu nhìn lên dòng Ngân hà mênh mang. Nàng ghì Tuyết Sắc vào lòng, òa lên khóc lạc cả giọng.
Cách đó hơn trăm dặm, Trần Niệm Nương hối hả bỏ trốn đang lặn lội giữa đồng hoang gió lạnh. Ngẩng đầu nhìn con đường mịt mù phía trước, dòng sông Ngân trên không lấp lánh muôn sao, từ nay, bà ta chỉ còn một thân một mình trên đời, thứ duy nhất còn níu giữ được, chỉ là hai miếng ngọc nho nhỏ trong tay mà thôi.
Cửu Châu muôn dặm…
Dưới ánh trăng sao…
Bao nhiêu âm thanh…
Đều bị đêm thâu chôn vùi hết thảy.
Hết.
“Từ khi Cao Tông và Võ hậu chuyển tới ở cung Đại Minh, cung Thái Cực vẫn bỏ không, chỉ để mấy vị thái phi lớn tuổi ở. Hiện giờ Vương hoàng hậu bị đưa tới cung Thái Cực sống một mình, nghe nói là vì cái chết của Vương Nhược không lành, nên hoàng hậu mới bị hoàng đế tống đi cách ly, cũng coi như đẩy vào lãnh cung.”
Lư Vân Trung Lư tiểu công công ở Quỳ vương phủ xưa nay luôn hứng thú với những chuyện thâm cung bí sử, hào hứng bình luận tình hình thiên hạ ngay giữa lúc các hoạn quan dùng bữa tối.
“Trên đời làm gì có chuyện hoàng hậu chuyển đến biệt cung chứ!”
“Hừm, ngươi đừng có nói, Hán Vũ Đế và Trần A Kiều chẳng phải tiền lệ đấy ư?”
“Theo ta thấy nhà họ Vương lần này gay go rồi!”
Hoàng Tử Hà thản nhiên dọn bát đũa rồi đứng dậy đem đến nhà bếp.
“Này này, Sùng Cổ, hôm ấy chẳng phải ngươi theo gia sang nhà họ Vương bái tế Vương Nhược cô nương đó ư? Ngươi mau kể xem, nghe nói hôm ấy hoàng hậu khóc lóc tóc tai rũ rượi, mặt mày tái nhợt, có đúng không?”
Hoàng Tử Hà à một tiếng, thong thả nói, “Đúng thế, hoàng hậu điện hạ rất đau lòng.”
“Nghe nói ngươi còn đeo vòng cho các xác ở linh đường hả? Ôi chao… đúng là khiến chúng ta phục sát đất đấy!”
“Ừm.” Phớt lờ ánh mắt kính sợ của mọi người, Hoàng Tử Hà thờ ơ gật đầu, rồi đột nhiên nhớ ra một chuyện, “Gia nhân nhà họ Vương có nói gì khác không? Lời đồn trong kinh thế nào?”
“Không có gì, chẳng phải vụ này do ngươi phá ư? Hai a đầu của Vương cô nương câu kết với dư đảng Bàng Huân, hại chết cô ấy. y, người ta chẳng đồn là ngươi phá vụ này đó à? Kể lại tỉ mỉ tình tiết cho chúng ta nghe mau!”
“… Đại khái là thế, có gì để kể đâu.” Nói đoạn cô bưng bát đũa hối hả quay đầu đi thẳng. Nực cười, cô đâu phải thần tiên, làm sao trong nháy mắt bịa ra được câu chuyện Nhàn Vân Nhiễm Vân giết hại Vương Nhược chứ?
Hoàng Tử Hà đưa bát đũa đến nhà bếp, vừa bước ra, đã bị đám gác cửa gọi lại.
Đại hoạn quan Trường Khánh của hoàng hậu muốn gặp.
Tuy đã lưu lạc đến tận cung Thái Cực, Trường Khánh vẫn giữ nguyên tư thế của một đại hoạn quan hạng nhất hạng nhì trong cung, cằm hơi hếch, nhìn người bằng hai lỗ mũi, “Dương công công, hoàng hậu điện hạ triệu kiến, nói rằng có người muốn trò chuyện với ngươi.”
“Ồ, vâng, xin công công đợi cho một lát.” Hoàng Tử Hà không dám chậm trễ, vội chạy về phòng thay đồ, đi được nửa đường, cô dừng bước nghỉ ngợi, cuối cũng vẫn rẽ vào báo với Lý Thư Bạch một tiếng.
Tiết trời đang nóng dần lên, dạo này Lý Thư Bạch thường ở đình Chẩm Lưu cạnh hồ Lâm.
Lúc Hoàng Tử Hà đến, y đang ngồi một mình nhìn ra hồ. Lá sen cao thấp xòe trên mặt nước, ánh đèn lồng mới thắp tỏa ra mờ ảo, làm mặt lá như đọng tuyết hay khói mỏng.
Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.
Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.
Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.
Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.
Hoàng Tử Hà thoáng do dự, song tính ra thì vẫn phải trông vào y để được phát lương, bèn chạy đến.
“Sắp tối rồi, định đi đâu đấy?”
“Hoàng hậu phái Trường Khánh tới triệu kiến tôi, nói có người muốn gặp.”
“Ồ.” Lý Thư Bạch bình thản đáp, đoạn xua tay ý bảo cô đi. Song khi cô vừa quay người, chợt thấy bị đá mạnh vào khoeo, tức thì chân phải tê dại rồi xiêu đi, cả người mất thăng bằng, ùm một tiếng, ngã lộn đầu xuống hồ sen.
May sao hồ sen không sâu, Hoàng Tử Hà lại biết bơi, cô vùng vẫy bò dậy, đứng giữa đống lá sen ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, hậm hực hỏi, “Tại sao?”
Y chẳng nói chẳng rằng, chỉ khoanh tay đứng trên bờ nhìn cô.
Hoàng Tử Hà hằm hằm vuốt gương mặt nhớp nháp bùn lẫn nước, giẫm vào mấy phiến đá Thái Hồ bên bờ trèo lên, vừa vắt ống tay áo tong tỏng nước vừa cáu kỉnh, “Vương gia có ý gì vậy? Thế này thì tôi phải tắm rửa thay đồ mới vào cung được, lại dằng dai lâu quá…”
Chưa nói dứt câu, cô liếc thấy vạt áo Lý Thư Bạch lay động, lập tức nhảy sang bên cạnh, chuẩn bị né cú đá của y, nào ngờ cú đá này Lý Thư Bạch lại quét ngang, nhảy sang bên cũng chẳng tránh được, lại bị đá ngã xuống hồ.
Mặt hồ sóng sánh, bọt nước bắn tung tóe rồi đổ rào rào xuống những lá sen quanh đó, lá sen đọng nước lay động dập dềnh bên người cô, khắp hồ loang loáng ánh nước, tạo thành vô vàn đốm sáng cứ chập rồi tách trước mắt Hoàng Tử Hà.
Lý Thư Bạch đứng trên bờ, tủm tỉm cười, gió đêm lùa vào tà áo lụa mỏng xanh biếc một màu trời nước, toát ra khí chất cao quý thanh nhã thực khiến người ta mê mẩn.
Song Hoàng Tử Hà chỉ thấy kẻ này hiểm ác vô cùng. Cô đứng giữa làn nước đục ngầu, bên đám lá sen rách nát, quên cả gỡ những rong rêu thủy tảo dính trên mặt trên đầu, lóp ngóp lội vào bờ, song không trèo lên mà ngẩng đầu trừng mắt nhìn y, “Tại sao?”
Lý Thư Bạch khom người nhìn cô, tựa hồ hết sức thích thú trước bộ dạng lôi thôi lếch thếch này, nét cười hiếm hoi lồ lộ nơi khóe mắt, “Tại sao cái gì?”
“Hết lần này đến lần khác đá tôi xuống nước, vui lắm sao?”
“Vui chứ.” Lý Thư Bạch trơ tráo gật đầu, “Vụ án hóc búa bao nhiêu ngày, hôm nay lại được phá giải trong một buổi sáng, đương nhiên phải tìm vài trò giải trí.”
Hoàng Tử Hà thấy mình sắp nổ tung vì tức giận, “Trò giải trí của vương gia là nhìn tôi ngã xuống nước hai lần ư?”
Lý Thư Bạch thu lại nụ cười, “Dĩ nhiên không phải.”
Đoạn y ngoắc ngoắc tay, ra hiệu cho cô leo lên. Hoàng Tử Hà thở hồng hộc vịn vào phiến đá Thái Hồ, trèo lên bờ lần nữa, còn chưa kịp mở miệng, thậm chí chưa kịp đứng vững đã nghe tiếng gió bên tai, cô chỉ thấy cảnh vật trước mắt bỗng đảo lộn cả lên, thân hình chợt lạnh buốt, bên tai vang lên tiếng rơi tõm xuống nước và tiếng bọt nước bắn tung tóe, cùng tiếng hét vô thức của mình – cô biết, mình lại một lần nữa rơi xuống hồ.
“Phải ba lần mới đã.”
Hoàng Tử Hà giận điên người, gắng lắm mới tóm được đám lá sen mà đứng dậy, rút chiếc khăn tay lõng bõng nước lẫn bùn lau qua bùn dính trên mặt, lườm y một cái rồi chẳng nói chẳng rằng, bước thấp bước cao quay sang bờ bên kia hồ sen, rồi theo bậc thềm đi lên.
Tiết trời đầu hạ vẫn còn hơi se se khiến cô rùng cả mình, tự biết phải mau mau về tắm nước nóng, bằng không ắt sẽ cảm lạnh.
Liếc thấy Lý Thư Bạch đang men theo bờ hồ tiến lại phía mình, song lúc này cô vừa giận vừa uất, bèn lờ đi coi như không thấy, quay ngoắt người rảo bước đi thẳng.
Giọng nói chậm rãi của y vang lên, “Nhàn Vân và Nhiễm Vân đã chết rồi.”
Bước chân cô liền khựng lại, ngây người một thoáng rồi quay phắt lại nhìn y.
Lý Thư Bạch đứng phía sau cô, vẫn bình tĩnh như thường.
“Bởi thế, một tiểu hoạn quan như ngươi hôm nay có mất tích trong cung Thái Cực thì cũng chỉ như một hạt bụi, khẽ thổi là bay thôi.”
Hoàng Tử Hà đứng đờ ra trước hồ sen, gió mang theo hơi nước thổi tới, khiến cô thấy hơi lạnh thấm dần vào người. Cô không nhìn y nữa, chỉ cúi đầu bất động nhìn những chiếc lọng xanh lô nhô cao thấp dưới hồ.
“Cảnh Dục.” Lý Thư Bạch cao giọng gọi.
Cảnh Dục từ bên ngoài khung cửa tròn bước vào, thấy Hoàng Tử Hà bê bết bùn, nước rỏ tong tỏng, không khỏi kinh ngạc liếc mắt nhìn, “Vương gia.”
“Đi nói với Trường Khánh rằng Dương Sùng Cổ sẩy chân rơi xuống nước, giờ tối rồi, e rằng chỉnh trang xong thì đã quá muộn, không tiện quấy rầy hoàng hậu.”
Cảnh Dục vâng dạ, lập tức đi khỏi.
Hoàng Tử Hà cắn môi hỏi, “Vậy còn mai?”
“Mai ấy hả? Ngươi sẩy chân rơi xuống nước, lẽ nào lại không cảm mạo” Chẳng lẽ còn có thể vào cung để lây cho hoàng hậu hay sao?” Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Đợi ngươi bình phục hẳn cũng phải mất một hai tháng, đến lúc đó hoàng thượng hoàng hậu cũng biết ngươi là kẻ giữ miệng kín như bưng, hẳn lòng nghi ngại sẽ giảm đi.”
Hoàng Tử Hà ấp úng hồi lâu mới ngượng ngập nói, “Đa tạ vương gia.”
Dứt lời, cô thấy lòng thê lương khôn tả. Thói đời thật trớ trêu, tên khốn đá mình rớt xuống nước đến ba lần, vậy mà mình còn phải cung kính cảm tạ y.
Lý Thư Bạch nhìn bộ dạng lướt thướt thảm hại của Hoàng Tử Hà,không nhịn được buột thốt, “Ngươi…”
Hoàng Tử Hà ngước lên, đợi y căn dặn.
Song y khựng lại một khắc rồi quay đầu nhìn những lá sen trên hồ, giơ tay ra hiệu cho cô lui xuống.
Hoàng Tử Hà như trút được gánh nặng, vội khom người hành lễ lui ra.
Cả người ướt sũng, cô lần đến nhà bếp xách hai thùng nước nóng, tắm rửa sạch sẽ rồi lau qua quýt mái tóc vừa gội, đổ vật người xuống giường.
Thời gian này phải liên tục chạy Đông chạy Tây, lúc nào cũng canh cánh trong lòng về vụ án, quả thực mệt mỏi vô cùng. Bởi vậy vừa nằm xuống kê đầu lên gối, cô liền ngủ thiếp đi.
Chẳng biết ngủ mất bao lâu, cô chợt nghe tiếng gõ cửa khe khẽ.
Thói quen cảnh giác hình thành trong mấy tháng bôn ba lặn lội khiến cô mở bừng mắt, nhỏm dậy nhìn quanh phòng, chỉ thấy tối như bưng, hẳn là đêm đã khuya lắm.
Cô khoác áo trở dậy mở cửa, thấy Lý Thư Bạch đứng ngay trước cửa, tay trái cầm một ngọn đèn, tay phải xách một hộp cơm nhỏ. Dưới ánh đèn vàng cam ấm áp, gương mặt hoàn mỹ lạnh lùng bỗng như êm dịu hơn.
Thấy cô sững người, y cũng chẳng buồn để ý, chỉ đặt hộp cơm lên bàn, “Cũng tốt, khỏi cần ta phải gọi.”
Tuy kinh ngạc đến sững sờ, song đó chỉ là phản ứng vô thức của cơ thể, thực ra Hoàng Tử Hà vẫn chưa tỉnh hắn, cô mơ màng nhìn y, vội vã buộc túm mái tóc rối bù vì vừa ngủ dậy lại, nhìn ra sắc trời tối đen bên ngoài hỏi, “Giờ là lúc nào rồi?”
“Giờ Tý hai khắc.” Y mở hộp cơm, lấy một chén gì đó nâu sẫm đưa tới trước mặt cô, “Canh gừng, uống đi.”
Cô giương đôi mắt kèm nhèm cau mày nhìn y hồi lâu, cuối cùng mới nhận ra một điểm phi lý, “Quỳ vương gia, nửa đêm canh ba đích thân đến tìm tôi… Chỉ để đưa một bát canh gừng?”
“Dĩ nhiên không phải.” Y đáp, quay ngay người bước ra ngoài, tiện tay khép cửa lại, “Mặc quần áo vào đi, có người đến thăm đấy.”
Người có thể khiến Quỳ vương gia nửa đêm canh ba đích thân tới gọi Hoàng Tử Hà, đương nhiên không phải hạng tầm thường.
Mỹ nhân dưới đèn, đẹp như đào mận.
Thiếu nữ vận trang phục cung nữ thông thường đứng trước mặt họ. Tiếc rằng đóa hoa tươi thắm ngày nào nay đã bị ăn mòn bởi đau buồn và sầu thảm. Nàng ngẩng lên nhìn họ, bên mai còn cài cây trâm sương lá, lấp lánh dưới ánh đèn.
Vương Nhược. Hay nói cách khác, là Tiểu Thi.
Hoàng Tử Hà nhất thời ngẩn ra. Tiểu Thi lẳng lặng gập người xuống bái chào họ, xiêm y mềm mại sẽ quét trên mặt đất, âm thầm như một đóa hoa lìa cành chẳng cần gió thổi.
“Tiểu Thi cảm tạ ơn cứu mạng năm xưa của vương gia.”
Lý Thư Bạch chỉ gật đầu.
Tiểu Thi cứ quỳ dưới đất không đứng lên, nhìn y bằng cặp mắt trầm tĩnh mà bi ai, trong đôi mắt ấy như cuộn trào muôn niềm ngàn ý, song chẳng thốt nổi nửa lời.
Mãi một lúc lâu sau, nàng mới cất giọng khàn khàn, “Tôi bấy lâu nay vẫn ở trong cung Thái Cực… Nơi đó bị bỏ hoang, gần như không có người ngoai lai vãng, càng không ai biết tôi là ai. Mãi cho đến hôm nay, hoàng hậu tới bảo tôi rằng, nếu không phải tại tôi thì Tuyết Sắc đã không chết.”
Tiểu Thi buồn rầu nói, cúi đầu quỳ dưới đất, câm lặng đến mức gần như không hít thở.
Hoàng Tử Hà chậm rãi nói, “Tất cả đều do trời xui đất khiến, cái chết của Tuyết Sắc… không thể coi là tại cô được.”
Gương mặt tái trắng của Tiểu Thi đã chẳng còn sắc hồng điểm xuyết, thay vào đó là vẻ nhợt nhạt lạnh băng. Nàng nhìn cô bằng ánh mắt yếu ớt, không có mảy may sinh khí, “Nhưng tôi thấy hoàng hậu điện hạ nói phải, nếu không có tôi, Tuyết Sắc sẽ không chết…”
Hoàng Tử Hà phản bác, “Nhưng nếu không có cô, ba năm trước Tuyết Sắc đã không còn trên đời nữa rồi.”
Nghe vậy, Tiểu Thi cũng chẳng tỏ vẻ nhẹ nhõm hơn, trái lại càng cúi gằm đầu, cuối cùng gần như phủ phục xuống đất. Áp trán lên mu bàn tay đặt trên mặt đất, giọng nàng nghèn nghẹn, “Nếu không có Tuyết Sắc, tôi đã không còn trên đời này nữa rồi. Trong đám loạn quân, chúng tôi nương tựa vào nhau, rồi cùng đến Dương Châu, đến Bồ Châu. Lan Đại cô cô coi chúng tôi như con ruột, tôi cũng cùng Tuyết Sắc theo cô học đàn học múa. Tuy học hành chẳng tới đâu, song ba năm nay, chúng tôi sống rất hạnh phúc, nếu… nếu Phùng nương không xuất hiện, thì đến tận bây giờ, cũng vẫn rất hạnh phúc…”
Lý Thư Bạch vẫn hững hờ.
“Hôm nay hoàng hậu nổi giận nhiếc móc, nói tôi tham luyến hư vinh, vọng tưởng thay thế Tuyết Sắc, đến nỗi gây sai lầm. Nhưng thực ra, tôi và Tuyết Sắc không hề biết thân phận hiện giờ của bà ấy, ngay cả Phùng nương lúc đến đón chúng tôi cũng không hay biết…” Tiểu Thi bưng mặt run run nói, nước mắt ứa ra lăn dài qua kẽ tay nhỏ xuống, không sao ngăn nổi. “Bấy giờ cả nhà Lan Đại cô cô đã đi Trương Dịch… Tuyết Sắc nghe người canh cửa chuyển lời rằng mẹ cô ấy nhờ người tới đón lên kinh hứa hôn, bèn bàn bạc với tôi, nói hiện giờ không muốn gả chồng. Huống hồ năm xưa mẹ cô ấy tham luyến vinh hoa, vứt bỏ hai cha con, cha cô ấy vì thế mà đau buồn thành bệnh, mới ngoài ba mươi đã qua đời. Bởi vậy cô ấy không muốn gặp lại mẹ! Song tôi khuyên rằng, hiện giờ chúng tôi ở chung với Lan Đại cô cô, tuy cô cô nhiệt tình giúp đỡ, nhưng xuất thân của chúng tôi như vậy, muốn tìm tấm chồng tử tế cũng chẳng dễ dàng gì. Nếu mẹ có thể kiếm cho cô ấy một đám tử tế, thì cũng tốt… Nào ngờ Tuyết Sắc nắm lấy tay tôi nói, ‘Hay là thế này, dù sao mẹ đã vứt bỏ muội từ năm năm tuổi, Phùng nương cũng chỉ gặp chúng ta ở Dương Châu một lần từ hồi mười ba mười bốn, bấy giờ mới từ Từ Châu đến, mặt mày lấm lem đất cát, ai biết mặt chúng ta bây giờ đâu. Tỷ cứ nhận là muội, theo Phùng nương lên kinh, nếu quả có đám tốt, tỷ được gả vào nhà tử tế thì thực may mắn.’ Sau đó… Sau đó… Sau đó cô ấy rút bên người ra thoi bạc năm xưa Quỳ vương gia cho chúng tôi, chặt làm đôi rồi đưa tôi một nửa nói, ‘Lấy vật này làm chứng, hy vọng tỷ lên kinh có thể nghe ngóng giúp muội tin tức về người đó, xem hiện nay y đang ở đâu. Ba năm rồi, sao y không cầm cây trâm tới tìm muội? Dù y đến Dương Châu, người của Vân Thiều Uyển cũng sẽ báo với y Lan Đại cô cô đang ở Bồ Châu mà…’ Bấy giờ tôi rất muốn nói với cô ấy rằng, cây trâm đó đã bị đối phương vứt bỏ ngay khi cô ấy vừa quay đầu đi rồi. Tôi âm thầm cất giữ giúp cô ấy suốt ba năm nay, định khi nào cô ấy xuất giá mới trả lại. Song tôi biết nếu nói vậy, nhất định Tuyết Sắc sẽ rất đau khổ nên lại nghĩ, hay khoan nói vội, cứ đem đến kinh thành rồi trao trả cho mẹ cô ấy.”
Nói đến đây, Tiểu Thi thẫn thờ hồi lâu mới cắn môi kể tiếp, “Sau đó, tôi đến nhà họ Vương, vừa gặp hoàng hậu, tôi đã biết hai đứa gây ra sai lầm lớn mất rồi. Chúng tôi đâu ngờ mẹ cô ấy giờ đây đã đứng trên muôn người, cứ tưởng… cứ tưởng bà ấy chẳng qua tái giá với một nhà buôn hoặc một viên quan nhỏ mà thôi. Nhưng, nhưng mà tôi không dám mở miệng! Sau khi đã biết thân phận bà ấy, biết được câu chuyện thâm cung bí sử liên quan rất nhiều người này, nếu tôi lại nói mình không phải Tuyết Sắc, há chẳng phải tự tìm đường chết? Tôi dâng lên hoàng hậu cây trâm sương lá, bà ta càng không nghi ngờ thân phận của tôi, bèn tiết lộ với tôi rằng Quỳ vương đang tuyển phi, mà trong nhà họ Vương hiện giờ không có cô gái nào xuất sắc, bảo tôi có thể dùng thân phận con gái chi thứ tư đi ứng tuyển. Bấy giờ tôi còn mừng thầm, nghĩ rằng nếu trở thành vương phi, cố nhiên vinh hoa phú quý hưởng không hết, nhất định có thể nhờ thế lực vương phủ tìm kiếm ân nhân của chúng tôi, cũng chính là người trong lòng Tuyết Sắc. Nhưng, nhưng khi tôi được dẫn vào nội điện, trông thấy Quỳ vương gia…”
Môi Tiểu Thi run bần bật, cổ họng nghẹn lại, hồi lâu không thốt nên lời. Mãi về sau, nàng mới ngưng bặt thổn thức, “Tôi đã biết rằng ý trời trêu ngươi, mọi sự đều hỏng cả rồi.”
Giọng nói khó nhọc đó, giữa đêm khuya thanh vắng, nghe càng thêm thảm thiết. Gió đêm chợt mạnh hẳn lên, ánh đèn lồng chênh chao dữ dội, loang ra từng lớp trên mặt nàng, khiến gương mặt bỗng méo mó đầy quái dị, khiến người ta kinh hãi.
“Tôi không thể nói ra bí mật giấu trong lòng, bởi thế đêm nào cũng gặp ác mộng, thấy cái kẻ cướp đoạt người yêu của Tuyết Sắc như mình không được chết yên lành… Song tôi lại không cách nào kìm được suy nghĩ xấu xa, ảo tưởng một ngày mình bay lên cành cao, trở thành Quỳ vương phi được người người ngưỡng mộ…” Nàng quỳ rạp trên mặt đất, móng tay bấu vào nền gạch gãy nứt cả ra, nhưng dường như chẳng hề đau đớn, “Tôi cũng từng nghĩ, sau khi về Quỳ vương phủ, chỉ cần không để Tuyết Sắc chạm mặt Quỳ vương là được, tôi nhất định sẽ tìm cho cô ấy một người đàn ông tốt nhất dưới gầm trời này…”
Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Thư Bạch, thấy y chỉ mải ngắm chiếc đèn lồng xoay tròn trong gió, gương mặt trơ trơ không lộ vẻ gì.
Bất giác cô thầm nghĩ, lãng phí bao nhiêu giày vò đau đớn và quyến luyến vào một gã đàn ông hoàn toàn không có mảy may cảm giác với mình, rốt cuộc có ý nghĩa gì chăng?
Giống như ngọn đèn lúc xa lúc gần trong khu vườn này vậy, dẫu huy hoàng xán lạn đến đâu, cũng chẳng ai biết nó từng phủ bóng xuống đóa hoa mỹ lệ nào giữa đêm khuya ấy?
“Mấy ngày đó tôi ăn không ngon ngủ không yên, cuối cùng vô tình tiết lộ bí mật trong lúc gặp ác mộng, chẳng rõ Phùng nương đã phát hiện thực hay chưa, song bà ấy ắt sinh nghi. Tôi biết một khi chuyện này lộ ra, thì cái mạng của tôi… hẳn sẽ mất ở Trường An. Đúng lúc này hoàng hậu lại âm thầm cử người đến hỏi tôi thấy Phùng nương có đáng tin cậy hay không. Tôi… tôi cũng chẳng rõ ma xui quỷ khiến thế nào, lại lắc đầu…”
Quả nhiên là hoàng hậu sai người hạ độc, giết chết Phùng Ức Nương, rồi ném xác vào giữa đám dân lưu vong U Châu, ngụy trang thành chết vì dịch bệnh.
“Sau đó hoàng hậu giúp cô hạ độc Phùng Ức Nương và xử lý thi thể hả?”
Tiểu Thi khóc đến gần như ngất lịm, nói không nên lời, chỉ có thể miễn cưỡng gật gật đầu.
Hoàng Tử Hà thầm thở dài, bước đến đỡ Tiểu Thi đang khóc lóc dưới đất dậy, khẽ an ủi, “Cô đứng dậy đi, hoàng hậu điện hạ giữ lại mạng cho cô là may mắn lắm rồi.”
Lý Thư Bạch lúc này mới lên tiếng hỏi, “Bà ta bảo ngươi về sau phải tự xử thế nào?”
Tiểu Thi mở tay nải bên cạnh, run rẩy nhấc ra một chiếc hũ nhỏ. Nàng ôm nó vào lòng, vuốt ve hồi lâu mới ngẩng lên nhìn họ, “Đây là tro cốt của Tuyết Sắc, tôi muốn đưa cô ấy về Liễu Châu, chôn cất bên cạnh cha cô ấy. Từ nay về sau, tôi sẽ giữ mộ cho cô ấy đến chết, ngày ngày chăm sóc, mãi không chia lìa.”
Hoàng Tử Hà đứng trước mặt nàng, nhìn những sợi tóc mai xổ ra bên má, lay động trong làn gió từ ngoài cửa lùa vào, tựa cánh lục bình không ràng không rễ, chẳng quay lại được đường cũ, cũng chẳng tìm thấy nẻo sau.
Lý Thư Bạch rút trong ngăn kéo ra hai thoi bạc đặt xuống trước mặt nàng, “Cầm lấy đi.”
Tiểu Thi nhìn hai thoi bạc gần bằng nhau, đáp khẽ, “Tuyết Sắc thường nói với tôi, nếu có một ngày gặp được gia, khi gia rút cây trâm ra, cô ấy sẽ lấy ra thoi bạc này, đây cũng coi như… tín vật định tình của hai người. Lúc ở trong điện Ung Thuần, tôi biết mình chẳng còn cách nào ở bên cạnh vương gia nữa, ngay cả Tuyết Sắc e rằng cũng… mãi mãi không thể. Bởi thế tôi mới bỏ lại nó ở đó, nghĩ rằng nếu gia thực sự còn nhớ chúng tôi thì khi trông thấy, có lẽ sẽ láng máng có ấn tượng…”
Hoàng Tử Hà thở dài, cầm nửa thoi còn lại lên nói, “Còn nửa thoi này, là do cô gái đến ngoại giáo phường để lại, cũng chính là thứ chứng minh thân phận Tuyết Sắc. Có lẽ tôi đến chỉ sau khi cô ấy bị tập kích trong gian nhà đó không lâu, cách một khắc ngắn ngủi, vậy mà cuối cùng vẫn để lỡ mất.”
“Tất cả đều là số mệnh.” Tiểu Thi cầm thoi bạc lẩm bẩm, “Là số mệnh của cô ấy, là số mệnh của tôi, cũng là số mệnh đã định sẵn từ mười hai năm trước.”
Chỉ vì một người con gái thay đổi vận mệnh của mình, bắt đầu rời khỏi quỹ đạo cuộc đời, làm biến đổi số mệnh biết bao nhiêu người.
Sau khi tiễn Tiểu Thi, Hoàng Tử Hà cứ thế đứng nhìn theo cỗ xe cung đình lặng lẽ chạy về phía ngoại ô thành Trường An, băng qua đêm khuya vắng lạnh vì lệnh giới nghiêm, đi về phía một tương lai xa xăm không sao biết được.
Vừa quay người vào cổng phủ, cô phát hiện Vĩnh Tế và Trường Khánh vốn đưa Tiểu Thi đến đang đứng chắn ngang đường, làm động tác mời cô lên xe, “Dương công công, hoàng hậu có lệnh, bất kể đêm khuya đến đâu, bất kể công công đang làm gì, bất kể có rơi xuống nước nhiễm lạnh thật không, cũng phải vào cung yết kiến.”
Đến rồi, đây hẳn là điềm sắp ra tay.
Hoàng hậu biết rõ là nếu Tiểu Thi, kẻ giữ vai trò mấu chốt trong vụ án đến xin gặp, cô mất định sẽ ra mặt, bởi thế bèn cho người phục sẵn ở đây!
Cô nhăn mặt, vô thức nhìn về phía Lý Thư Bạch.
Lý Thư Bạch thản nhiên gật đầu, ý bảo cô cứ đi theo họ.
Hoàng Tử Hà tròn xoe mắt, nín lặng nhìn y, dùng ánh mắt kêu gào: Hoàng hậu muốn làm tôi biến mất khỏi cõi đời đó!
Y chỉ đáp lại bằng ánh mắt “yên tâm, bình tĩnh”, khiến Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao. Cuộc đời bất hạnh, tình người ấm lạnh, kẻ vừa được cô giúp giải quyết một vụ án hóc búa, sao hiện giờ lại qua cầu rút ván, trơ mắt nhìn hoàng hậu ra tay với cô chứ?
Vĩnh Tế và Trường Khánh vẫn đang nhìn cô chòng chọc. Cô đành gồng mình quay ra.
Lúc đi ngang qua Lý Thư Bạch, cô nghe thấy y nói nhỏ, “Thân phận thật.”
Hả? Hoàng Tử Hà cứ ngỡ mình nghe lầm, vội quay sang nhìn y, song y vẫn thản nhiên như không, thậm chí chẳng buồn nhìn cô thêm nữa, chỉ hờ hững buông một câu, “Đêm khuya đường xa, cẩn thận nhiễm lạnh.”
Thân phận thật?
Là ý gì?
Hoàng Tử Hà theo đám người rời vương phủ, cùng Vĩnh Tế và Trường Khánh lên xe đi đến cung Thái Cực, dọc đường không ngừng vắt óc suy nghĩ.
Thành Trường An đang giới nghiêm, chỉ có tiếng vó ngựa và bánh xe lộc cộc vang vọng trên con đường thênh thang, tựa hồ cũng vang vọng trong lồng ngực cô.
Cô nghĩ đi nghĩ lại ý tứ ba chữ nọ, song nghĩ mãi cũng chỉ thấy có lẽ Lý Thư Bạch bảo cô cam chịu, chết rồi là hết. Tên khốn này, đúng lúc quan trọng, lẽ nào y hoàn toàn không định cứu cô ư?
Đúng lúc cô suýt tóm lấy thành xe khóc òa lên thì Vĩnh Tế đã dài giọng xướng, “Dương công công, đến cung Thái Cực rồi, xuống xe thôi!”
Đầu cô tê dại đi, song cũng chẳng biết làm sao, đành theo y xuống xe.
Cung Thái Cực bỏ không cả trăm năm nay lạnh lẽo vô cùng, chẳng khác nào lãnh cung trong truyền thuyết.
Giữa đêm khuya, chỉ thấy hậu cung xa xa chìm trong bóng tối, lác đác vài lồng đèn trước điện Lập Chính soi sáng cả cánh cửa và hành lang sơn son.
Hoàng Tử Hà theo sau Vĩnh Tế và Trường Khánh, từng bước tiến vào điện Lập Chính.
Cỏ xanh mượt mà len lỏi chồi ra giữa những hàng gạch xanh, những nhành dài nhất thậm chí còn lấp cả mắt cá, giẫm chân lên thấy bồng bềnh mềm mại, không có cảm giác vững chãi. Đèn đá trước cửa điện đã loang lổ nhẵn thín vì mưa gió mài mòn, lộ rõ vệt rêu xanh dưới ánh đèn.
Sen đá từ trên mái bò xuống, lớp sơn đỏ bong tróc trên cột, đều khiến người ta cảm thấy cung điện này đã lâu chưa được dọn dẹp kỹ càng. Dù hùng vĩ hoa lệ đến đâu thì cũng vẫn là một chốn bị lãng quên, ít người lai vãng.
Tôi tớ của hoàng hậu đều tháo vát, buổi chiều mới dọn đến, mà hiện giờ điện Lập Chính đã được quét dọn sạch sẽ, bài trí vừa mắt dễ chịu.
Đã tảng sáng, song hoàng hậu còn chưa đi nghỉ, người ngồi trên chiếc sập ở hậu điện, có lẽ đang đợi cô. Đám cung nữ dâng cháo tuyết lạc đã ninh kỹ cùng bốn món ăn kèm khác. Vương hoàng hậu thong thả dùng bữa, dáng điệu bình thản, tao nhã mà khoan thai, tựa hồ đã quên bẵng tên tiểu hoạn quan vừa triệu từ vương phủ đến đang đứng bên dưới, thấp thỏm đợi xử lý.
Ăn xong bữa khuya, dọn sạch bàn đi, hoàng hậu súc miệng, cạn hết một chung Cố Chử Tử Duẩn(*) rồi mới thong thả hỏi, “Dương công công có cảm thấy cung Thái Cực này đêm dài đằng đẵng, quá hiu hắt lạnh lẽo chăng?”
(*) Một loại trà xuất xứ từ núi Cố Chử ở Chiết Giang, thường được đem tiến vua, do búp trà khi còn tươi có màu tím nhạt, mặt sau lá non cuốn lại như búp măng, nên thành tên. Cố Chử Tử Duẩn có thể hiểu là măng tím ở vùng Cố Chử.
Hoàng Tử Hà đành nhắm mắt đáp, “Nếu lòng còn sôi nổi thì đi đâu cũng thấy náo nhiệt, còn như lòng đã lạnh thì nơi nào chẳng cô tịch.”
Hoàng hậu ngước mắt lên nhìn cô, giọng trầm thấp dịu dàng, “Dương công công, giờ ta phải chuyển đến cung Thái Cực, đều là do ngươi ban cho. Lòng như tro tàn cũng là ngươi một tay tạo nên. Chẳng hay ta phải ban thưởng thế nào, mới khỏi phụ ơn huệ sâu dày công công dành cho ta đây?”
Nghe thấy ý tứ trong lời lẽ của hoàng hậu, Hoàng Tử Hà chỉ thấy như có lửa đốt trong lồng ngực, mồ hôi lưng vã ra đầm đìa. Cô vừa vắt óc nghĩ tới ý nghĩa của cái gọi là “thân phận thật”, vừa đáp, “Điện hạ ngày nay chuyển sang cung mới, dù chỉ để khởi đầu cho may mắn thì cũng nên tử tế với nô tài, rộng lượng khoan dung…”
“Khoan dung ư?” Vương hoàng hậu khẽ nhếch môi, song ánh mắt vẫn lạnh băng, “Trước đây lúc nói xằng nói bậy ở nhà họ Vương, ngươi có nghĩ đến việc khoan dung với bản cung chăng?”
Vậy còn hoàng hậu? Khi lần lượt trừ khử hết người quen cũ, người thân và người yêu thuở trước, tàn nhẫn máu lạnh như thế, hoàng hậu có bao giờ ngờ đến ngày này chăng? Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, song không dám nói ra miệng, đành cúi đầu đứng đó, trơ mắt nhìn một giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống nền gạch xanh dưới chân, hồi lâu cũng không thấm vào được, để lại một vệt thẫm rất dễ thấy.
Hoàng hậu nhìn quanh rồi nói, như đang lẩm bẩm một mình, “Huống hồ, trong cung điện này, lấy đâu ra may mắn? Năm xưa Trưởng Tôn hoàng hậu qua đời ngay tại đây, dù xa hoa lộng lẫy thật đấy, nhưng luôn có người chết cả.”
Hoàng Tử Hà dán mắt nhìn giọt mồ hôi đang từ từ loang ra dưới chân mình, gượng đáp, “Trưởng Tôn hoàng hậu thông tuệ hiền thục, được Thái Tông hoàng đế kính yêu suốt kiếp, điện hạ đương nhiên cũng có thể như bà ấy, được sủng ái một đời.”
“Hừ… giờ nói gì cũng muộn rồi, Dương công công à. Nếu từ đầu ngươi lanh lợi được bằng phân nửa bây giờ, hẳn đã biết có những chuyện nên nói, có chuyện không nên nói, có những chuyện quyết định cả sinh mạng của ngươi!”
Lời hoàng hậu vang vọng bên tai cô như sấm rền, khiến cô sực hiểu. Thân phận thật, thân phận thật ư, tên Lý Thư Bạch chết giẫm, hóa ra y muốn nói thế!
Trong nháy mắt, từ tinh thần đến tâm linh thông suốt hẳn, cô liền quỳ thụp xuống đất, dập đầu lạy hoàng hậu, đoạn thưa, “Xin điện hạ nghe một câu này của nô tài, chỉ một câu thôi, nói xong dù hôm nay có chết ở đây, nô tài cũng cam tâm tình nguyện!”
Hoàng hậu cười nhạt, chậm rãi hỏi, “Câu gì?”
Hoàng Tử Hà nhìn quanh, không đáp.
Hoàng hậu thong thả giơ tay lên ra hiệu cho mọi người lui ra đợi bên ngoài, sau đó lạnh lùng nhìn cô, chẳng nói chẳng rằng.
Hoàng Tử Hà lại dập đầu lạy hoàng hậu một lạy, rồi mới ngẩng đầu lên hỏi, “Nô tài tự biết mình cầm chắc cái chết, dù chết lúc nào ở đâu cũng có khác gì nhau? Chỉ không biết điện hạ định tội gì cho nô tài?”
“Còn cần định tội nữa ư?” Hoàng hậu khinh miệt nhìn cô, như nhìn xuống con sâu cái kiến, “Ngươi biết được bí mật lớn nhất của bản cung, đã tính là tội chết hay chưa?”
“Đương nhiên là tội chết.” Hoàng Tử Hà cung kính đáp, đoạn ngẩng đầu nhìn lên, “Song hôm nay nô tài có một câu muốn tâu lên hoàng hậu điện hạ, biết đâu sau khi nghe rồi, điện hạ lại thấy chuyện này vẫn có cơ hội vãn hồi.”
“Nói.”
Hoàng Tử Hà nghe tiếng tim mình đập như trống làng, tự biết tính mạng chỉ trông vào một câu này, mong sao lời khuyên của Lý Thư Bạch phát huy tác dụng.
Cô hít vào một hơi thật sâu, khẽ đáp, “Nô tài vẫn nhớ, ba năm trước lúc mười bốn tuổi, lần đầu tiên được điện hạ triệu kiến, bấy giờ điện hạ từng bảo nô tài rằng, nếu ta có con gái, chắc cũng trạc tuổi ngươi, cũng sẽ đáng yêu thế này.”
Ánh mắt hoàng hậu nhìn cô bỗng đờ ra, sắc mặt cũng phức tạp hẳn lên dưới ánh đèn. Làm thinh hồi lâu, người mới ngập ngừng hỏi, “Ngươi… là kẻ ba năm trước…”
Cô quỳ rạp xuống, “Tội nữ Hoàng Tử Hà, khấu kiến hoàng hậu điện hạ.”
Hoàng hậu lạnh lùng hỏi, “Ngươi biết rõ ta căm ghét ngươi, chỉ muốn ngươi chết, tại sao lại tiết lộ điểm yếu của mình cho ta?”
“Bí mật của điện hạ đã được bệ hạ khoan dung, nô tỳ tin rằng đế hậu tình cảm sâu đậm, chẳng bao lâu sẽ lại nồng nàn quấn quýt như xưa. Song bí mật này lại là việc trọng đại can hệ đến sự sống chết của nô tỳ. Nô tỳ nguyện giao cả tính mạng mình vào tay điện hạ, ngày sau nếu lo ngại nô tỳ gây điều bất lợi với người, thì chỉ cần buông một câu là đủ khiến nô tỳ chết đi hàng vạn lần, chẳng cần điện hạ đích thân ra tay.”
Hoàng hậu im lặng quan sát vẻ mặt nghiêm trang của cô hồi lâu mới từ từ đứng dậy đến bên song cửa, trông ra ánh đèn leo lét phía ngoài. Nét mặt nhìn nghiêng của người rất đẹp, như một đóa mẫu đơn trắng muốt lặng lẽ nở rộ trong đêm.
Hoàng Tử Hà câm lặng theo dõi, thầm ước tính xác suất trở mặt của hoàng hậu. Mồ hôi sau lưng vẫn chưa khô, hơi lạnh thấm vào da thịt khiến cô tê tái.
Chẳng biết bao lâu sau, cô mới nghe thấy giọng hoàng hậu, không nhanh không chậm, không nặng không nhẹ, vẫn ung dung thấp trầm như thế, vang vọng trong điện, “Có phải ngươi cho rằng chỉ cần giao tính mạng vào tay ta, ta sẽ nể tình ngươi còn có chỗ dùng được mà cho qua hết những việc ngươi mạo phạm ta lúc trước hay không?”
“Hoàng Tử Hà không dám!” Cô ngước lên nhìn hoàng hậu, thành khẩn đáp, “Song nô tỳ nghĩ, điện hạ hẳn biết rõ chuyện Thái Tông hoàng đế và Ngụy Trưng, cũng như cái tình giữa Võ Hậu và Thượng Quan Uyển Nhi ngày trước. Việc đời biến đổi, thù nhà nợ nước còn cải thiện được, miễn là nô tỳ có thể phục vụ cho điện hạ, thì chuyện xưa có quan hệ gì đâu?”
Hoàng hậu chậm rãi đi đến trước mặt Hoàng Tử Hà, nhìn xuống kẻ đang quỳ mọp dưới nền đất, ánh mắt lướt dọc người cô từng tấc, từ đầu xuống vai, xuống eo rồi xuống nữa, thật lâu sau, người phụ nữ trước giờ vẫn cứng cỏi kiên cường bỗng thở dài thườn thượt, đoạn nói, “Đã vậy, ta cứ nắm lấy cái mạng ngươi trước đã. Nếu ngày sau ngươi không chịu nghe ta sai khiến, ta hẵng thu lại cũng chẳng muộn.”
“Đa tạ hoàng hậu điện hạ khai ân!” Hoàng Tử Hà dập đầu, cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra từ tất cả các lỗ chân lông trên cơ thể. Song cô chẳng dám lau đi, chỉ bất động cúi đầu vâng dạ.
Hoàng hậu chẳng buồn để ý tới cô, trầm tư hồi lâu mới hạ giọng, “Hoàng Tử Hà, Hoàng Tử Hà… Xét ra thì, ngươi cũng có công với bản cung.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên mở to mắt nhìn hoàng hậu.
“Nếu không có ngươi, có lẽ cả đời ta cũng không biết Tuyết Sắc đã chết, càng không biết nó lại… chết bởi tay ta.” Hoàng hậu nghiến chặt răng, cuối cùng cũng khó nhọc rặn ra được mấy chữ đó, đoạn thở dài, “Nếu không nhờ ngươi vạch trần, chắc phải tới khi chết xuống suối vàng gặp con, ta mới biết mình đã gây ra tội nghiệt sâu dày như thế. Bấy giờ, ta thực không biết còn mặt mũi nào nhìn nó nữa không…”
Hoàng Tử Hà nín lặng nghĩ, vậy bà lấy mặt mũi nào xuống âm phủ gặp lại Cẩm Nô vẫn kính bà như trời, yêu bà như mẹ, gặp lại Phùng Ức Nương vì muốn đền đáp ơn bà năm xưa mà chẳng nề ngàn dặm bôn ba hộ tống con gái bà lên kinh?
“Thôi đi… Còn tính toán gì nữa.” Hoàng hậu trở lại sập ngồi xuống, kéo một chiếc đệm gấm tựa người bên cửa sổ, ngẩng đầu nhìn dòng Ngân hà sáng rực bên ngoài, ánh đèn lồng đã lụi cả, chỉ còn dòng ngân hà treo ngược vắt ngang qua phía trên cung Thái Cực, từng đốm sáng nhỏ nhoi như những hạt bụi li ti trút xuống bầu trời.
Rồi tiếng hoàng hậu lại cất lên, từng chữ từng từ như chắt ra từ tim phổi, kiên định mà lạnh lùng, “Ta đã có thể từ giáo phường bước lên ngai vị cao nhất trong cung Đại Minh thì cũng sẽ có một ngày từ lãnh cung quay trở lại! Triều Đại Đường này, trên đời này, kẻ có thể lật đổ ta, còn chưa ra đời đâu!”
Hoàng Tử Hà quỳ trước mặt hoàng hậu, lòng ngổn ngang bao cảm xúc, nhất thời chẳng biết nói gì.
Dưới ánh đèn leo lét, giữa cung điện cổ xưa lạnh lẽo hoang vu, người phụ nữ cứng rắn ấy ngồi ngắm sông Ngân ngoài cửa sổ, trong một khắc chợt đưa tay lên bưng mặt, cũng lau sạch những thứ sắp lăn xuống vào lòng bàn tay.
Đồng hồ nước tí tách nhỏ giọt, đêm dài đến đâu cuối cùng cũng sắp qua, sao sáng lung linh, sắp đến lê minh.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ dập đầu với hoàng hậu, đang định đứng dậy lui ra, lại nghe giọng người vang lên trầm thấp, “Hoàng Tử Hà, ngươi đã bao giờ rơi vào cảnh ngộ tuyệt vọng, đến mức cảm thấy chi bằng chết quách cho rồi chưa?”
“Thưa rồi… Tuyệt vọng là khi cha mẹ và người nhà nô tỳ đều qua đời, nô tỳ bị quy là hung thủ, bị truy nã khắp nơi. Song nô tỳ không nghĩ đến cái chết, mà dù có chết, nô tỳ cũng không muốn đeo theo tội danh giết hại cả nhà!”
“Nhưng ta quả thực đã từng… có lúc nghĩ đến cái chết.” Hoàng hậu lặng lẽ ngả người nằm xuống sập gấm, tấm áo lụa bảy lớp hoa lệ huy hoàng phủ lên thân mình, tơ lụa lượt là vây bọc, mái tóc đen tuôn dài như suối buông xõa xung quanh. Nhưng gương mặt trắng muốt thì lộ rõ tiều tụy cùng mệt mỏi.
“Ngươi… đã bao giờ gặp Tuyết Sắc chưa? Có phải nó rất giống ta không?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Đáng tiếc, cô ấy và nô tỳ người trước kẻ sau lỡ mất nhau ở ngoại giáo phường, chưa từng gặp mặt.”
“Ừ… Ta cũng không bao giờ còn cơ hội nhìn dáng vẻ trưởng thành của con gái nữa.” Hoàng hậu thở dài nói khẽ, “Lần cuối cùng ta trông thấy Tuyết Sắc, nó mới qua sinh nhật năm tuổi. Bấy giờ ta hai mươi ba tuổi, mà Kính Tu – chính là Trình Kính Tu luôn miệng khẳng định không để tâm việc ta xuất thân từ phường ca múa, lại nói con gái lớn lên ở nơi này tất không hay, muốn ta cùng y rời đi.”
Hoàng Tử Hà không hiểu vì sao hoàng hậu lại kể những chuyện này với mình. Nhưng thấy xung quanh lặng phắc như tờ, giữa cung điện vắng vẻ, dưới đêm dài đằng đẵng, không trông được lối trước, cũng chẳng thấy đường sau, cô ngước lên nhìn Vương hoàng hậu, bất giác sinh lòng trắc ẩn, chăm chú nghe người kể tiếp.
“Vân Thiểu Uyển tuy là kỹ viện, nhưng chỉ ca múa chứ không phải lầu xanh. Các tỷ muội đều bán nghệ nuôi thân, hết sức tự trọng. Nhưng sau mấy lần tranh cãi với Kính Tu, ta cũng đàng thuận theo y, dẫn con gái cùng y lên phương Bắc, đến kinh thành thử thời vận. Bởi y cho rằng ở Trường An rộng lớn, tài vẽ của mình nhất định sẽ có người thưởng thức. Tiếc rằng đường đi rất rối ren, lính tráng giặc cướp làm loạn, tiền bạc ta gom góp bao năm đều tiêu tán hết. Lúc đến được Trường An, chúng ta đã cạn tiền, đành thuê một túp lều ở tạm. Thoạt đầu Kính Tu cũng ra ngoài thử vận may, song y không quen biết không quan hệ, ai chịu tiến cử? Chẳng bao lâu, vì bị ghẻ lạnh ở khắp nơi, y đã vỡ lẽ, không chịu ra ngoài nữa, chỉ ngồi ở nhà oán trời trách đất. Thời ở Dương Châu, Kính Tu phong lưu hào phóng, hàng ngày chỉ cần vẽ tranh tiêu khiển, đối xử với ta cũng rất dịu dàng, nên tình cảm đôi bên mặn mà hết sức. Song vừa đến Trường An, gia đình nghèo khó trăm sự khổ, ta chợt phát hiện, thì ra người đàn ông ta tìm được, đến năng lực sinh tồn còn chẳng có. Bấy giờ Tuyết Sắc lại sinh bệnh, sống trong túp lều lạnh lẽo ẩm thấp đó, ngay cả cây trâm sương lá mà Kính Tu tặng ta làm vật định tình cũng phải đem cầm. Chúng ta ăn đói mặc rét, cơm áo còn chẳng đủ, nói gì đến việc chữa bệnh cho con… Ta ôm Tuyết Sắc chạy khắp các tiệm thuốc, song vì không có tiền nên có quỳ trước của tiệm khóc lóc van nài cũng chẳng ai để mắt. Kính Tu chạy đến lôi ta về, nói ta làm bẽ mặt, ta chỉ còn cách cả đêm ôm ấp con gái, lau người cho nó, trơ mắt nhìn nó thở khò khè, nhìn sắc trời ngoài song sáng dần lên… Bấy giờ, cũng là một đêm dài thế này, tình cảnh giống hệt, tưởng đâu chỉ cần nhắm mắt lại là sẽ buông bỏ được hết thảy tuyệt vọng…”
Chuyện đã mười hai năm, song bây giờ thuật lại, hoàng hậu vẫn cảm thấy tê tái thấu xương, thấy cõi lòng sâu kín bị rạch nát. Người phủ phục trên gối, mở to cặp mắt hoang mang thất thần, lời lẽ buột miệng mơ hồ mà hỗn loạn, như thể chỉ nói cho mình nghe.
“Tuyết Sắc phúc to mạng lớn, cuối cùng cũng vượt qua được, song Kính Tu lại vì uất ức mà ngã bệnh. Thấy cả nhà sắp bị đuổi ra đường vì không trả nổi tiền thuê căn lều rách, ta đành giấu Kính Tu một mình đến chợ Tây tìm cơ hội. Ta vẫn nhớ như in bấy giờ là mùa đông rét mướt, những chiếc lá hòe lần lượt lìa cành rơi xuống lề đường. Có một người đàn bà chừng năm sáu mươi tuổi mặc áo thô màu nâu rách nát ngồi ở cửa chợ Tây xin ăn. Bà ta ôm cây tỳ bà cũ nát đã tróc sơn loang lổ, cất giọng khản đặc hát một khúc Trường tương thủ sai lời lạc điệu. Mái tóc vừa bết vừa rối bù xõa xuống vai, càng làm nổi bật gương mặt lem luốc nhăn nheo như rêu khô chồng chất trên khối đá đã bị xói mòn. Song chẳng có cách nào khác… Tấm áo rách trên mình bà ta không che nổi cơn gió lạnh như dao cắt, bàn tay lạnh đến nứt toác, bờ môi khô nẻ tím tái, trục cây đàn tỳ bà kia cũng đã lâu không so lại, dây đèn xiêu vẹo, làm sao gảy ra được một khúc ra hồn?”
Cuối cùng, từ đôi mắt thẫn thờ của hoàng hậu cũng tuôn hai hàng lệ. Người bưng mặt nghẹn ngào, “Ngươi không hiểu được… nỗi tuyệt vọng trong lòng ta bấy giờ đâu. Hôm ấy, ta đã đứng trước mặt người đàn bà nọ rất lâu. Buổi chiều lạnh lẽo âm u như sắp mưa, chợ Tây cũng vắng ngắt. Ta nhìn bà ấy, tựa như trông thấy chính mình ba mươi năm sau, từ một đóa hoa rạng rỡ đầu cành, trở thành một nắm bã đậu khoác áo rách thều thào… Không nơi nương tựa, nghèo đói bệnh tật, cuối cùng tê tái mà thê lương chết ở đầu đường, da thịt âm thầm rữa nát, chẳng ai hay biết ta từng sở hữu dung mạo và tài hoa khiến bao người phải ganh tị…”
Hoàng hậu thở dài, run rẩy hít một hơi thật sâu, đoạn khó nhọc tiếp, “Kể từ buổi chiều hôm ấy, ta đã vứt bỏ tất cả ngây thơ, hiểu ra rằng cái gọi là tình yêu, khi đối mặt với hiện thực thì chẳng chịu nổi một đòn. Thứ ta thực sự cần không phải là cùng Kính Tu sống chết có nhau, mà là tiếp tục sống, hơn nữa còn phải sống thật đủ đầy sung sướng, vĩnh viễn không bao giờ phải ôm tỳ bà ăn xin ở chợ Tây!”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn hoàng hậu.
“Đúng lúc ấy, ta gặp một người bạn cùng học nghệ năm xưa. Cô ấy vốn ngốc nghếch vụng về, dung nhan cũng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, thường hay gảy sai, học hơn ba tháng vẫn không đàn xong một khúc. Nhưng cô ấy lấy được một người buôn trà, vận áo gấm mới tinh, bên mai gài một đóa hoa vàng thật lớn, đầu cắm bảy tám cây trâm mành mành, trông trọc phú ghê gớm, song vẫn lộng lẫy hơn ta cả trăm lần. Cô ấy ngồi trên xe ngựa, thấy ta đi bộ bên đường bèn gọi lại, tỏ vẻ thông cảm pha lẫn khoa trương, hỏi han ta sao lại lưu lạc đến nỗi này, còn hỏi ta có cần giúp đỡ, tìm cho một chân dạy tỳ bà hay không. Bấy giờ cô ấy còn chẳng buồn xuống xe, ngồi trên cao nhìn xuống cười nhạo, song ta vẫn thấy mình may mắn, bởi đã đi đến bước đường cùng, nếu không có cô ấy, ta cũng chẳng biết tiếp theo đây mình sẽ đi về đâu nữa. Cô ấy dẫn ta đến nhà họ Vương Lang Gia, giới thiệu rằng ta là họ hàng xa, vì cha mẹ qua đời nên lưu lạc đến kinh thành. Nhờ ngón đàn tỳ bà khiến mọi người thán phục, ta được giữ lại, bèn quay về sắp lấy mấy bộ quần áo, đưa cho Kính Tu chút tiền vừa được người bạn kia tiếp tế, dặn rằng khi nào phát lương tháng sẽ đưa thêm.” Giọng hoàng hậu đầy buồn bã, khẽ đến gần như không thể nghe thấy, “Lúc ấy, ta thậm chí không nói với y mình sắp đi đâu. Tuyết Sắc ôm lấy chân ta khóc lóc, ta đành nghiến răng bế thốc nó lên đặt vào lòng Kính Tu. Y chỉ lặng thinh nhìn ta. Ta ra khỏi cửa, y vẫn không nói không rằng. Ta không nhịn được ngoảng lại nhìn chồng con, song chỉ thấy Kính Tu ôm Tuyết Sắc ngồi trên giường, ráng chiều rơi rớt chiếu vào mắt y, ánh mắt trống rỗng của y cứ đăm đăm nhìn ta, đăm đăm nhìn ta, mãi đến bây giờ, vẫn rành rành trước mặt…”
Giọng nói càng lúc càng khẽ, tưởng chừng không nghe thấy nữa. Song ánh mắt lại bừng bừng một ngọn lửa đen tối, khiến người ta rúng động.
Hoàng Tử Hà không khỏi buột miệng, “Chắc hẳn lúc lìa xa Tuyết Sắc, điện hạ cũng rất đau lòng.”
“Phải, song khi đã được sung sướng, ta lại chẳng ngó ngàng gì đến nó.” Hoàng hậu đưa mắt nhìn cô, mỉm cười lạnh lùng, “Ta dạy đàn ở nhà họ Vương không lâu thì Vận vương tới chơi, vào khoảnh khắc ôm tỳ bà bước ra, ta trông thấy trong mắt vương có gì đó sáng rực lên. Lúc còn ở Dương Châu, rất nhiều người cũng nhìn ta như vậy, ta đều phớt lờ, song lúc ấy, chẳng hiểu sao, ta đột nhiên, thoáng… chỉ do dự một thoáng, rồi ta nhoẻn cười với vương, ngẩng lên với dáng vẻ đằm thắm mà Kính Tu yêu thích nhất. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, Vương Lân tới tìm ta bàn bạc, nói rằng Vận vương ngộ nhận ta là con gái nhà họ Vương, bảo ta cứ đâm lao theo lao mà vào vương phủ. Lão vốn lực bất tòng tâm trước sự lụn bại của nhà họ Vương, đúng là có bệnh thì vái tứ phương, nào biết ta xuất thân từ chốn phong trần, càng không hay ta đã có chồng có con, lại dám tìm ta bàn bạc. Nghe Vương Lân nói, ta cứ như chìm vào giấc mộng, trước mắt lóe lên hình ảnh bà già chơi đàn ở chợ Tây, gương mặt đen đúa ấy, bờ môi héo úa ấy, đôi tay khô xác ấy… Ta bèn nhận lời ngay! Bấy giờ ta tự nhủ, giống như loài thiêu thân lao vào lửa, dù có chết, ta cũng nhất định phải chết ở một nơi xán lạn huy hoàng! Việc đời thực hoang đường, mười hai năm nay, ta sống trong cung như cá gặp nước, hạnh phúc đủ đầy hơn ai hết. Ta âm thầm trừ khử người bạn năm xưa tiến cử ta vào nhà họ Vương, chỉ trong mấy năm đã làm Quách thục phi thất sủng, từ dung hoa đến chiêu nghi, lên quý phi rồi đến hoàng hậu. Nghiễm nhi của ta tuy là con thứ năm của bệ hạ, song lại được phong làm thái tử. Ta biết đời này, nơi thích hợp nhất dành cho ta chính là cung đình! Đứng trên ngôi cao, được muôn người bái lạy, dù ta không có người yêu và con gái thì có làm sao? Ta vẫn sống huy hoàng tráng lệ, khiến người trong thiên hạ phải khao khát kia mà!”
Hoàng Tử Hà nói khẽ, “Nhưng con gái lại không muốn vào kinh gặp mặt người, dù người có được tất cả, song hai tay vấy đầy máu tươi của thân thích, tỷ muội và đệ tử, lẽ vào lòng không thấy bi ai hay hổ thẹn ư?”
“Hổ thẹn? Bi ai?” Đôi mắt lạnh lùng cứng cỏi của hoàng hậu thoáng qua một tia ảm đạm. Song ngay lập tức, người đã hếch cằm, cười nhạt liếc cô, “Mười hai năm trước, ta cũng từng ngây thơ lãng mạn như ngươi, cho rằng bên cạnh có chồng có con, dù nghèo đói bệnh tật vẫn là hạnh phúc mỹ mãn. Tiếc rằng… Tiếc rằng người có thể thay đổi, lòng có thể già đi, chỉ có cuộc sống là phải vật lộn để vượt qua từng ngày! Khi ngươi đứng trước bước đường cùng, ắt sẽ hiểu ra tất cả!”
Hoàng Tử Hà làm thinh hồi lâu, lại hỏi, “Bởi thế, về sau người cũng không hề gặp lại Trình Kính Tu và Tuyết Sắc ư?”
“Không hề. Sau khi quyết định bước vào Vận vương phủ, ta bèn nhờ người bạn học kia chuộc cây trâm sương lá ra, đưa đến cho họ cùng lộ phí, nói với họ rằng Mai Vãn Trí đã chết rồi, không cần tìm nữa.”
Hoàng Tử Hà im lặng đợi kể tiếp, song dường như hoàng hậu chẳng muốn kể thêm nữa, cứ ngẩn ngơ nằm duỗi người trên sập, giữa cung điện huy hoàng, thẫn thờ chìm vào hồi tưởng, thật lâu, thật lâu sau mới cúi nhìn xuống, mỉm cười thê lương. “Đúng thế, Mai Vãn Trí đã chết rồi. Từ đó trở đi, cô ta vừa sợ vừa hận tỳ bà, không bao giờ đụng đến nữa. Trên đời này chỉ còn Vương Thược, sống giữa thâm cung, cẩm tú phồn hoa, hạnh phúc hơn ai hết. Dù chết, ta cũng sẽ chết giữa gấm lụa lượt là, nhà cao cửa rộng. Đời này, ta đã đi đến tột đỉnh phồn hoa, muốn gì được nấy rồi.”
Giọng điệu thê lương khôn xiết, song không giấu nổi vẻ ương ngạnh.
Hoàng hậu không muốn nói thêm gì nữa, nên khẽ xua tay, cho Hoàng Tử Hà lui ra.
Có điều khi cô đứng dậy đi khỏi, lại nghe thấy hoàng hậu nói nhỏ phía sau, “Lời ta nói ba năm trước, là thật đấy.”
Cô ngạc nhiên ngoái lại, nhìn về phía người phụ nữ lạnh lùng quyết liệt kia. Hoàng hậu trầm tư cất tiếng, “Bấy giờ ta thấy ngươi vận chiếc áo màu ngân hồng ánh nhũ, giữa ngày xuân phơi phới, yêu kiều tiến lại, như đóa đậu khấu mới nảy đầu cành, rung rinh trong gió. Ta chợt nghĩ, nếu Tuyết Sắc ở cạnh ta lúc này, hẳn nó cũng xinh đẹp như thế.”
Đêm ở cung Thái Cực, tĩnh mịch mà lạnh lẽo.
Hoàng Tử Hà men theo con đường lúc đến, chầm chậm rời khỏi cung điện đìu hiu ấy.
Những ngôi sao trên trời lần lượt đổi rời, đèn đuốc dọc đường ra đều đã tắt cả, tiếng côn trùng nỉ non rả rích không ngừng vang vọng giữa màn đêm yên tĩnh.
Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy vô vàn những vì sao.
Nếu nói số mệnh mỗi người ứng với một ngôi sao thì trong khoảnh khắc này, dường như vận mệnh mọi người đều chỉ là một đốm sáng nhỏ nhoi không đáng kể. Người sống trên đời chẳng khác gì rơm rác, dù sao sa như mưa, trút cả xuống đồng hoang, cũng chỉ vụt qua trong thoáng chốc, đổi được câu than thở của người ngàn vạn năm sau mà thôi.
Cô đi đến cửa cung Thái Cực, cửa ngách từ từ hé mở để cô bước ra.
Dưới bầu trời sao, giữa đêm thanh vắng, có một bóng người dong dỏng đứng đó. Y nhìn cô bước ra, vẻ mặt thản nhiên, song vào khoảnh khắc nhận ra cô, đáy mắt y tựa hồ lăn tăn gợn sóng.
Hoàng Tử Hà dừng chân, nhất thời bối rối.
Y bèn tiến lại phía cô, giọng nói vẫn lạnh lùng xa cách, “Ngây ra đó làm gì? Đi thôi.”
“Vương gia…” Hoàng Tử Hà luống cuống thốt, ngẩng lên nhìn những đường nét ngời ngợi dưới sao, khẽ hỏi, “Vương gia vẫn đợi tôi từ bấy ư?”
Y quay mặt đi chỗ khác, “Tiện đường ngang qua.”
Hoàng Tử Hà nhìn ra màn đêm Trường An đang giới nghiêm, không khỏi nhoẻn cười.
Lý Thư Bạch phớt lờ cô, quay người đi về phía xe ngựa.
Hoàng Tử Hà lật đật chạy theo sau, nghĩ ngợi một thoáng, không nhịn được lại hỏi, “Lỡ như… tôi chỉ nói lỡ thôi nhé, lỡ như tôi không hiểu được ý vương gia mà bị giết thật, chẳng phải vương gia uổng công đứng đợi hay sao?”
Lý Thư Bạch chẳng buồn ngoái lại, chỉ đáp, “Thứ nhất, hoàng hậu giờ đã thất thế phải vào lãnh cung, sao dám ra tay giết kẻ vạch trần thân phận bà ta như ngươi? Nếu làm vậy bà ta phải ăn nói thế nào với bệ hạ?”
Hoàng Tử Hà nghĩ bụng, mình chưa từng sống nơi cung đình, đương nhiên không biết chuyện này. Huống hồ, nếu chắc chắn không sao, thì việc gì vương gia phải ba lần đá tôi ngã xuống nước, việc gì phải đứng đây đợi suốt đêm?
“Vậy… còn thứ hai?”
“Thứ hai…” Cuối cùng Lý Thư Bạch phải ngoảnh lại, lườm cô rất sắc. Giữa đêm thanh vắng, cơn gió lộng lặng lẽ lướt qua hai người. “Nếu ngay cả ám hiệu ấy ngươi còn không hiểu được, thì đã chẳng phải Hoàng Tử Hà.”
Hoàng Tử Hà bất giác mỉm cười.
Thoát được đại nạn, đêm thực dịu dàng. Hai người ngồi trong cỗ xe lắc lư, nhằm hướng Quỳ vương phủ.
Chiếc chuông vàng trên xe đung đưa, con cá nhỏ màu đỏ lặng lẽ ngủ dưới đáy bình lưu ly, như một đóa hoa âm thầm chìm trong làn nước.
Ánh đèn trên phố theo cửa xe chầm chậm lọt vào, rồi lại chầm chậm trôi ra.
Trong xe thoắt sáng thoắt tối, bóng người khi tỏ khi mờ, thời gian âm thầm lặng lẽ.
Ánh sáng dập dềnh như ngưng đọng giữa khoảng không hai thước ngăn giữa hai người
Lúc này đây, tại cổng thành Trường An, Tiểu Thi bưng tro cốt Tuyết Sắc cũng ngẩng đầu nhìn lên dòng Ngân hà mênh mang. Nàng ghì Tuyết Sắc vào lòng, òa lên khóc lạc cả giọng.
Cách đó hơn trăm dặm, Trần Niệm Nương hối hả bỏ trốn đang lặn lội giữa đồng hoang gió lạnh. Ngẩng đầu nhìn con đường mịt mù phía trước, dòng sông Ngân trên không lấp lánh muôn sao, từ nay, bà ta chỉ còn một thân một mình trên đời, thứ duy nhất còn níu giữ được, chỉ là hai miếng ngọc nho nhỏ trong tay mà thôi.
Cửu Châu muôn dặm…
Dưới ánh trăng sao…
Bao nhiêu âm thanh…
Đều bị đêm thâu chôn vùi hết thảy.
Hết.
Bình luận truyện