Trăng Sáng Cố Hương
Chương 1: Chuyện cũ
Vầng trăng trên bầu không tỏa ánh sáng vằng vặc khắp đất trời. Tuyết phủ núi xanh, giữa không trung những bông tuyết cũng đang bay lả tả. Trong tiết đông hàn tháng Chạp, sườn núi Kỳ Sơn đáng ra phải rất trầm lặng nhưng
lại ồn ã tiếng người cùng tiếng bước chân rậm rịch. Những đuốc lửa bập
bùng chiếu xuyên núi rừng, chợt sáng chợt tối giữa trùng trùng bóng cây.
Lội trên tuyết giữa rừng sâu, hai cái bóng một lớn, một nhỏ đi nhanh qua những gốc tùng xanh cao vút. Kẻ lớn hơn là một thiếu niên độ mười ba, mười bốn tuổi, trên lưng đeo một cây trường thương màu bạc, ăn mặc khỏe khoắn theo lối võ nhân (*) với bộ đồ màu lam. Cậu sải chân chạy nhanh, chiếc ủng da đang lướt đi trên tuyết dính đầy bùn nước, ngoài những mảng tuyết chưa tan còn có cả vết máu loang lổ. Cặp lông mày của cậu nhíu chặt, gương mặt thanh tú, đẹp đẽ nhưng vẫn còn nét non nớt giờ đây tràn ngập vẻ oán hận không thể che giấu được. Kẻ nhỏ hơn trông mới khoảng tám, chín tuổi, là một cô bé ngây thơ. Trong đôi mắt to, đen láy của cô ngân ngấn nước, trên má vẫn còn đọng giọt nước mắt chưa kịp lau khô. Tuy còn nhỏ nhưng cô không kêu một tiếng, cứ mải miết chạy theo thiếu niên kia. Hơi thở hổn hển ấm nóng bên khóe miệng, hơi khói thở ra chớp mắt bị gió bấc thổi đi, biến mất tăm trong đêm tuyết rơi giữa buổi đông hàn.
(*) Võ nhân tức là người luyện võ.
Tuyết rơi lả tả mịt mù, từ trong màn đêm chậm rãi buông xuống. Con đường núi đã phủ một lớp tuyết dày, hai hàng dấu chân một lớn một nhỏ hiện lên càng rõ nét. Thiếu niên vừa chạy vừa ngoảnh đầu lại, nhìn thấy những dấu chân ấy, giận đến nghiến chặt hàm răng, lại nhìn cô bé sau lưng mình, chiếc áo bông màu đỏ cô mặc trong đêm đông càng nổi bật giữa núi rừng đầy tuyết trắng. Cậu túm chặt lấy tay cô bé, giận dữ nói: “Cởi ra!”, rồi lập tức giật chiếc áo ấm của cô bé ra, ném xuống ven đường. Kế đó, cậu cầm lấy tay cô bé, ôm cô vào lòng rồi lại chạy mải miết vào rừng sâu.
Không bao lâu sau, một toán hơn hai chục quan binh đã đuổi đến chỗ đường rẽ. Bọn chúng giơ cao đuốc lửa, soi con đường núi tưởng chừng không còn gì có thể ẩn trốn được, nhưng những cành tùng xù xì dưới ánh lửa bập bùng hiện thành những bóng hình kỳ dị, dường như đang che giấu một điều gì đó. Dẫn đầu là một viên quan râu quai nón, hắn liếc nhìn cái áo đỏ vứt bên đường, giơ cây roi ngựa trong tay, dặn bảo: “Tiểu Tứ, dẫn theo mười người tìm kiếm ở đây cho ta! Những người còn lại theo ta đuổi tiếp!”
Tiếng ra lệnh, tiếng vâng dạ, tiếng đuốc lửa cháy lép bép, tiếng chân lội trên tuyết, trong đêm Kỳ Sơn yên tĩnh lại càng nghe rõ khiến những con quạ giật mình tung cánh bay lên, làm cành thông rung rinh, những bông tuyết rơi lả tả. Võ nhân trẻ tuổi bế cô bé, rảo bước đi nhanh qua rừng không ngừng nghỉ, những bông tuyết rơi trên tóc, trên lông mày của cậu, chẳng mấy chốc đã hóa thành những viên ngọc bằng nước óng ánh, từ trên má lăn xuống.
”Huynh biết võ công...” Đó là giọng nói non nớt của cô bé đang được cậu ôm chặt trong lòng. Cô bé ấy lẽ ra phải bị biến cố lớn vừa xảy ra trong nhà dọa chết khiếp, vậy mà giờ đây lại bình tĩnh đến kỳ lạ, giọng nói yếu ớt, trẻ con của cô lại cất lên: “Huynh biết võ công, huynh hãy trốn đi. Muội không biết võ công, bọn chúng sẽ không làm gì muội đâu.”
”Im nào!” Thiếu niên dằn giọng thốt ra hai từ, gạt đi ý kiến của cô bé.
Trong khi nói chuyện, bước chân của cậu vẫn không hề dừng lại. Những tiếng bước chân dồn dập phía sau càng lúc càng gần, cậu một tay ôm cô bé, một tay vòng ra sau rút cây trường thương rồi mím chặt môi. Sau một hồi giằng co suy nghĩ, cậu ném mạnh cây trường thương đi.
Cây trường thương bạc phản chiếu ánh trăng, chớp lóe lên rồi chìm vào trong tuyết bay đầy trời.
Chính lúc ấy, hơn chục quan binh cũng đuổi kịp theo bước chân của thiếu niên. Tên râu quai nón vung roi roi ngựa, một tiếng “vút” vang lên trên không rồi chiếc roi đánh thẳng vào lưng cậu. Thiếu niên kêu “hức” một tiếng, chân bước loạng choạng, ngã nhào về phía trước, nhưng cậu vẫn kịp thời co hai tay lại, ôm chặt cô bé vào lòng.
Hai người ngã vào lớp tuyết dày, vụn tuyết dính đầy trên đầu, trên mặt họ. Cùng lúc ấy, đám quan binh đã vây quanh hai người. Ánh lửa rọi lên khuôn mặt hai đứa trẻ, soi rõ vẻ không chịu khuất phục của cậu thiếu niên.
”Chúng tôi đều không biết võ công, ông là bậc đại nhân làm quan lại đối phó với hai đứa trẻ tay không tấc sắt mà không thấy xấu hổ ư?” Thiếu niên lớn tiếng chất vấn. Cậu giơ hai tay che chắn cho cô bé sau lưng, ngăn chặn ánh mắt dò xét của tên râu xồm.
”Ha ha!” Tên râu xồm cười nhạt một tiếng. “Truyền nhân của Tùy gia thương được xưng tụng là Trung Nguyên đệ nhất thương mà lại bảo là không biết võ công. Tên tiểu tử miệng còn hơi sữa ngươi tưởng ta là đứa trẻ lên ba sao?”
Lời nói còn chưa dứt, hắn lại vung roi. Cây roi vụt vào bên má trái thiếu niên, một lằn máu lập tức nổi lên, rồi máu tươi lăn xuống theo gò má xương gầy, đông lại dưới cái cằm đầy tuyết và bùn đất của cậu, hòa thành một khối nhem nhuốc. Bùn, máu cùng với bộ dạng lôi thôi bẩn thỉu vẫn không thể che giấu được thần sắc kiên định trong mắt cậu. Cậu không hề chớp mắt, nói lớn: “Tùy gia thương từ xưa đã có lời tổ huấn, chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ, điểm này ông ta có thể làm chứng cho ta!”
Thiếu niên dứt khoát chỉ tay vào một người đứng bên cạnh tên râu xồm, đó là một văn sĩ trẻ tuổi mặc áo xanh. Văn sĩ ấy búi tóc cao, vẻ mặt tuấn tú, rất có khí chất nho nhã. Nhưng khi bắt gặp ánh mắt của thiếu niên, trong giây lát, văn sĩ dường như có vẻ sợ sệt, ánh mắt cũng lộ vẻ ngượng ngùng. Lúc sau, văn sĩ chắp tay, quay sáng vái viên quan râu xồm, nói:“Triệu Thống lĩnh, người này nói không sai, Tùy gia thương đích thực có lời tổ huấn rằng chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ. Tùy Vân Hy tuy là con gái duy nhất của chưởng môn Tùy Đồng Phủ, nhưng đích xác không biết chút võ công nào.”
Tên râu xồm được gọi là “Triệu Thống lĩnh” lừ mắt nhìn vị văn sĩ rồi quay sang thiếu niên đang che chắn cho cô bé sau lưng, trầm giọng nói: “Nếu đã như vậy, ta sẽ không động đến tiểu nha đầu kia, nhưng tiểu tử này thì phải đưa đi lưu đày.”
”Dựa vào cái gì?” Thiếu niên giận dữ hỏi. “Thái Bình Ước đã có lệnh, võ nhân nếu không quy thuận thì có thể xử theo luật pháp, đày ra ngoài biên ải, nhưng ta chẳng qua chỉ là một người làm công của Tùy gia, không biết chút võ công nào, chỉ là kẻ bình dân áo vải, ông dựa vào cái gì mà bắt ta chịu hình phạt lưu đày? Thân là thống lĩnh, lẽ nào ông lại định kháng chỉ ư?”
”To gan!” Triệu Thống lĩnh giận dữ vung roi, chỉ nghe thấy tiếng gió kêu vút, cây roi dài đã đánh mạnh vào người thiếu niên.
Thiếu niên không tránh né, cây roi quét một đường dọc theo thân người cậu, đánh cậu bật ra xa, đập mạnh vào thân cây tùng rồi lại rơi xuống tuyết. Cành tùng rung rinh khiến tuyết rơi xuống, phủ cả lên mình cậu.
Cô bé con sải bước chân chạy lại, giơ cánh tay nhỏ bé che cho thiếu niên ở sau lưng mình. Cô còn bé quá, lại mặc chiếc áo đơn, giữa trời đông hàn càng lộ vẻ mỏng manh. Nhưng cô bé chưa đầy mười tuổi ấy vẫn gắng gượng đứng đó, nhìn thẳng vào viên quan có gương mặt dữ tợn dưới ánh lửa bập bùng, nói câu nói dối đầu tiên trong đời: “Ta có thể làm chứng, huynh ấy chỉ là người làm công thôi, không hề biết võ công.”
Cô bé tuy không biết nói dối nhưng vẫn cố dằn lòng, trừng mắt nhìn vị đại hán dữ tợn như cọp, không để lộ nửa phần sợ hãi. Triệu Thống lĩnh chăm chú nhìn cô bé hồi lâu, lại quay sang nhìn thiếu niên sau lưng cô. Tuy đã bị đánh đến mức miệng thổ máu tươi nhưng ánh mắt của cậu vẫn toát ra vẻ bất khuất, sự phẫn nộ và thù hận nhuốm đầy trên mặt. Tên râu xồm cười nhạt, rồi bỗng quay sang bọn thuộc hạ bên cạnh, hất hàm nói: “Dẫn đi, ta muốn xem xem rốt cuộc nó có biết võ công hay không!”
Một tên lính chạy đến bên cạnh thiếu niên, túm tay cậu định lôi đi. Cô bé lo sợ, nước mắt lưng tròng, đôi tay nhỏ yếu ôm chặt lấy chân tên lính định ngăn hắn lại, nhưng lại bị hắn lôi theo trên nền tuyết.
Thiếu niên bị kéo tay đi, đưa mắt nhìn xuống cô bé mặc áo mỏng manh, ánh mắt lộ vẻ quyết liệt. Sau giây lát, cậu bỗng vươn cánh tay trái, rút cây đại đao đeo bên mình tên lính, chém một nhát lên tay phải của mình.
Tay bị đao vung chém, máu tuôn ba thước.
Trong khoảnh khắc, trời đất không một tiếng động.
Cô bé lặng người nhìn cảnh tượng trước mắt, cánh tay phải chỉ vì luyện võ mà xuất hiện những vết chai giờ đã rơi xuống tuyết. Tuyết trắng tinh khôi khiến những giọt máu đỏ tươi càng nổi bật đến kinh hoàng.
Thiếu niên túa đầy mồ hôi lạnh. Tay trái bịt chặt lấy cánh tay phải đã bị chặt đứt của mình nhưng máu tươi vẫn không ngừng túa ra từ những kẽ tay. Cậu hổn hển thở dốc, cuối cùng cắn chặt răng, run rẩy nói: “Ta không biết võ công, giờ đây lại là kẻ tàn phế mất tay, còn nói gì đến chuyện múa đao đánh thương. Ông đã tin rồi chứ?”
Tên râu xồm còn định nói gì đó thì chợt nghe thấy văn sĩ bên cạnh hít sâu một hơi rồi bước đến trước mặt mình, cúi người vái, nói: “Triệu Thống lĩnh, tại hạ xin làm chứng, hai đứa bé này đều không biết võ công, xin ngài hãy tha cho bọn chúng!”
Nói rồi, văn sĩ quỳ xuống trước mặt hắn. Nghe ông ta khẩn cầu, tên râu xồm trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng khẽ gật đầu, hạ giọng nói một tiếng: “Tha.”
Trong gió bấc, ánh đuốc chập chờn. Khi tên lính cuối cùng cầm đuốc đi khỏi nơi ấy thì ánh lửa chập chờn cũng biến mất phía sau núi rừng trùng trùng điệp điệp. Rừng thông lại trở nên yên ắng, ánh trăng vằng vặc, những bông tuyết lặng lẽ, nhởn nhơ rơi xuống đỉnh núi Kỳ Sơn tĩnh mịch.
Trên nền tuyết tinh khôi, vệt máu ngoằn ngoèo, bông tuyết nhẹ rơi xuống cũng dần dần hòa tan vào dòng máu nóng. Lại có những bông tuyết lặng lẽ rơi, bám trên đôi mi dài của cô bé, hóa thành những hạt ngọc tuyết long lanh, lăn trên má.
Cô bé run rẩy vuốt ve cánh tay bị đứt vẫn còn hơi ấm, bàn tay bé nhỏ lập tức dính đầy máu tươi. Cô đưa mắt nhìn thiếu niên vẫn thường mắng mình là “đồ ngốc”, thấy gương mặt cậu tái nhợt, mồ hôi ướt đầm. Cô chậm rãi nắm chặt lấy cánh tay đứt rời của cậu trong bàn tay bé nhỏ của mình. Trong tiếng thút thít bị gián đoạn bởi gió bấc, loáng thoáng nghe thấy câu hỏi đứt quãng: “Vì...vì sao...Dù là đi đày cũng được...không thể chết...cũng không thể thế này...”
”Nha đầu ngốc!” Sắc mặt thiếu niên nhợt nhạt, cậu trừng mắt nhìn cô, thở dốc hồi lâu mới nói tiếp: “Ta đã hứa với mẹ, quyết không bỏ rơi muội.”
”Muội, Tùy Vân Hy muội, cũng sẽ không bỏ rơi huynh đâu.”
Cô bé nói to lời hứa. Cô bỏ cánh tay đã bị đứt lìa xuống đất, bàn tay nhỏ túm lấy vạt áo của mình đưa vào miệng, dùng răng xé mạnh. Phải vừa nhay vừa xé, cô mới xé được một mảnh vải, băng thật chặt cánh tay tàn phế đang đầm đìa máu của thiếu niên.
Thiếu niên gắng gượng đứng vững, dắt cô bé bằng cánh tay trái còn lại. Cậu lê bước dưới rừng tùng, tìm đến chỗ mình vứt cây thương bạc khi nãy, dùng một tay nhổ cán thương ngập sâu trong tuyết, đeo nó lên lưng rồi lại giặt cô bé đi giữa đêm tháng Chạp lả tả tuyết rơi, bước vào chốn giang hồ mịt mù mưa gió.
Ánh trăng vằng vặc, soi lên hai cái bóng một lớn, một nhỏ, soi lên cây thương bạc đeo sau lưng thiếu niên. Những dây tua đỏ trên đầu cây thương phất phơ bay trong gió bấc, giữa những bông tuyết trắng ngần, sắc đỏ càng thêm tươi đẹp.
Còn cánh tay đã đứt lìa thì ngày càng bị tuyết phủ dày thêm, cùng với vệt máu ngoằn ngoèo khuất dần trong tuyết trắng mênh mông, cuối cùng chìm hẳn vào đêm đen vô tận.
Ngày Hai mươi bảy tháng Chạp năm ấy là một ngày mà Tùy Vân Hy suốt đời không quên. Trên núi Kỳ Sơn bất ngờ nổi lên giông tố, cảnh bình yên suốt mấy trăm năm cuối cùng đã bị một mảnh giấy làm cho tan nát.
Mùa đông năm ấy dường như đến sớm một cách kỳ lạ. Vừa bước vào tháng Chạp, tuyết đã bay phấp phới đầy trời, phủ lên đỉnh núi xanh một tấm áo dệt từ tuyết trắng. Cành tùng xanh sẫm bị tuyết đè nặng trĩu, mỗi khi có cơn gió bấc, những bông tuyết nơi đầu cành lại lả tả rơi, bám đầy trên đầu, trên mặt cô bé đứng dưới đất.
Cô bé đứng dưới gốc tùng tuyết chính là Tùy Vân Hy mới vừa tám tuổi. Cô mặc một chiếc áo màu đỏ tươi, đó là chiếc áo bông mà bà Khương may cho cô để chuẩn bị đón năm mới. Khuôn mặt nhỏ bé của cô bị gió lạnh làm cho đỏ ửng. Bông tuyết bám trên đầu mũi đã đỏ hồng vì giá lạnh khiến cô chợt cảm thấy lạnh buốt. Cô ngẩng đầu, đôi mắt to rất có thần thái nhìn lên bức tường cao vút bên cạnh mình.
Từ bên trong tường vọng ra những tiếng hiệu lệnh rất có nhịp điệu, tựa như có người đồng thanh hô. Cô bé Vân Hy ghé tai nghe một lúc rồi bám bàn tay nhỏ lên cây tùng tuyết bên tường, khẽ “dô ta” một tiếng như để cổ vũ cho mình, lát sau đã trèo lên trên cây tùng cao chót vót. Bàn tay nhỏ bé gạt những đám tuyết đọng, bám chắc lấy chạc cây. Cô bé lấy hết sức, khó khăn lắm mới leo được tới đầu cành, cuối cùng cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng phía bên trong bức tường.
Hơn ba chục nam tử đứng xếp hàng ngay ngắn trong sân. Bọn họ thực hiện mỗi khẩu lệnh một động tác, hoặc bước vòng lên trước hoặc đưa tay về sau, đồng loạt múa cây trường thương trong tay. Dẫn đầu là hai người đàn ông trung niên, một người mái tóc đã hoa râm, thần thái nghiêm nghị, ít thấy nói cười. Một người để chòm râu dài, thi thoảng lại cầm cây thương bạc trong tay chỉ về phía đám đệ tử trong sân, hướng dẫn động tác cho họ. Dưới sự chỉ huy của hai người, tất cả đệ tử trong sân đều chuyên tâm dốc sức, không dám có nửa phần trễ nải. Tuy đang giữa ngày đông nhưng họ vẫn luyện tập chăm chỉ, mồ hôi túa ra như tắm.
“Thanh Tùng Phúc Tuyết(*)!”
(*) Thanh Tùng Phúc Tuyết có nghĩa là tuyết phủ thông xanh, ở đây là tên một chiêu thức võ công.
Cùng với tiếng hô của vị có mái tóc hoa râm ấy, tất cả đệ tử trong sân đồng thanh hô vang một tiếng: “Hây!”, rồi tung mình nhảy lên, trường thương trong tay như con rồng bạc quật mạnh xuống đất làm bụi tuyết tung lên mù mịt.
Vị râu dài đi vào giữa đội ngũ, thỉnh thoảng lại chỉ bảo cho đệ tử. Còn vị đại hán cao lớn, nhiều tuổi hơn một chút thì bước đến trước mặt một thiếu niên khoảng mười ba, mười bốn tuổi, trên khuôn mặt nghiêm nghị lúc này lại lộ ra nét vui cười. Ông khẽ gật đầu, mỉm cười nói: “Hằng nhi, làm tốt lắm!”
“Đa tạ chưởng môn sư bá!” Thiếu niên được gọi là “Hằng nhi” vẫn đang đứng thẳng lưng, giữ đúng động tác chiêu thức nhưng vẫn đủ sức đáp lời.
“Sư huynh, huynh đừng khen thằng nhóc ấy nữa kẻo làm nó phổng mũi đấy!” Người râu rậm cười nói khiến thiếu niên ấm ức lẩm bẩm trong miệng: “Cha, cha đừng nói lung tung!”
Những bông tuyết âm thầm bay đầy xuống sân, và cũng rơi xuống cây tùng bên ngoài bức tường. Cô bé bám chắc trên cành cây, lặng lẽ nhìn phụ thân mình với hai bên tóc mai đốm bạc, thấy nét vui cười hiếm có trên gương mặt ông, tự nhiên cô siết chặt nắm đấm.
Nếu cũng có thể học võ, cô nhất định sẽ cố gắng hơn Khương Hằng, nhất định không để phụ thân và Khương sư thúc thất vọng. Nhưng… cô chỉ có thể đứng đằng xa nhìn thế này thôi, vĩnh viễn không được bước vào Diễn Võ đường nửa bước…
Cô bé cúi xuống, để mặc tuyết rơi trên mái tóc mềm mại. Những bông tuyết giữa tiết đông hàn lạnh đến độ làm cho chân tay cô cóng buốt, những cơn gió bấc thổi khiến khuôn mặt cô đỏ lựng, nhưng dường như cô không hề sợ lạnh, vẫn bám chặt lấy cành thông, mở to hai mắt, ghi nhớ tất cả những động tác của đám đệ tử trong sân.
Xem liền một mạch hơn một canh giờ, khi vị chưởng môn của Tùy gia thương là Tùy Đồng Phủ tuyên bố kết thúc bài tập buổi sáng, bàn tay cô bé đã lạnh cóng đến độ không cử động được nữa. Đệ tử trong sân cầm thương, cung kính đứng tiễn chân chưởng môn Tùy Đồng Phủ cùng sư đệ của ông – Khương Tử Dã rời khỏi Diễn Võ đường, sau đó mới từ từ giải tán. Chỉ có vị thiếu niên tên gọi Khương Hằng còn đứng lại trong sân, đến tận khi mọi người đã đi hết, cậu mới ngẩng đầu nhìn về phía cây tùng tuyết, nhíu mắt lại, dường như có vẻ hơi tức giận.
Chốc lát sau, cậu nâng cây thương bạc trong tay, nhắm thẳng ngọn cây tùng tuyết, lấy sức phóng mạnh.
Ánh bạc sáng lóe, rạch bầu không phi tới. Cô bé Vân Hy sợ hãi run người, hoảng hốt cúi đầu định trốn. Cây thương tất nhiên không nhắm vào cô, nhưng mũi thương cắm mạnh vào cành tùng, đủ làm cây tùng cổ thụ trăm tuổi phải lay động, cành tùng mà cô bé đang ngồi cũng rung lên bần bật. Cô bé Vân Hy không biết võ công, ngồi không vững, bất ngờ rơi từ trên cây xuống đất, cả người ngã sấp vùi mặt vào trong lớp tuyết dày. Cú ngã ấy làm cành tùng lại rung mạnh, những bông tuyết bám trên lá tùng lả tả rơi xuống gần như phủ kín toàn thân cô bé.
Khương Hằng đắc ý nhướng đôi hàng lông mày, chậm rãi đi ra ngoài cửa lớn của Diễn Võ đường, nhìn tác phẩm của mình với vẻ vô cùng đắc ý.
Cô bé Vân Hy đáng thương vẫn bị vùi mặt trong tuyết, hồi lâu mới định thần lại được, ngẩng khuôn mặt dính đầy tuyết, cuống quýt lau mấy cái rồi tức giận nhìn kẻ gây sự, trách móc bằng giọng trẻ con: “Huynh thật quá đáng! Muội sẽ mách Khương ma ma!”
Thiếu niên “hừ” một tiếng bằng giọng mũi vẻ không thèm chấp, lại tung mình nhảy lên, cước bộ điểm nhẹ thân tùng, rồi như một con vượn núi, thoăn thoắt bay liền mấy bước lên đến ngọn tùng. Cậu rút cây thương bạc đã cắm ngập sâu ba tấc vào thân tùng, rồi xoay người một cái nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, đưa đôi mắt phượng mảnh dài liếc về phía cô bé, cười nhạt vẻ không hề thân thiện, nói: “Được thôi, cứ đi mà mách. Chỉ có điều đến khi ấy, cha mẹ ta, lại còn chưởng môn sư bá, hỏi rằng làm sao muội lại trèo lên cây thì đừng trách ta nói ra sự thực rằng có người học lén võ công.”
“Huynh nói bừa, đâu phải muội học lén võ công! Cha muội là chưởng môn, sao muội lại không thể học võ công của ông!” Cô bé Vân Hy tức giận giậm chân.
Khương Hằng giơ ngón tay trỏ, ấn mạnh vào trán Vân Hy, nói bằng giọng châm chọc: “Đồ ngốc, đã nói bao nhiêu lần rồi, Tùy gia thương đã có lời tổ huấn, chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ. Có bản lĩnh thì muội đi tìm sư tổ dưới âm phủ mà cãi lý!”
Câu nói ấy khiến Vân Hy không nói được gì nữa, chỉ biết xoa xoa chỗ trán bị ngã đau, ấm ức nhìn chằm chằm vào thiếu niên hơn mình năm tuổi đang đứng trước mặt.
Tùy Vân Hy là con gái duy nhất của Tùy Đồng Phủ – chưởng môn Tùy gia thương, từ nhỏ sinh ra ở Kỳ Sơn, lớn lên ở Kỳ Sơn, đã quen với cảnh cha mình cùng các vị sư huynh luyện quyền, múa thương. Nhưng các sư huynh chưa bao giờ gọi cô một tiếng “sư muội”, bởi vì chỉ có duy nhất cô bé là không phải thành viên trong môn phái. Tùy gia thương chú trọng sự cương mãnh, vốn không phù hợp cho nữ nhi tập luyện, sư tổ lại có lời răn: “Chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ”, nên cho dù Tùy Đồng Phủ thân là chưởng môn cũng không thể vi phạm lời tổ huấn. Nhưng cô bé Vân Hy từ nhỏ đã nghe thấy nhiều nên rất hiếu kỳ và hứng thú với môn công phu này, cô cũng từng cầu xin phụ thân cho mình được học thương, nhưng phụ thân xưa nay luôn yêu chiều cô lại nghiêm mặt, lớn giọng ném ra hai từ: “Vớ vẩn!”
Cô bé Vân Hy không chịu thua, trèo lên cây nhìn trộm vào Diễn Võ đường, ghi nhớ các chiêu thức võ công rồi về phòng mình tập trộm. Nhưng có một lần, cũng vào một ngày đông lạnh lẽo thế này, cô trèo lên cây xem lâu quá, ngón tay bị lạnh cứng không thể động đậy, thành ra muốn trèo xuống cũng không được. Cô muốn gọi người cứu nhưng lại sợ cha biết chuyện sẽ trách mắng nên lo lắng đến phát khóc. Đúng lúc ấy Khương Hằng đi ngang qua, bị giọt lệ của cô rơi đúng vào mặt, sau khi châm chọc thỏa thuê những câu như: “Ngốc thì chết, không có bản lĩnh còn học người ta trèo cây”, “Muội cứ chết cóng trên cây đi, đó là báo ứng của việc muội học lén võ công đấy”…, cuối cùng mới bế cô xuống. Sau khi Vân Hy cầu xin hết lần này đến lần khác, Khương Hằng mới không nói chuyện này cho phụ thân mình là Khương Tử Dã – sư đệ của Tùy Đồng Phủ biết, đổi lại, cậu lại ra một điều kiện bất bình đẳng.
“Không nói cho cha ta và chưởng môn sư bá biết cũng được.” Khi ấy Khương Hằng khoanh tay vẻ dương dương tự đắc, nhướng mắt nhìn Vân Hy. “Nhưng muội phải đồng ý với ta một điều kiện.”
“Được, chỉ cần huynh không nói cho cha muội biết, điều kiện gì muội cũng bằng lòng!” Cô bé vội vàng đồng ý.
Nói thực lòng, Khương Hằng nhất thời cũng chưa nghĩ ra được cái gì có thể có lợi cho mình, nhưng nếu đường đường chính chính nói là vẫn chưa nghĩ ra thì thật mất mặt, cậu bèn cố làm ra vẻ thần bí nói: “Đức Phật có câu: “Bất khả thuyết”(*), khi nào thời cơ chín muồi, ta sẽ nói cho muội biết. Muội phải nhớ cho kỹ đấy, không được chối đâu!”
(*)Không nói được.
“Không chối, không chối, tuyệt đối không chối.” Cô bé vội giơ ngón tay út ra. “Ngoắc ngón tay ghi nhớ, Vân Hy tuyệt không nuốt lời.”
Ngón tay thiếu niên vì luyện võ nên đã hơi có vết chai, ngoắc vào ngón tay nhỏ mềm của cô bé, giật mạnh ba lần.
Trong tuổi thơ của mình, họ đã có một lời hứa hẹn nho nhỏ. Nhưng có nằm mơ họ cũng không ngờ được rằng, lời hứa hẹn nho nhỏ ấy lại là một sai lầm đáng tiếc trong suốt cuộc đời của họ.
Kết thúc cuộc đời, khi Tùy Vân Hy lưng đeo cây thương bạc, bước vào Diễn Võ đường thì người thiếu niên từng ngoắc tay ghi nhớ với cô khi xưa đã gần trong gang tấc mà cách nhau trời vực, càng ngày càng xa. Hai người không tiếc tính mạng để đổi lấy lời hứa của mình, trong giang hồ loạn thế mưa gió tơi bời này, đã làm nên một khúc bi ca hào sảng.
Nhưng lúc đó, trong ngày tháng Chạp tuyết bay đầy trời ấy, hai đứa trẻ bọn họ lại có thể chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt không đâu mà tranh cãi với nhau. Vân Hy kêu to: “Khương Hằng, huynh đợi đấy! Rồi có một ngày, muội sẽ đánh bại huynh!” Còn thiếu niên thì cúi người, thuận tay bốc nắm tuyết dưới chân, vo lại thành nắm tròn xoe rồi cười ranh mãnh, túm lấy cái áo bông màu đỏ của Vân Hy, nhét nắm tuyết vào sau cổ áo của cô bé.
“Ối!” Vân Hy bị lạnh buốt, kêu to mấy tiếng, đôi tay nhỏ vội vàng thò vào trong áo nhưng làm thế nào cũng không thể moi nắm tuyết ra được. Khương Hằng đắc ý cười ha hả, Vân Hy lập tức bốc tuyết lên trả thù. Cô bé ném về phía Khương Hằng hết nắm tuyết này đến nắm tuyết khác, nhưng cậu vẫn dễ dàng tránh được. Cuối cùng lại là cô bé áo đỏ cầm tuyết đuổi theo cậu thiếu niên áo lam cao gầy, ầm ĩ khắp đồng khắp núi. Chiếc áo đỏ như lửa, trên sườn núi Kỳ Sơn trắng xóa mênh mang, y hệt như một đốm lửa di động, vô cùng nổi bật, vô cùng bắt mắt.
Nhưng đến một ngày, những năm tháng vui tươi trên núi đã bị một tờ giấy lụa phá sạch.
Đó là một tờ công văn được gọi là “Thánh dụ”, trên đó viết ba chữ lớn: “Thái Bình Ước”.
Khi Tôn Bồi Nguyên – một văn sĩ trẻ đã thi đỗ tiến sĩ, làm quan huyện Bình Dao và cũng là bạn cũ của Khương Tử Dã, dẫn Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn mang theo Thánh dụ lên Kỳ Sơn, muốn giải thích những cái hay của Thái Bình Ước cho bạn cũ, thì đúng vào thời gian đệ tử của Tùy gia thương đang ăn cơm tối.
Mặt trời chiều ngả về tây, tuyết bay lất phất, những bông tuyết dưới ánh nắng cuối ngày tạo thành một bức tranh khác lạ. Các đệ tử húp những bát cháo nghi ngút khói, bỏ thêm củ cải muối và thịt muối, vừa ăn vừa trò chuyện, không biết vì sao lại nói đến chuyện kế thừa ngôi vị chưởng môn.
“Sư phụ cũng thật là… Sư nương đã qua đời bao nhiêu năm rồi mà vẫn không chịu tục huyền.” Một đệ tử lắc đầu nói. “Sư phụ cũng không có huynh đệ, chỉ có một mình Vân Hy lại là con gái, e rằng sau này Tùy gia thương không có người kế thừa mất!”
“Ai nói chưởng môn sư bá không có huynh đệ? Sư phụ chúng ta không phải ư?” Một đệ tử theo học Khương Tử Dã nghe thấy thế thì không vui, lập tức vứt bát cháo, đập bàn nói. “Ai nói Tùy gia thương không có người kế thừa, luận về võ công thì sư phụ chúng ta cũng không kém gì chưởng môn sư bá!”
“Về chỗ của ngươi đi, chúng ta học cái gì nào? Tùy gia thương! Đó là thương pháp tổ tiên Tùy gia truyền lại, Khương sư thúc dù có giỏi hơn đi nữa thì sao, có thể đổi thành họ Tùy được không?”
Thấy hai nhóm đệ tử tranh cãi kịch liệt, một người bên cạnh đưa cùi chỏ huých Khương Hằng, cười nói: “Tranh cãi nhau cái gì, có gì phức tạp đâu! Sau này cứ cho Khương sư đệ lấy Vân Hy muội muội, gửi rể ở Tùy gia, thế là vấn đề kế thừa coi như ổn thỏa!”
“Hừ, ai thèm lấy nha đầu ngốc ấy chứ!” Khương Hằng bĩu môi với người kia, nói vẻ bất cần. “Ta là trưởng tử của Khương gia, há có thể sống nhờ dưới cửa người khác? Huynh muốn làm chưởng môn thì tự mà gửi rể, lấy nha đầu ngốc ấy đi!”
Câu nói ấy vừa vặn bị Vân Hy đi ngang qua nghe thấy. Cô bé còn nhỏ nên không hiểu những câu phức tạp đó, chỉ ngẩng mặt lên, ngờ nghệch hỏi: “Gửi rể là cái gì, có ăn được không?”
Tất cả đệ tử ở đó đều ôm bụng cười. Khương Hằng càng không nể nang, đập tay vào trán Vân Hy, mắng: “Ăn, ăn, ăn… Chỉ biết có ăn thôi! Muội đúng là ngốc chết đi được, còn ngốc hơn cả heo!”
Tiếng cười vang rộn cả núi, bỗng dưng bị một loạt tiếng ngựa hí phá tan. Chốc lát sau, ngoài sơn môn có tiếng đập cổng ầm ầm, rồi một giọng nói thô lỗ quát to: “Chưởng môn Tùy gia thương nghe lệnh, mau mở cửa nghe chỉ dụ!”
Nghe thấy tiếng quát, hai sư huynh đệ Tùy Đồng Phủ, Khương Tử Dã đang ngồi chơi cờ ở nhà trong, cùng sóng bước đi ra sân ngoài. Được chưởng môn gật đầu ra lệnh, một đệ tử chạy ra mở cổng. Then gỗ vừa tháo, lập tức có người đẩy mạnh hai cánh cổng gỗ mở toang, đập cả vào tường, kêu “rầm” một tiếng lớn.
Vân Hy giật nảy mình, quay đầu nhìn ra phía cửa, chỉ thấy ở ngoài đó quân lính đứng đầy, tên nào tên nấy đều nai nịt gọn ghẽ, động tác chỉnh tề đều tăm tắp, đứng thẳng ngay ngắn, không hề động đậy.
Dẫn đầu là một hán tử có thân hình cao lớn, để râu quai nón. Hắn vỗ vỗ con tuấn mã màu đen bên cạnh mình, sau khi giao dây cương cho thuộc hạ giữ liền liếc mắt nhìn hai vị lớn tuổi trong sân, cầm cây roi ngựa trong tay chỉ vào hai người, hỏi: “Hai ngươi ai là chưởng môn?”
Khương Tử Dã nhíu mày, lộ vẻ không vừa ý với thái độ ngạo mạn của viên quan này. Đúng lúc ấy, chợt thấy trong đám quân lính đang sắp hàng ngoài cửa có một người bước ra. Người này mặc bộ thanh sam theo lối văn sĩ, hổn hển chạy lên, thấy Khương Tử Dã, ông ta nhếch miệng để lộ vẻ tươi cười.
“Khương huynh, đã lâu không gặp, lâu nay vẫn bình an chứ? Tại hạ xin giới thiệu với huynh, vị này là Triệu Thống lĩnh, từ kinh thành tới.”
Vừa nói, văn sĩ vừa bước vào sơn môn, giới thiệu cho cả đôi bên: “Triệu Thống lĩnh, vị này là bằng hữu chí giao của tại hạ – Khương Tử Dã, ông ấy chính là ân nhân cứu mạng của tại hạ. Còn vị đứng bên cạnh đây là sư huynh của ông ấy, cũng là chưởng môn nhân của Tùy gia thương, Tùy Đồng Phủ.”
Thấy có bằng hữu giới thiệu cho mình, Tùy Đồng Phủ, Khương Tử Dã cùng chắp tay thi lễ. Nhưng tên Triệu Thống lĩnh kia dường như không nể mối thâm tình ấy, chỉ hơi giơ bàn tay cầm roi ngựa coi như chào hỏi.
Thấy đối phương vô lễ, Khương Tử Dã bước lên một bước định nói chuyện nhưng bị sư huynh Tùy Đồng Phủ giơ tay chặn lại. Tùy Đồng Phủ nhìn văn sĩ, trầm giọng hỏi: “Tôn đại nhân, xin hỏi hôm nay ngài dẫn quân lính đến đây là vì chuyện gì?”
“Tôn đại nhân gì chứ!” Văn sĩ cười nói. “Trước mặt các ngài, tại hạ chẳng qua chỉ là một tú tài bần hàn suýt chết dưới đao của bọn cường đạo mà thôi. Nếu không có các ngài thì sao hôm nay tại hạ còn có thể đứng đây nói chuyện được.”
Khương Tử Dã hơi mỉm cười, người bằng hữu Tôn Bồi Nguyên này của ông tuổi còn rất trẻ đã đậu tiến sĩ, trở thành quan huyện Bình Dao, tương lai nhất định sẽ còn thăng tiến, tiền đồ vô lượng. Làm quan mấy năm, ông ta cũng không hề quan cách, điểm này thực sự là đáng quý.
Tôn Bồi Nguyên càng tươi cười, vui mừng nói: “Hôm nay tại hạ cùng Triệu Thống lĩnh đến đây là muốn tuyên bố với các ngài một tin tốt vô ngần…”
“Hai vị đại nhân, xin vào nhà rồi hãy nói cho rõ!”
Tùy Đồng Phủ bỗng cắt ngang lời Tôn Bồi Nguyên, ông đưa mắt nhìn một lượt các đệ tử đứng cách đó không xa, ra hiệu bằng mắt cho sư đệ ở bên cạnh rồi thi lễ với hai vị quan viên triều đình, và đưa tay mời vào.
Khương Tử Dã hiểu ý, nhân khi ba người đi vào sảnh đường, quay sang đám đệ tử mắng bảo: “Kéo nhau ra đây xem cái gì chứ? Về phòng hết! Hằng nhi, con dẫn Vân Hy về phòng!”
Khi tất cả đệ tử trong sân đã giải tán hết, Khương Tử Dã liếc nhìn cổng lớn, thấy quân lính ngoài cổng vẫn đứng xếp hàng ngay ngắn, chật cứng trước sơn môn. Không hiểu sao, trong lòng vị trưởng giả luyện võ đã nhiều năm này chợt thấy u ám. Ông chau mày, cố nén nỗi bất an trong lòng và bước vào sảnh đường.
Trên sảnh, Tùy Đồng Phủ đã thu dọn bàn cờ, thắp đèn lên. Vị thống lĩnh họ Triệu chẳng suy nghĩ gì đã ngồi ngay vào ghế chủ vị dưới bức tranh tùng hạc, trông dáng điệu rất ngông nghênh. Đối diện với tên quan quân không coi ai ra gì ấy, Tùy Đồng Phủ vẫn thản nhiên, lịch sự gọi một tiếng: “Dâng trà”, rồi quay sang Tôn Bồi Nguyên, trầm giọng nói: “Tôn đại nhân, xin mời ngài nói!”
Tôn Bồi Nguyên còn chẳng kịp uống trà, vội vàng kéo Khương Tử Dã ngồi xuống, nét mặt tươi cười, nói: “Khương huynh, chắc huynh còn nhớ tại hạ từng nói, nếu như thiên hạ không còn võ công, không có tranh giành giang hồ, không có ân oán bang phái, trăm họ an cư lạc nghiệp, thì sẽ có thể thái bình chứ?”
”Tất nhiên còn nhớ.” Khương Tử Dã cười đáp. Trước kia, Tôn Bồi Nguyên trên đường đi thi gặp phải toán giặc cướp, thiếu chút nữa thì mất mạng, may gặp được Khương Tử Dã ra tay trừ khử lũ giặc cướp ấy. Tôn Bồi Nguyên cảm kích ơn cứu mạng của ông, ra sức mời ông cùng uống rượu. Ai hay kẻ mời rượu lại kém sức rượu, mới uống được vài chén, ông ta đã say nghiêng ngả, mạnh miệng nói đến mộng tưởng thiên hạ thái bình ấy. Khi đó, Khương Tử Dã chỉ cảm thấy thư sinh này tuy rằng có suy nghĩ xa vời nhưng cũng mang lòng mong mỏi thiên hạ được an lạc, nếu thực sự được đề tên bảng vàng thì sẽ là một viên quan tốt, có lòng lo cho trăm họ. Và sự thực đúng là như vậy, từ khi Tôn Bồi Nguyên làm quan huyện Bình Dao, mấy năm nay luôn công chính liêm khiết, trăm họ trong huyện chẳng ai không khen ngợi.
Thấy Khương Tử Dã gật đầu, Tôn Bồi Nguyên hớn hở nói: “Mộng thái bình ấy của tại hạ sắp được thực hiện rồi đấy!”
“Hả?” Nghe thấy câu ấy, Khương Tử Dã giật mình. Đừng nói là ông, ngay cả Tùy Đồng Phủ cũng thấy hơi kinh ngạc.
Tôn Bồi Nguyên lại nói tiếp: “Triệu Thống lĩnh đây từ kinh thành tới, mang theo chỉ dụ mới của Thánh thượng. Đó là cái phúc của võ nhân trong thiên hạ, càng là cái phúc của vạn dân, chuyện thiên hạ không còn võ công chẳng bao lâu sau sẽ thành hiện thực!”
Triệu Thống lĩnh lấy trong người ra bảng chỉ dụ màu vàng, hai tay mở rộng. Chỉ thấy trên bức cẩm thư đề ba chữ lớn “Thái Bình Ước” đập ngay vào mắt.
“Thái Bình Ước, ý rằng bảo vệ thiên lý, trừ diệt tà đạo, làm trong sạch võ lâm, chấm dứt chuyện bang phái tranh giành, trả lại cuộc sống thái bình cho trăm họ. Phàm các nhân sĩ trong võ lâm, nên lấy điều ước này làm chuẩn mực, một là không tụ tập đấu võ, hai là không mang theo binh khí, ba là không gây thù hằn bang phái, phàm việc phải theo pháp luật thi hành, tất thảy bang phái phải xóa bỏ hiềm khích, quy về bộ Binh quản lý, nghe theo hiệu lệnh của triều đình. Còn về các điển tịch võ học, ấy là bảo vật của Thiên triều, nên giao nộp cho triều đình, qua bộ Lễ chỉnh lý, nhập vào thư khố võ học, để tiếng thơm muôn đời, lưu truyền vạn đại, dành phúc cho tử tôn.”
Triệu Thống lĩnh nghiêm trang đứng dậy, tuyên đọc nội dung trong tờ chỉ dụ. Từng câu từng chữ, khiến Tôn Bồi Nguyên nghe xong nét mặt hân hoan, nhưng lại khiến Tùy Đồng Phủ và Khương Tử Dã sắc mặt dần sa sầm. Hai người quay sang nhìn nhau, lặng lẽ hồi lâu, đợi Triệu Thống lĩnh đọc xong, Tùy Đồng Phủ chau mày nói: “Thái Bình Ước này đúng là cũng có lý. Tụ tập đấu võ, làm thương tổn đến người vô tội, thực sự không nên. Hơn nữa, con dân của Thiên triều ta tuân thủ theo hình pháp, đó cũng là việc trong bổn phận. Chỉ có điều, mấy hạng mục như môn phái phải xóa bỏ hiềm khích, quy về bộ Binh quản lý, giao nộp điển tịch võ học, phải chăng có điều chưa thỏa đáng?”
“Hỗn xược!” Triệu Thống lĩnh giận dữ đập bàn, làm vỡ cả chén, đoạn cầm roi ngựa chỉ vào Tùy Đồng Phủ, tức tối nói: “Ngươi nghĩ mình là thá gì mà dám chất vấn Thánh thượng? Hôm nay nếu không phải là nể mặt Tôn đại nhân, bản tướng há lại tốn công nói chuyện với các ngươi! Thái Bình Ước này, Tùy gia thương các ngươi có ký hay không?”
Trước câu hỏi của đối phương, Tùy Đồng Phủ chỉ chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nói: “Ký thì thế nào, mà không ký thì thế nào?”
“Ký Thái Bình Ước rồi, thì được tính là võ lâm chính đạo, quy thuận triều đình, đệ tử của Tùy gia thương các ngươi quy về bộ Binh quản lý, vừa là dân vừa là lính, gặp thời chiến thì bảo vệ sơn hà.” Triệu Thống lĩnh cười nhạt nói. “Còn nhược bằng không ký, tất nhiên là tà ma ngoại đạo, tất cả phải bị tru diệt! Khi ấy đừng trách ta ra tay vô tình!”
Nghe thấy những lời uy hiếp lộ liễu ấy, Khương Tử Dã đập bàn đứng dậy, giận dữ nói: “Chính đạo tà đạo, há do một tờ công văn của ngươi mà quyết định được sao? Mặc xác cái Thái Bình Ước đó của ngươi, ta đi ngay đứng thẳng, trên không hổ với trời xanh, dưới không thẹn với đất dày, cần chi đám chó săn nhà quan các ngươi thừa nhận?”
Thấy đôi bên đã muốn động thủ, Tôn Bồi Nguyên sợ toát mồ hôi, vội đứng dậy xoa dịu: “Khương huynh, xin bình tĩnh chớ nóng vội, xin bình tĩnh chớ nóng vội! Thái Bình Ước này, vốn là chuyện tốt lợi nước lợi dân vậy! Huynh chắc cũng hiểu, giang hồ hỗn loạn, bao nhiêu tà ma ngoại đạo động một chút là giết người, đốt nhà, làm hại lê dân trăm họ. Có Thái Bình Ước này rồi, các nhân sĩ chính đạo sẽ được tập hợp, cùng triều đình tiễu trừ tà phái, đó chẳng phải là chuyện tốt lắm sao?”
Không đợi Khương Tử Dã phản bác, Tôn Bồi Nguyên lại nói: “Còn như ba điều chưa thỏa đáng mà Tùy chưởng môn vừa nói, điều thứ nhất là xóa bỏ hiềm khích môn phái, các ngài nên biết rằng, ân oán bang phái giang hồ nhiều chuyện phức tạp, động chút là tìm kẻ thù gây sự, hôm nay ngươi giết ta, ngày mai ta giết ngươi, cứ một qua hai lại như vậy, oán thù ngày càng sâu. Nếu như có thể mượn Thái Bình Ước để trừ bỏ những ân oán ấy thì thực là phúc trạch to lớn lắm thay. Về điều thứ hai, quy về cho bộ Binh quản lý, điểm này càng không có gì là sai cả. Huyện Bình Dao chúng ta có biết bao nhiêu cường đạo thổ phỉ, chính Khương huynh cũng thường giúp ta truy bắt phạm nhân đó thôi. Ngài thường nói, học võ chẳng phải chỉ để khỏe người mạnh sức, còn để diệt trừ cái ác, tuyên dương cái thiện. Nếu các ngài ký bản Thái Bình Ước này, quy về cho bộ Binh quản lý, thì có thể danh chính ngôn thuận mà hành hiệp trượng nghĩa rồi. Đến khi thiên hạ thái bình, các đệ tử được an cư lạc nghiệp, không khác gì trước kia. Còn như Triệu Thống lĩnh vừa nói, thời chiến thì bảo vệ sơn hà, ấy chẳng phải là bổn phận của võ nhân ư? Về điều thứ ba, giao nộp điển tịch võ học, Thái Bình Ước tuy có nói là triều đình thu giữ, nhưng cũng chỉ là để bảo tồn, lưu truyền cho tử tôn hậu đại, không đến nỗi bị thất truyền. Tùy gia thương vẫn sẽ là Tùy gia thương, điểm này không thay đổi chút nào, chỉ là sẽ trở thành danh môn chính phái, tuân thủ pháp luật, nghe theo hiệu lệnh triều đình, được triều đình thừa nhận mà thôi, hoàn toàn không hề có tổn thất gì cả, thực là chuyện tốt lắm thay!”
Thấy Tôn Bồi Nguyên nhọc lòng khuyên giải, Tùy Đồng Phủ lạnh nhạt nói: “Tôn đại nhân, cứ như từng lời từng chữ ngài nói, Thái Bình Ước đúng là chuyện tốt đem lại phúc trạch cho trăm họ, nhưng ngài có từng nghĩ đệ tử của Tùy gia thương chúng ta, lại còn hàng ngàn hàng vạn nhân sĩ võ lâm khác, cũng là lê dân của triều đình chưa? Ngài hãy hỏi bọn họ xem, có bằng lòng quy về cho bộ Binh thống lĩnh, có bằng lòng ra chiến trường không?”
Nghe thấy câu ấy, Tôn Bồi Nguyên buột miệng nói luôn: “Chuyện ấy lại còn phải hỏi? Đã là người học võ, làm sao không bằng lòng ra chiến trường? Nếu không có ý bảo vệ sơn hà thì học võ làm gì?”
”Không sai, ta từng nói rồi, kẻ học võ nên diệt trừ cái ác, tuyên dương cái thiện.” Khương Tử Dã nói lớn. “Nhưng hành hiệp trượng nghĩa, trừ mạnh giúp yếu, lại phải báo cáo, lại phải được bộ Binh này, bộ Hình kia cho phép, thì còn là võ nhân gì? Có khác nào một con chó săn của triều đình? Lại còn không được mang theo binh khí, rõ là buồn cười! Khương Tử Dã ta học Tùy gia thương, thương còn người còn, thương gãy người chết!”
Lời còn chưa dứt, Khương Tử Dã đã vòng tay ra sau rút cây thương bạc trên lưng, cầm cán thương giội mạnh xuống đất. Chỉ nghe “choang” một tiếng, Khương Tử Dã chống thương đứng dậy, sống lưng thẳng tắp, hệt như cán thương!
Thấy ông lôi thương ra, Triệu Thống lĩnh cười nhạt nói: “Nói như vậy là Tùy gia thương các ngươi từ chối không ký điều ước đúng không?”
”Thái Bình Ước gì chứ, coi võ nhân chúng ta là thứ tượng đất cho các ngươi muốn vê muốn nặn thế nào tùy ý ư?” Khương Tử Dã giận dữ nói.
Thấy sư đệ nổi giận, Tùy Đồng Phủ đưa tay ngăn lại, quay sang Triệu Thống lĩnh chắp tay, trầm giọng nói: “Thống lĩnh đại nhân, đã là Thánh dụ thì Tùy mỗ không dám bình luận bừa thêm về Thái Bình Ước nữa. Nhưng tờ công văn này lại có liên can đến thương pháp mà tổ tiên Tùy gia truyền lại, liên can đến cơ nghiệp trăm năm của Tùy gia thương. Nếu có một ngày hiềm khích giữa các môn phái được xóa bỏ, võ học trong thiên hạ được hội hợp giao hòa, thì đó đúng là một việc may mắn cho võ lâm. Nhưng hôm nay, tùy mỗ không thể để danh hiệu Tùy gia thương bị xóa bỏ trong tay mình được.”
”Ồ, ý ngươi là sẽ không ký chứ gì?”
Trước câu hỏi của Triệu Hãn, Tùy Đồng Phủ lại chắp tay, nói từng tiếng một: “Không - thể - ký!”
”Được lắm!” Triệu Thống lĩnh hét to một tiếng, cây roi ngựa trong tay vút ra. Chỉ nghe một tiếng xé gió, đường roi sắc lẹm nhắm thẳng Tùy Đồng Phủ đánh tới.
Thấy sư huynh bị đánh, Khương Tử Dã đang cầm cây thương bạc lập tức nhún chân nhảy ra, vung thương chặn ngay đòn đánh của Triệu Hãn! Hai người kình lực va nhau, không ai chịu ai.
Triệu Hãn tuy là quan viên, nhưng cũng là thống lĩnh cấm vệ quân, luận về thân thủ đáng được coi là cao thủ nhất đẳng trên giang hồ. Chỉ thấy hắn múa cây roi ngựa kín đến gió không lọt, kình khí tập trung như chia trời rạch biển, bổ thẳng xuống đầu. Khương Tử Dã vội lùi mấy bước, tìm chỗ thủ thế, đợi đúng khoảnh khắc cây roi dài sắp vụt tới người mình liền tung ngay một chiêu Lâm Sơn Cổ Chiếu, đầu mũi thương bạc lấp loáng lóe sáng, dũng mãnh tựa chim hồng, nhằm thẳng mặt Triệu Hãn đâm tới.
Triệu Hãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, xoay lòng bàn tay, kình khí dồn vào cây roi chớp mắt lưu chuyển, cây roi ngựa lập tức như một con linh xà, bỗng đâu quấn chặt cây thương bạc, lực mạnh đến nỗi làm chấn động hổ khẩu (*) của Khương Tử Dã. Sau giây lát, Triệu Hãn xoay cổ tay, cây roi tựa như con rắn liền giật cây thương bạc tuột khỏi tay Khương Tử Dã văng ra xa.
(*) Chỉ khoảng mở giữa ngón tay cái và bàn tay.
Chỉ thấy sáng lóe như ánh chớp, cây trường thương sáng bạc liền bay ra khỏi sảnh đường, cắm ngập vào mặt đất phủ đầy tuyết ngoài cửa, rung rinh hồi lâu, tiếng “choang” ngân mãi không dứt.
Cùng lúc ấy, gần trăm quân lính bên ngoài sơn môn đột nhiên phá cửa xông vào, chớp mắt đã vây kín quanh sân Tùy gia đến một giọt nước cũng không lọt. Chẳng bao lâu sau, tất cả đệ tử Tùy gia thương bị đuổi về phòng lúc trước đều bị quan binh trói hai tay, dẫn tới nơi, đến đàn bà con trẻ cũng không tha. Vân Hy được bà Khương ôm trong lòng, đôi mắt to đen láy, nghi hoặc nhìn những vị khách không mờ mà đến.
Thống lĩnh Triệu Hãn không thèm nhìn lại hai người Tùy Đồng Phủ và Khương Tử Dã, chắp tay sau lưng đi ra ngoài sảnh đường, đứng yên trên sân tuyết. Hắn đưa mắt nhìn một lượt đám đệ tử của Tùy gia thương đang bị trói, lại đưa tay sờ lên cây thương bạc cắm sâu dưới đất, lạnh lùng bảo: “Một là đắc đạo, hai là thành ma, ta cho các ngươi một cơ hội cuối cùng, Thái Bình Ước các ngươi có ký hay không?”
”Ký! Ký!”
Không đợi hai người Tùy, Khương lên tiếng, Tôn Bồi Nguyên đã vội vã cắt lời. Ông ta kéo tay áo Khương Tử Dã, nói vội: “Khương huynh, chớ nên cố chấp như vậy! Nếu như từ chối ký Thái Bình Ước, nhẹ sẽ bị đày ra biên ải, nặng thì bị trừng trị theo vương pháp! Đây vốn là một chuyện rất tốt, sao huynh lại không nghĩ thoáng được một chút?”
”Hừ! Chuyện tốt?” Khương Tử Dã cười khẩy. “Nếu là chuyện tốt, sao phải dùng tính mạng của đệ tử ta để ép buộc? Nếu là chuyện tốt, sao đến cả đàn bà trẻ con cũng không tha? Khen cho Thái Bình Ước, thái bình mà thế này, chúng ta không nhận nổi!”
”Giỏi, giỏi lắm!” Triệu Hãn buông tay, khỏi thương bạc, quay sang cầm cây roi ngựa bên hông. “Nếu như các ngươi rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt thì ta cũng không khách sáo.”
Nói xong, Triệu Hãn vung cây roi dài, dồn hết mười thành công lực, chỉ nghe một tiếng vang chói tai, cây roi đánh thẳng vào cây thương bạc đang cắm sâu trong sân tuyết.
Một tiếng “choang” vang lên, cây thương thẳng tắp chớp mắt gãy làm đôi, rơi xuống lớp tuyết dày.
”Khen cho câu “thương còn người còn, thương gãy người chết“.” Triệu Hãn khiêu khích, quay sang nhìn Khương Tử Dã mặt mũi tái nhợt, cười nhạt nói tiếp: “Ngươi chí ít cũng là thầy của người khác, không đến nỗi trước mặt bao nhiêu đệ tử thế này mà lại nuốt lời đấy chứ?”
Khương Tử Dã mặt mày tái nhợt, đi từng bước tới trước cây thương gãy của mình. Tùy Đồng Phủ đưa tay ngăn lại, nhưng bị Khương Tử Dã gạt đi. Chỉ thấy dưới tuyết rơi đầy trời, Khương Tử Dã đi đến trước chỗ cây thương, đưa mắt nhìn một lượt những đệ tử mình đã dạy nhiều năm, lại nhìn người vợ kết tóc và đứa con trai duy nhất mới mười ba tuổi của mình. Rồi, ông cầm một đoạn thương gãy lên, trầm giọng nói: “Đại trượng phu nhất ngôn cửu đỉnh, Khương Tử Dã ta há lại là người nói một đằng làm một nẻo? Thương còn người còn, thương gãy người chết!”
Chưa nói dứt câu, Khương Tử Dã đã đâm mạnh đoạn thương gãy vào giữa tim mình!
Cùng lúc ấy, Tùy Đồng Phủ phi thân nhảy tới, định cứu tính mạng sư đệ, nhưng đã không còn kịp nữa.
”Cha!”
”Sư phụ!”
”Sư thúc!”
Mấy tiếng kêu thảm thiết cùng lúc vang lên, trên nền tuyết trắng, vẻ bi thương phủ khắp. Cậu thiếu niên Khương Hằng hét to định xông lên, nhưng bị mẫu thân ở bên cạnh kéo trở lại. Bà tuy không biết võ công, nhưng lúc này bỗng có một sức mạnh kỳ là mà người ta khó có thể tin được, giữ chặt lấy đứa con trai của mình. Cánh tay thường ngày luôn mềm mại yếu đuối, vậy mà giờ đây lại cứng như sắt. Bà bịt chặt miệng Khương Hằng, giữ cho tiếng gọi “Cha!” của cậu không bị vuột ra.
Người đàn ông cao lớn vững chãi như núi, luôn che chở mưa gió cho bà; người đàn ông từng nhìn bà bảo Kỳ Sơn bốn mùa đều là cảnh đẹp, hỏi bà có bằng lòng cùng ông lên núi không, cuối cùng cũng đã ngã quỵ xuống. Khương phu nhân câm lặng nhìn chồng mình ngã xuống nền tuyết trắng, nhìn dòng máu tươi từ tim ông phun trào ra, chảy ngoằn ngoèo trên tuyết.
Vốn không giỏi ăn nói, ông chưa bao giờ nói với bà những câu thề non hẹn biển, ngay đến những câu tình tứ đơn giản như “trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”, cũng chưa từng nói với bà. Nhưng sâu thẳm trong tim bà từ lâu đã nguyện lòng ở bên ông trọn đời, dù sông cạn đá mòn cũng không bao giờ thay đổi.
Trong tim chỉ còn một màu tuyết trắng, xưa nay Khương phu nhân vốn hay cười, vậy mà lúc này trên mặt không hề có biểu cảm gì, không một làn sóng gợn, không tức giận cũng không kinh sợ, bà bình tĩnh nhìn thi thể chồng mình dần bị những bông tuyết rơi xuống phủ kín, cánh tay đang ghì chặt con trai càng siết chặt hơn. Mặc cho nhi tử vùng vẫy, Khương phu nhân cũng không để cho nó kêu lên tiếng nào, chỉ cúi đầu xuống, nhìn đứa con trai vẻ mặt đầy uất hận, nói nhỏ: “Hằng nhi, bảo vệ Vân Hy, trốn đi!”
Không để cho con trai phản bác nửa lời, Khương phu nhân đã kéo đứa bé đang khóc thút thít bên cạnh mình, cầm lấy bàn tay nhỏ của Vân Hy, ấn vào tay Khương Hằng.
Rồi Khương phu nhân đứng thẳng dậy, vóc dáng gầy gò như chống đỡ cả bầu trời. Chỉ thấy bà đi từng bước đến trước mặt Triệu Hãn và Tôn Bồi Nguyên đang kinh hãi, nói lớn: “Ta là đàn bà, chẳng biết gì về đạo nghĩa giang hồ, cũng chẳng hiểu luật lệ triều đình như thế nào. Ta chỉ biết, thiên hạ thái bình thì đàn bà con trẻ phải có ăn có mặc, có thể an cư lạc nghiệp, giúp chồng dạy con, không buồn không khổ, không sợ không kinh... Thế nhưng các người...”
Khương phu nhân đưa tay chỉ về phía Triệu Hãn, nói lớn: “Phu quân ta nhìn lên nhìn xuống đều không hổ thẹn với đất trời, xưa nay chưa từng làm nửa điều ác, vậy mà hôm nay lại bị ngươi bức tử ở Kỳ Sơn, khiến gia đình ta nhà tan cửa nát, ngươi còn dám nói cái chỉ dụ ngươi mang đến là thái bình gì đó ư?”
”Còn ngươi!” Khương phu nhân quay sang chỉ tay vào Tôn Bồi Nguyên, lớn giọng chất vấn. “Phu quân ta từng cứu ngươi khỏi cái chết, ngươi thì luôn miệng ân nhân cứu mạng, thế mà bây giờ lại dẫn người lên núi bức tử ông ấy, đó là cách báo ân của ngươi ư?”
”Không... tẩu tẩu, ta... ta không...” Tôn Bồi Nguyên đọc ngàn cuốn sách, trong phủ nhà lúc nào cũng thao thao bất tuyệt, lúc này lại ấp úng không nói nên lời, nước mắt tuôn ra, giọng nói run rẩy bảo: “Làm sao... làm sao ra nông nỗi này...”
Những ánh nắng chiều sót lại, cuối cùng cũng tan biến hết thảy sau lưng núi. Màn đêm nặng trĩu che phủ bốn bề, dưới bầu trời đen kịt, tuyết vẫn rơi bời bời.
Khương phu nhân đứng trong mưa tuyết, từ từ ngồi xuống, rút đoạn thương gãy đâm thấu tim từ thi thể Khương Tử Dã ra, cầm chặt trong tay.
Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên bà đứng vụt dậy, lao thẳng về phía Triệu Hãn, liều mạng đâm đoạn thương gãy vào giữa ngực gã quan viên triều đình. Nhưng Triệu Hãn kia thân thủ thế nào? Hắn chỉ hơi lui nửa bước, nghiêng người tung một chưởng, thế là đã lập tức đánh ngã Khương phu nhân xuống đất.
Khương phu nhân ngồi trên nền tuyết, thấy không thể phục thù, liền bật cười thê thảm, cầm thương đâm thẳng vào giữa ngực mình, rồi phủ phục xuống thi thể phu quân.
”Sư nương!”
”Sư thúc mẫu!”
Đệ tử Tùy gia thương uất nghẹn, kéo nhau phá vòng vây của quan binh, tràn lên phía trước. Nhất thời, không nghe thấy một câu thứ hai, chỉ có tiếng vũ khí va chạm với nhau. Các đệ tử Tùy gia thương đã khóc đỏ mắt, lấy thân mình xô đến, cùng chiến đấu với đối phương.
”Liều mạng với bọn cẩu quan này thôi!” Triệu Hãn chỉ đưa tay lên, lạnh lùng nói: “Trừng trị theo pháp luật.”
”Không, Triệu Thống lĩnh, không được! Xin cho tôi một chút thời gian, cho tôi chút thời gian, tôi nhất định có thể thuyết phục được họ!” Tôn Bồi Nguyên vội nói, nhưng trong lòng ông ta cũng hiểu, lúc này đây, làm sao còn có thể thuyết phục được nữa. Ông ta chỉ biết khổ sở cầu xin, nhưng đã bị người của cả hai bên đẩy ngã, nằm vật trên mặt đất, im lặng nhìn thi thể ân nhân cứu mạng nằm trên tuyết, rất lâu không thốt được lời nào.
Đám đệ tử Tùy gia thương xông lên trước, bị loạn đao của quân lính đâm chém, xương tan thịt nát, máu đổ thịt văng, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Tùy Đồng Phủ tay cầm thương bạc, như tắm trong máu, mái tóc hoa râm đã nhuộm đỏ máu của mình cũng như kẻ địch. Ông quét một đường thương, dồn hết nội lực toàn thân, đánh một đòn chí mạng về phía Triệu Hãn, đó là đòn đánh mà cả hai sẽ cùng phải chết!
Triệu Hãn há lại không nhận ra chiêu liều mạng của đối phương? Lúc này hắn cũng không cố liều, tiện tay túm lấy một đệ tử của Tùy gia dùng làm lá chắn, chặn trước người mình. Tùy Đồng Phủ vội vàng thu chiêu, xoay người tránh đi. Nhân khi chiêu thức của Tùy Đồng Phủ bị phá, Triệu Hãn đưa tay tung ra một chưởng, kình khí mạnh mẽ đánh vào vị trưởng giả khiến ông bay văng ra. Tùy Đồng Phủ đập mạnh vào bức tường cao, vết thương trên lưng in hằn một vệt máu nổi bật trên bức tường trắng.
Triệu Hãn tiện tay nhặt một cây trường thương, đâm xuyên cổ họng một đệ tử Tùy gia đang xông tới. Chỉ thấy đầu mũi thương đâm rách da thịt, trên những sợi tua đỏ máu tươi nhỏ giọt tong tong. Triệu Hãn tùy ý rút thương lại, để thi thể đổ gục xuống một bên, rồi lập tức chạy lại phía Tùy Đồng Phủ. Hắn cười nhạt đâm cây thương bạc trong tay, chỉ nghe xương thịt vang lên một tiếng trầm đục, cây trường thương đã đâm xuyên xương đòn ông, đóng đinh chặt ông vào bức tường!
”Hàng hay không hàng?”
Tùy Đồng Phủ hơi hé miệng, máu tươi liền từ khóe miệng trào ra, ông khạc máu nói: “Thương có thể gãy, người có thể chết, cơ nghiệp trăm năm của Tùy gia thương, đạo nghĩa võ nhân của Tùy gia thì tuyệt không thể chấm dứt ở đây. Hôm nay không thể, ngày mai không thể, Tùy gia vĩnh viễn không bao giờ mất!”
”Hủ lậu.” Triệu Hãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, không nói nhiều thêm, cầm trường thương đâm thẳng vào tim Tùy Đồng Phủ.
Chưởng môn nhân bị ghim trên tường cao, gục đầu xuống, không còn động đậy gì nữa. Triệu Hãn quay người, chỉ thấy tòa đình viện trên lưng núi đã thành chốn địa ngục tu la, thây chất đầy đất, máu chảy thành sông, đệ tử Tùy gia thương chỉ còn lại mấy tên sợ chết, đang run rẩy quỳ xuống đất.
Trong số đó có một tên quay về phía Triệu Hãn khấu đầu, nói vẻ thành khẩn: “Khởi bẩm đại nhân, chưởng môn sư bá còn có một cô con gái duy nhất, là truyền nhân Tùy gia, khi nãy có lẽ đã nhân loạn trốn chạy rồi.”
Triệu Hãn nhíu mày, rút cây roi ngựa bên lưng ra, bước đến trước mặt kẻ đang khấu đầu, bỗng vung cây roi quấn chặt lấy cổ tên đệ tử ấy, giật mạnh một cái. Chỉ nghe một tiếng “rắc” vang lên, sống cổ kẻ đó lập tức bị cây roi bẻ gãy. Triệu Hãn đưa chân đá cái xác đổ gục bên chân mình ra, lạnh lùng nói: “So với những kẻ ngu si hủ lậu, bản tọa còn ghét những kẻ tiểu nhân bất trung hơn. Giết hết bọn chúng cho ta!”
Chỉ nghe mấy tiến
Lội trên tuyết giữa rừng sâu, hai cái bóng một lớn, một nhỏ đi nhanh qua những gốc tùng xanh cao vút. Kẻ lớn hơn là một thiếu niên độ mười ba, mười bốn tuổi, trên lưng đeo một cây trường thương màu bạc, ăn mặc khỏe khoắn theo lối võ nhân (*) với bộ đồ màu lam. Cậu sải chân chạy nhanh, chiếc ủng da đang lướt đi trên tuyết dính đầy bùn nước, ngoài những mảng tuyết chưa tan còn có cả vết máu loang lổ. Cặp lông mày của cậu nhíu chặt, gương mặt thanh tú, đẹp đẽ nhưng vẫn còn nét non nớt giờ đây tràn ngập vẻ oán hận không thể che giấu được. Kẻ nhỏ hơn trông mới khoảng tám, chín tuổi, là một cô bé ngây thơ. Trong đôi mắt to, đen láy của cô ngân ngấn nước, trên má vẫn còn đọng giọt nước mắt chưa kịp lau khô. Tuy còn nhỏ nhưng cô không kêu một tiếng, cứ mải miết chạy theo thiếu niên kia. Hơi thở hổn hển ấm nóng bên khóe miệng, hơi khói thở ra chớp mắt bị gió bấc thổi đi, biến mất tăm trong đêm tuyết rơi giữa buổi đông hàn.
(*) Võ nhân tức là người luyện võ.
Tuyết rơi lả tả mịt mù, từ trong màn đêm chậm rãi buông xuống. Con đường núi đã phủ một lớp tuyết dày, hai hàng dấu chân một lớn một nhỏ hiện lên càng rõ nét. Thiếu niên vừa chạy vừa ngoảnh đầu lại, nhìn thấy những dấu chân ấy, giận đến nghiến chặt hàm răng, lại nhìn cô bé sau lưng mình, chiếc áo bông màu đỏ cô mặc trong đêm đông càng nổi bật giữa núi rừng đầy tuyết trắng. Cậu túm chặt lấy tay cô bé, giận dữ nói: “Cởi ra!”, rồi lập tức giật chiếc áo ấm của cô bé ra, ném xuống ven đường. Kế đó, cậu cầm lấy tay cô bé, ôm cô vào lòng rồi lại chạy mải miết vào rừng sâu.
Không bao lâu sau, một toán hơn hai chục quan binh đã đuổi đến chỗ đường rẽ. Bọn chúng giơ cao đuốc lửa, soi con đường núi tưởng chừng không còn gì có thể ẩn trốn được, nhưng những cành tùng xù xì dưới ánh lửa bập bùng hiện thành những bóng hình kỳ dị, dường như đang che giấu một điều gì đó. Dẫn đầu là một viên quan râu quai nón, hắn liếc nhìn cái áo đỏ vứt bên đường, giơ cây roi ngựa trong tay, dặn bảo: “Tiểu Tứ, dẫn theo mười người tìm kiếm ở đây cho ta! Những người còn lại theo ta đuổi tiếp!”
Tiếng ra lệnh, tiếng vâng dạ, tiếng đuốc lửa cháy lép bép, tiếng chân lội trên tuyết, trong đêm Kỳ Sơn yên tĩnh lại càng nghe rõ khiến những con quạ giật mình tung cánh bay lên, làm cành thông rung rinh, những bông tuyết rơi lả tả. Võ nhân trẻ tuổi bế cô bé, rảo bước đi nhanh qua rừng không ngừng nghỉ, những bông tuyết rơi trên tóc, trên lông mày của cậu, chẳng mấy chốc đã hóa thành những viên ngọc bằng nước óng ánh, từ trên má lăn xuống.
”Huynh biết võ công...” Đó là giọng nói non nớt của cô bé đang được cậu ôm chặt trong lòng. Cô bé ấy lẽ ra phải bị biến cố lớn vừa xảy ra trong nhà dọa chết khiếp, vậy mà giờ đây lại bình tĩnh đến kỳ lạ, giọng nói yếu ớt, trẻ con của cô lại cất lên: “Huynh biết võ công, huynh hãy trốn đi. Muội không biết võ công, bọn chúng sẽ không làm gì muội đâu.”
”Im nào!” Thiếu niên dằn giọng thốt ra hai từ, gạt đi ý kiến của cô bé.
Trong khi nói chuyện, bước chân của cậu vẫn không hề dừng lại. Những tiếng bước chân dồn dập phía sau càng lúc càng gần, cậu một tay ôm cô bé, một tay vòng ra sau rút cây trường thương rồi mím chặt môi. Sau một hồi giằng co suy nghĩ, cậu ném mạnh cây trường thương đi.
Cây trường thương bạc phản chiếu ánh trăng, chớp lóe lên rồi chìm vào trong tuyết bay đầy trời.
Chính lúc ấy, hơn chục quan binh cũng đuổi kịp theo bước chân của thiếu niên. Tên râu quai nón vung roi roi ngựa, một tiếng “vút” vang lên trên không rồi chiếc roi đánh thẳng vào lưng cậu. Thiếu niên kêu “hức” một tiếng, chân bước loạng choạng, ngã nhào về phía trước, nhưng cậu vẫn kịp thời co hai tay lại, ôm chặt cô bé vào lòng.
Hai người ngã vào lớp tuyết dày, vụn tuyết dính đầy trên đầu, trên mặt họ. Cùng lúc ấy, đám quan binh đã vây quanh hai người. Ánh lửa rọi lên khuôn mặt hai đứa trẻ, soi rõ vẻ không chịu khuất phục của cậu thiếu niên.
”Chúng tôi đều không biết võ công, ông là bậc đại nhân làm quan lại đối phó với hai đứa trẻ tay không tấc sắt mà không thấy xấu hổ ư?” Thiếu niên lớn tiếng chất vấn. Cậu giơ hai tay che chắn cho cô bé sau lưng, ngăn chặn ánh mắt dò xét của tên râu xồm.
”Ha ha!” Tên râu xồm cười nhạt một tiếng. “Truyền nhân của Tùy gia thương được xưng tụng là Trung Nguyên đệ nhất thương mà lại bảo là không biết võ công. Tên tiểu tử miệng còn hơi sữa ngươi tưởng ta là đứa trẻ lên ba sao?”
Lời nói còn chưa dứt, hắn lại vung roi. Cây roi vụt vào bên má trái thiếu niên, một lằn máu lập tức nổi lên, rồi máu tươi lăn xuống theo gò má xương gầy, đông lại dưới cái cằm đầy tuyết và bùn đất của cậu, hòa thành một khối nhem nhuốc. Bùn, máu cùng với bộ dạng lôi thôi bẩn thỉu vẫn không thể che giấu được thần sắc kiên định trong mắt cậu. Cậu không hề chớp mắt, nói lớn: “Tùy gia thương từ xưa đã có lời tổ huấn, chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ, điểm này ông ta có thể làm chứng cho ta!”
Thiếu niên dứt khoát chỉ tay vào một người đứng bên cạnh tên râu xồm, đó là một văn sĩ trẻ tuổi mặc áo xanh. Văn sĩ ấy búi tóc cao, vẻ mặt tuấn tú, rất có khí chất nho nhã. Nhưng khi bắt gặp ánh mắt của thiếu niên, trong giây lát, văn sĩ dường như có vẻ sợ sệt, ánh mắt cũng lộ vẻ ngượng ngùng. Lúc sau, văn sĩ chắp tay, quay sáng vái viên quan râu xồm, nói:“Triệu Thống lĩnh, người này nói không sai, Tùy gia thương đích thực có lời tổ huấn rằng chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ. Tùy Vân Hy tuy là con gái duy nhất của chưởng môn Tùy Đồng Phủ, nhưng đích xác không biết chút võ công nào.”
Tên râu xồm được gọi là “Triệu Thống lĩnh” lừ mắt nhìn vị văn sĩ rồi quay sang thiếu niên đang che chắn cho cô bé sau lưng, trầm giọng nói: “Nếu đã như vậy, ta sẽ không động đến tiểu nha đầu kia, nhưng tiểu tử này thì phải đưa đi lưu đày.”
”Dựa vào cái gì?” Thiếu niên giận dữ hỏi. “Thái Bình Ước đã có lệnh, võ nhân nếu không quy thuận thì có thể xử theo luật pháp, đày ra ngoài biên ải, nhưng ta chẳng qua chỉ là một người làm công của Tùy gia, không biết chút võ công nào, chỉ là kẻ bình dân áo vải, ông dựa vào cái gì mà bắt ta chịu hình phạt lưu đày? Thân là thống lĩnh, lẽ nào ông lại định kháng chỉ ư?”
”To gan!” Triệu Thống lĩnh giận dữ vung roi, chỉ nghe thấy tiếng gió kêu vút, cây roi dài đã đánh mạnh vào người thiếu niên.
Thiếu niên không tránh né, cây roi quét một đường dọc theo thân người cậu, đánh cậu bật ra xa, đập mạnh vào thân cây tùng rồi lại rơi xuống tuyết. Cành tùng rung rinh khiến tuyết rơi xuống, phủ cả lên mình cậu.
Cô bé con sải bước chân chạy lại, giơ cánh tay nhỏ bé che cho thiếu niên ở sau lưng mình. Cô còn bé quá, lại mặc chiếc áo đơn, giữa trời đông hàn càng lộ vẻ mỏng manh. Nhưng cô bé chưa đầy mười tuổi ấy vẫn gắng gượng đứng đó, nhìn thẳng vào viên quan có gương mặt dữ tợn dưới ánh lửa bập bùng, nói câu nói dối đầu tiên trong đời: “Ta có thể làm chứng, huynh ấy chỉ là người làm công thôi, không hề biết võ công.”
Cô bé tuy không biết nói dối nhưng vẫn cố dằn lòng, trừng mắt nhìn vị đại hán dữ tợn như cọp, không để lộ nửa phần sợ hãi. Triệu Thống lĩnh chăm chú nhìn cô bé hồi lâu, lại quay sang nhìn thiếu niên sau lưng cô. Tuy đã bị đánh đến mức miệng thổ máu tươi nhưng ánh mắt của cậu vẫn toát ra vẻ bất khuất, sự phẫn nộ và thù hận nhuốm đầy trên mặt. Tên râu xồm cười nhạt, rồi bỗng quay sang bọn thuộc hạ bên cạnh, hất hàm nói: “Dẫn đi, ta muốn xem xem rốt cuộc nó có biết võ công hay không!”
Một tên lính chạy đến bên cạnh thiếu niên, túm tay cậu định lôi đi. Cô bé lo sợ, nước mắt lưng tròng, đôi tay nhỏ yếu ôm chặt lấy chân tên lính định ngăn hắn lại, nhưng lại bị hắn lôi theo trên nền tuyết.
Thiếu niên bị kéo tay đi, đưa mắt nhìn xuống cô bé mặc áo mỏng manh, ánh mắt lộ vẻ quyết liệt. Sau giây lát, cậu bỗng vươn cánh tay trái, rút cây đại đao đeo bên mình tên lính, chém một nhát lên tay phải của mình.
Tay bị đao vung chém, máu tuôn ba thước.
Trong khoảnh khắc, trời đất không một tiếng động.
Cô bé lặng người nhìn cảnh tượng trước mắt, cánh tay phải chỉ vì luyện võ mà xuất hiện những vết chai giờ đã rơi xuống tuyết. Tuyết trắng tinh khôi khiến những giọt máu đỏ tươi càng nổi bật đến kinh hoàng.
Thiếu niên túa đầy mồ hôi lạnh. Tay trái bịt chặt lấy cánh tay phải đã bị chặt đứt của mình nhưng máu tươi vẫn không ngừng túa ra từ những kẽ tay. Cậu hổn hển thở dốc, cuối cùng cắn chặt răng, run rẩy nói: “Ta không biết võ công, giờ đây lại là kẻ tàn phế mất tay, còn nói gì đến chuyện múa đao đánh thương. Ông đã tin rồi chứ?”
Tên râu xồm còn định nói gì đó thì chợt nghe thấy văn sĩ bên cạnh hít sâu một hơi rồi bước đến trước mặt mình, cúi người vái, nói: “Triệu Thống lĩnh, tại hạ xin làm chứng, hai đứa bé này đều không biết võ công, xin ngài hãy tha cho bọn chúng!”
Nói rồi, văn sĩ quỳ xuống trước mặt hắn. Nghe ông ta khẩn cầu, tên râu xồm trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng khẽ gật đầu, hạ giọng nói một tiếng: “Tha.”
Trong gió bấc, ánh đuốc chập chờn. Khi tên lính cuối cùng cầm đuốc đi khỏi nơi ấy thì ánh lửa chập chờn cũng biến mất phía sau núi rừng trùng trùng điệp điệp. Rừng thông lại trở nên yên ắng, ánh trăng vằng vặc, những bông tuyết lặng lẽ, nhởn nhơ rơi xuống đỉnh núi Kỳ Sơn tĩnh mịch.
Trên nền tuyết tinh khôi, vệt máu ngoằn ngoèo, bông tuyết nhẹ rơi xuống cũng dần dần hòa tan vào dòng máu nóng. Lại có những bông tuyết lặng lẽ rơi, bám trên đôi mi dài của cô bé, hóa thành những hạt ngọc tuyết long lanh, lăn trên má.
Cô bé run rẩy vuốt ve cánh tay bị đứt vẫn còn hơi ấm, bàn tay bé nhỏ lập tức dính đầy máu tươi. Cô đưa mắt nhìn thiếu niên vẫn thường mắng mình là “đồ ngốc”, thấy gương mặt cậu tái nhợt, mồ hôi ướt đầm. Cô chậm rãi nắm chặt lấy cánh tay đứt rời của cậu trong bàn tay bé nhỏ của mình. Trong tiếng thút thít bị gián đoạn bởi gió bấc, loáng thoáng nghe thấy câu hỏi đứt quãng: “Vì...vì sao...Dù là đi đày cũng được...không thể chết...cũng không thể thế này...”
”Nha đầu ngốc!” Sắc mặt thiếu niên nhợt nhạt, cậu trừng mắt nhìn cô, thở dốc hồi lâu mới nói tiếp: “Ta đã hứa với mẹ, quyết không bỏ rơi muội.”
”Muội, Tùy Vân Hy muội, cũng sẽ không bỏ rơi huynh đâu.”
Cô bé nói to lời hứa. Cô bỏ cánh tay đã bị đứt lìa xuống đất, bàn tay nhỏ túm lấy vạt áo của mình đưa vào miệng, dùng răng xé mạnh. Phải vừa nhay vừa xé, cô mới xé được một mảnh vải, băng thật chặt cánh tay tàn phế đang đầm đìa máu của thiếu niên.
Thiếu niên gắng gượng đứng vững, dắt cô bé bằng cánh tay trái còn lại. Cậu lê bước dưới rừng tùng, tìm đến chỗ mình vứt cây thương bạc khi nãy, dùng một tay nhổ cán thương ngập sâu trong tuyết, đeo nó lên lưng rồi lại giặt cô bé đi giữa đêm tháng Chạp lả tả tuyết rơi, bước vào chốn giang hồ mịt mù mưa gió.
Ánh trăng vằng vặc, soi lên hai cái bóng một lớn, một nhỏ, soi lên cây thương bạc đeo sau lưng thiếu niên. Những dây tua đỏ trên đầu cây thương phất phơ bay trong gió bấc, giữa những bông tuyết trắng ngần, sắc đỏ càng thêm tươi đẹp.
Còn cánh tay đã đứt lìa thì ngày càng bị tuyết phủ dày thêm, cùng với vệt máu ngoằn ngoèo khuất dần trong tuyết trắng mênh mông, cuối cùng chìm hẳn vào đêm đen vô tận.
Ngày Hai mươi bảy tháng Chạp năm ấy là một ngày mà Tùy Vân Hy suốt đời không quên. Trên núi Kỳ Sơn bất ngờ nổi lên giông tố, cảnh bình yên suốt mấy trăm năm cuối cùng đã bị một mảnh giấy làm cho tan nát.
Mùa đông năm ấy dường như đến sớm một cách kỳ lạ. Vừa bước vào tháng Chạp, tuyết đã bay phấp phới đầy trời, phủ lên đỉnh núi xanh một tấm áo dệt từ tuyết trắng. Cành tùng xanh sẫm bị tuyết đè nặng trĩu, mỗi khi có cơn gió bấc, những bông tuyết nơi đầu cành lại lả tả rơi, bám đầy trên đầu, trên mặt cô bé đứng dưới đất.
Cô bé đứng dưới gốc tùng tuyết chính là Tùy Vân Hy mới vừa tám tuổi. Cô mặc một chiếc áo màu đỏ tươi, đó là chiếc áo bông mà bà Khương may cho cô để chuẩn bị đón năm mới. Khuôn mặt nhỏ bé của cô bị gió lạnh làm cho đỏ ửng. Bông tuyết bám trên đầu mũi đã đỏ hồng vì giá lạnh khiến cô chợt cảm thấy lạnh buốt. Cô ngẩng đầu, đôi mắt to rất có thần thái nhìn lên bức tường cao vút bên cạnh mình.
Từ bên trong tường vọng ra những tiếng hiệu lệnh rất có nhịp điệu, tựa như có người đồng thanh hô. Cô bé Vân Hy ghé tai nghe một lúc rồi bám bàn tay nhỏ lên cây tùng tuyết bên tường, khẽ “dô ta” một tiếng như để cổ vũ cho mình, lát sau đã trèo lên trên cây tùng cao chót vót. Bàn tay nhỏ bé gạt những đám tuyết đọng, bám chắc lấy chạc cây. Cô bé lấy hết sức, khó khăn lắm mới leo được tới đầu cành, cuối cùng cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng phía bên trong bức tường.
Hơn ba chục nam tử đứng xếp hàng ngay ngắn trong sân. Bọn họ thực hiện mỗi khẩu lệnh một động tác, hoặc bước vòng lên trước hoặc đưa tay về sau, đồng loạt múa cây trường thương trong tay. Dẫn đầu là hai người đàn ông trung niên, một người mái tóc đã hoa râm, thần thái nghiêm nghị, ít thấy nói cười. Một người để chòm râu dài, thi thoảng lại cầm cây thương bạc trong tay chỉ về phía đám đệ tử trong sân, hướng dẫn động tác cho họ. Dưới sự chỉ huy của hai người, tất cả đệ tử trong sân đều chuyên tâm dốc sức, không dám có nửa phần trễ nải. Tuy đang giữa ngày đông nhưng họ vẫn luyện tập chăm chỉ, mồ hôi túa ra như tắm.
“Thanh Tùng Phúc Tuyết(*)!”
(*) Thanh Tùng Phúc Tuyết có nghĩa là tuyết phủ thông xanh, ở đây là tên một chiêu thức võ công.
Cùng với tiếng hô của vị có mái tóc hoa râm ấy, tất cả đệ tử trong sân đồng thanh hô vang một tiếng: “Hây!”, rồi tung mình nhảy lên, trường thương trong tay như con rồng bạc quật mạnh xuống đất làm bụi tuyết tung lên mù mịt.
Vị râu dài đi vào giữa đội ngũ, thỉnh thoảng lại chỉ bảo cho đệ tử. Còn vị đại hán cao lớn, nhiều tuổi hơn một chút thì bước đến trước mặt một thiếu niên khoảng mười ba, mười bốn tuổi, trên khuôn mặt nghiêm nghị lúc này lại lộ ra nét vui cười. Ông khẽ gật đầu, mỉm cười nói: “Hằng nhi, làm tốt lắm!”
“Đa tạ chưởng môn sư bá!” Thiếu niên được gọi là “Hằng nhi” vẫn đang đứng thẳng lưng, giữ đúng động tác chiêu thức nhưng vẫn đủ sức đáp lời.
“Sư huynh, huynh đừng khen thằng nhóc ấy nữa kẻo làm nó phổng mũi đấy!” Người râu rậm cười nói khiến thiếu niên ấm ức lẩm bẩm trong miệng: “Cha, cha đừng nói lung tung!”
Những bông tuyết âm thầm bay đầy xuống sân, và cũng rơi xuống cây tùng bên ngoài bức tường. Cô bé bám chắc trên cành cây, lặng lẽ nhìn phụ thân mình với hai bên tóc mai đốm bạc, thấy nét vui cười hiếm có trên gương mặt ông, tự nhiên cô siết chặt nắm đấm.
Nếu cũng có thể học võ, cô nhất định sẽ cố gắng hơn Khương Hằng, nhất định không để phụ thân và Khương sư thúc thất vọng. Nhưng… cô chỉ có thể đứng đằng xa nhìn thế này thôi, vĩnh viễn không được bước vào Diễn Võ đường nửa bước…
Cô bé cúi xuống, để mặc tuyết rơi trên mái tóc mềm mại. Những bông tuyết giữa tiết đông hàn lạnh đến độ làm cho chân tay cô cóng buốt, những cơn gió bấc thổi khiến khuôn mặt cô đỏ lựng, nhưng dường như cô không hề sợ lạnh, vẫn bám chặt lấy cành thông, mở to hai mắt, ghi nhớ tất cả những động tác của đám đệ tử trong sân.
Xem liền một mạch hơn một canh giờ, khi vị chưởng môn của Tùy gia thương là Tùy Đồng Phủ tuyên bố kết thúc bài tập buổi sáng, bàn tay cô bé đã lạnh cóng đến độ không cử động được nữa. Đệ tử trong sân cầm thương, cung kính đứng tiễn chân chưởng môn Tùy Đồng Phủ cùng sư đệ của ông – Khương Tử Dã rời khỏi Diễn Võ đường, sau đó mới từ từ giải tán. Chỉ có vị thiếu niên tên gọi Khương Hằng còn đứng lại trong sân, đến tận khi mọi người đã đi hết, cậu mới ngẩng đầu nhìn về phía cây tùng tuyết, nhíu mắt lại, dường như có vẻ hơi tức giận.
Chốc lát sau, cậu nâng cây thương bạc trong tay, nhắm thẳng ngọn cây tùng tuyết, lấy sức phóng mạnh.
Ánh bạc sáng lóe, rạch bầu không phi tới. Cô bé Vân Hy sợ hãi run người, hoảng hốt cúi đầu định trốn. Cây thương tất nhiên không nhắm vào cô, nhưng mũi thương cắm mạnh vào cành tùng, đủ làm cây tùng cổ thụ trăm tuổi phải lay động, cành tùng mà cô bé đang ngồi cũng rung lên bần bật. Cô bé Vân Hy không biết võ công, ngồi không vững, bất ngờ rơi từ trên cây xuống đất, cả người ngã sấp vùi mặt vào trong lớp tuyết dày. Cú ngã ấy làm cành tùng lại rung mạnh, những bông tuyết bám trên lá tùng lả tả rơi xuống gần như phủ kín toàn thân cô bé.
Khương Hằng đắc ý nhướng đôi hàng lông mày, chậm rãi đi ra ngoài cửa lớn của Diễn Võ đường, nhìn tác phẩm của mình với vẻ vô cùng đắc ý.
Cô bé Vân Hy đáng thương vẫn bị vùi mặt trong tuyết, hồi lâu mới định thần lại được, ngẩng khuôn mặt dính đầy tuyết, cuống quýt lau mấy cái rồi tức giận nhìn kẻ gây sự, trách móc bằng giọng trẻ con: “Huynh thật quá đáng! Muội sẽ mách Khương ma ma!”
Thiếu niên “hừ” một tiếng bằng giọng mũi vẻ không thèm chấp, lại tung mình nhảy lên, cước bộ điểm nhẹ thân tùng, rồi như một con vượn núi, thoăn thoắt bay liền mấy bước lên đến ngọn tùng. Cậu rút cây thương bạc đã cắm ngập sâu ba tấc vào thân tùng, rồi xoay người một cái nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, đưa đôi mắt phượng mảnh dài liếc về phía cô bé, cười nhạt vẻ không hề thân thiện, nói: “Được thôi, cứ đi mà mách. Chỉ có điều đến khi ấy, cha mẹ ta, lại còn chưởng môn sư bá, hỏi rằng làm sao muội lại trèo lên cây thì đừng trách ta nói ra sự thực rằng có người học lén võ công.”
“Huynh nói bừa, đâu phải muội học lén võ công! Cha muội là chưởng môn, sao muội lại không thể học võ công của ông!” Cô bé Vân Hy tức giận giậm chân.
Khương Hằng giơ ngón tay trỏ, ấn mạnh vào trán Vân Hy, nói bằng giọng châm chọc: “Đồ ngốc, đã nói bao nhiêu lần rồi, Tùy gia thương đã có lời tổ huấn, chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ. Có bản lĩnh thì muội đi tìm sư tổ dưới âm phủ mà cãi lý!”
Câu nói ấy khiến Vân Hy không nói được gì nữa, chỉ biết xoa xoa chỗ trán bị ngã đau, ấm ức nhìn chằm chằm vào thiếu niên hơn mình năm tuổi đang đứng trước mặt.
Tùy Vân Hy là con gái duy nhất của Tùy Đồng Phủ – chưởng môn Tùy gia thương, từ nhỏ sinh ra ở Kỳ Sơn, lớn lên ở Kỳ Sơn, đã quen với cảnh cha mình cùng các vị sư huynh luyện quyền, múa thương. Nhưng các sư huynh chưa bao giờ gọi cô một tiếng “sư muội”, bởi vì chỉ có duy nhất cô bé là không phải thành viên trong môn phái. Tùy gia thương chú trọng sự cương mãnh, vốn không phù hợp cho nữ nhi tập luyện, sư tổ lại có lời răn: “Chỉ truyền cho nam, không truyền cho nữ”, nên cho dù Tùy Đồng Phủ thân là chưởng môn cũng không thể vi phạm lời tổ huấn. Nhưng cô bé Vân Hy từ nhỏ đã nghe thấy nhiều nên rất hiếu kỳ và hứng thú với môn công phu này, cô cũng từng cầu xin phụ thân cho mình được học thương, nhưng phụ thân xưa nay luôn yêu chiều cô lại nghiêm mặt, lớn giọng ném ra hai từ: “Vớ vẩn!”
Cô bé Vân Hy không chịu thua, trèo lên cây nhìn trộm vào Diễn Võ đường, ghi nhớ các chiêu thức võ công rồi về phòng mình tập trộm. Nhưng có một lần, cũng vào một ngày đông lạnh lẽo thế này, cô trèo lên cây xem lâu quá, ngón tay bị lạnh cứng không thể động đậy, thành ra muốn trèo xuống cũng không được. Cô muốn gọi người cứu nhưng lại sợ cha biết chuyện sẽ trách mắng nên lo lắng đến phát khóc. Đúng lúc ấy Khương Hằng đi ngang qua, bị giọt lệ của cô rơi đúng vào mặt, sau khi châm chọc thỏa thuê những câu như: “Ngốc thì chết, không có bản lĩnh còn học người ta trèo cây”, “Muội cứ chết cóng trên cây đi, đó là báo ứng của việc muội học lén võ công đấy”…, cuối cùng mới bế cô xuống. Sau khi Vân Hy cầu xin hết lần này đến lần khác, Khương Hằng mới không nói chuyện này cho phụ thân mình là Khương Tử Dã – sư đệ của Tùy Đồng Phủ biết, đổi lại, cậu lại ra một điều kiện bất bình đẳng.
“Không nói cho cha ta và chưởng môn sư bá biết cũng được.” Khi ấy Khương Hằng khoanh tay vẻ dương dương tự đắc, nhướng mắt nhìn Vân Hy. “Nhưng muội phải đồng ý với ta một điều kiện.”
“Được, chỉ cần huynh không nói cho cha muội biết, điều kiện gì muội cũng bằng lòng!” Cô bé vội vàng đồng ý.
Nói thực lòng, Khương Hằng nhất thời cũng chưa nghĩ ra được cái gì có thể có lợi cho mình, nhưng nếu đường đường chính chính nói là vẫn chưa nghĩ ra thì thật mất mặt, cậu bèn cố làm ra vẻ thần bí nói: “Đức Phật có câu: “Bất khả thuyết”(*), khi nào thời cơ chín muồi, ta sẽ nói cho muội biết. Muội phải nhớ cho kỹ đấy, không được chối đâu!”
(*)Không nói được.
“Không chối, không chối, tuyệt đối không chối.” Cô bé vội giơ ngón tay út ra. “Ngoắc ngón tay ghi nhớ, Vân Hy tuyệt không nuốt lời.”
Ngón tay thiếu niên vì luyện võ nên đã hơi có vết chai, ngoắc vào ngón tay nhỏ mềm của cô bé, giật mạnh ba lần.
Trong tuổi thơ của mình, họ đã có một lời hứa hẹn nho nhỏ. Nhưng có nằm mơ họ cũng không ngờ được rằng, lời hứa hẹn nho nhỏ ấy lại là một sai lầm đáng tiếc trong suốt cuộc đời của họ.
Kết thúc cuộc đời, khi Tùy Vân Hy lưng đeo cây thương bạc, bước vào Diễn Võ đường thì người thiếu niên từng ngoắc tay ghi nhớ với cô khi xưa đã gần trong gang tấc mà cách nhau trời vực, càng ngày càng xa. Hai người không tiếc tính mạng để đổi lấy lời hứa của mình, trong giang hồ loạn thế mưa gió tơi bời này, đã làm nên một khúc bi ca hào sảng.
Nhưng lúc đó, trong ngày tháng Chạp tuyết bay đầy trời ấy, hai đứa trẻ bọn họ lại có thể chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt không đâu mà tranh cãi với nhau. Vân Hy kêu to: “Khương Hằng, huynh đợi đấy! Rồi có một ngày, muội sẽ đánh bại huynh!” Còn thiếu niên thì cúi người, thuận tay bốc nắm tuyết dưới chân, vo lại thành nắm tròn xoe rồi cười ranh mãnh, túm lấy cái áo bông màu đỏ của Vân Hy, nhét nắm tuyết vào sau cổ áo của cô bé.
“Ối!” Vân Hy bị lạnh buốt, kêu to mấy tiếng, đôi tay nhỏ vội vàng thò vào trong áo nhưng làm thế nào cũng không thể moi nắm tuyết ra được. Khương Hằng đắc ý cười ha hả, Vân Hy lập tức bốc tuyết lên trả thù. Cô bé ném về phía Khương Hằng hết nắm tuyết này đến nắm tuyết khác, nhưng cậu vẫn dễ dàng tránh được. Cuối cùng lại là cô bé áo đỏ cầm tuyết đuổi theo cậu thiếu niên áo lam cao gầy, ầm ĩ khắp đồng khắp núi. Chiếc áo đỏ như lửa, trên sườn núi Kỳ Sơn trắng xóa mênh mang, y hệt như một đốm lửa di động, vô cùng nổi bật, vô cùng bắt mắt.
Nhưng đến một ngày, những năm tháng vui tươi trên núi đã bị một tờ giấy lụa phá sạch.
Đó là một tờ công văn được gọi là “Thánh dụ”, trên đó viết ba chữ lớn: “Thái Bình Ước”.
Khi Tôn Bồi Nguyên – một văn sĩ trẻ đã thi đỗ tiến sĩ, làm quan huyện Bình Dao và cũng là bạn cũ của Khương Tử Dã, dẫn Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn mang theo Thánh dụ lên Kỳ Sơn, muốn giải thích những cái hay của Thái Bình Ước cho bạn cũ, thì đúng vào thời gian đệ tử của Tùy gia thương đang ăn cơm tối.
Mặt trời chiều ngả về tây, tuyết bay lất phất, những bông tuyết dưới ánh nắng cuối ngày tạo thành một bức tranh khác lạ. Các đệ tử húp những bát cháo nghi ngút khói, bỏ thêm củ cải muối và thịt muối, vừa ăn vừa trò chuyện, không biết vì sao lại nói đến chuyện kế thừa ngôi vị chưởng môn.
“Sư phụ cũng thật là… Sư nương đã qua đời bao nhiêu năm rồi mà vẫn không chịu tục huyền.” Một đệ tử lắc đầu nói. “Sư phụ cũng không có huynh đệ, chỉ có một mình Vân Hy lại là con gái, e rằng sau này Tùy gia thương không có người kế thừa mất!”
“Ai nói chưởng môn sư bá không có huynh đệ? Sư phụ chúng ta không phải ư?” Một đệ tử theo học Khương Tử Dã nghe thấy thế thì không vui, lập tức vứt bát cháo, đập bàn nói. “Ai nói Tùy gia thương không có người kế thừa, luận về võ công thì sư phụ chúng ta cũng không kém gì chưởng môn sư bá!”
“Về chỗ của ngươi đi, chúng ta học cái gì nào? Tùy gia thương! Đó là thương pháp tổ tiên Tùy gia truyền lại, Khương sư thúc dù có giỏi hơn đi nữa thì sao, có thể đổi thành họ Tùy được không?”
Thấy hai nhóm đệ tử tranh cãi kịch liệt, một người bên cạnh đưa cùi chỏ huých Khương Hằng, cười nói: “Tranh cãi nhau cái gì, có gì phức tạp đâu! Sau này cứ cho Khương sư đệ lấy Vân Hy muội muội, gửi rể ở Tùy gia, thế là vấn đề kế thừa coi như ổn thỏa!”
“Hừ, ai thèm lấy nha đầu ngốc ấy chứ!” Khương Hằng bĩu môi với người kia, nói vẻ bất cần. “Ta là trưởng tử của Khương gia, há có thể sống nhờ dưới cửa người khác? Huynh muốn làm chưởng môn thì tự mà gửi rể, lấy nha đầu ngốc ấy đi!”
Câu nói ấy vừa vặn bị Vân Hy đi ngang qua nghe thấy. Cô bé còn nhỏ nên không hiểu những câu phức tạp đó, chỉ ngẩng mặt lên, ngờ nghệch hỏi: “Gửi rể là cái gì, có ăn được không?”
Tất cả đệ tử ở đó đều ôm bụng cười. Khương Hằng càng không nể nang, đập tay vào trán Vân Hy, mắng: “Ăn, ăn, ăn… Chỉ biết có ăn thôi! Muội đúng là ngốc chết đi được, còn ngốc hơn cả heo!”
Tiếng cười vang rộn cả núi, bỗng dưng bị một loạt tiếng ngựa hí phá tan. Chốc lát sau, ngoài sơn môn có tiếng đập cổng ầm ầm, rồi một giọng nói thô lỗ quát to: “Chưởng môn Tùy gia thương nghe lệnh, mau mở cửa nghe chỉ dụ!”
Nghe thấy tiếng quát, hai sư huynh đệ Tùy Đồng Phủ, Khương Tử Dã đang ngồi chơi cờ ở nhà trong, cùng sóng bước đi ra sân ngoài. Được chưởng môn gật đầu ra lệnh, một đệ tử chạy ra mở cổng. Then gỗ vừa tháo, lập tức có người đẩy mạnh hai cánh cổng gỗ mở toang, đập cả vào tường, kêu “rầm” một tiếng lớn.
Vân Hy giật nảy mình, quay đầu nhìn ra phía cửa, chỉ thấy ở ngoài đó quân lính đứng đầy, tên nào tên nấy đều nai nịt gọn ghẽ, động tác chỉnh tề đều tăm tắp, đứng thẳng ngay ngắn, không hề động đậy.
Dẫn đầu là một hán tử có thân hình cao lớn, để râu quai nón. Hắn vỗ vỗ con tuấn mã màu đen bên cạnh mình, sau khi giao dây cương cho thuộc hạ giữ liền liếc mắt nhìn hai vị lớn tuổi trong sân, cầm cây roi ngựa trong tay chỉ vào hai người, hỏi: “Hai ngươi ai là chưởng môn?”
Khương Tử Dã nhíu mày, lộ vẻ không vừa ý với thái độ ngạo mạn của viên quan này. Đúng lúc ấy, chợt thấy trong đám quân lính đang sắp hàng ngoài cửa có một người bước ra. Người này mặc bộ thanh sam theo lối văn sĩ, hổn hển chạy lên, thấy Khương Tử Dã, ông ta nhếch miệng để lộ vẻ tươi cười.
“Khương huynh, đã lâu không gặp, lâu nay vẫn bình an chứ? Tại hạ xin giới thiệu với huynh, vị này là Triệu Thống lĩnh, từ kinh thành tới.”
Vừa nói, văn sĩ vừa bước vào sơn môn, giới thiệu cho cả đôi bên: “Triệu Thống lĩnh, vị này là bằng hữu chí giao của tại hạ – Khương Tử Dã, ông ấy chính là ân nhân cứu mạng của tại hạ. Còn vị đứng bên cạnh đây là sư huynh của ông ấy, cũng là chưởng môn nhân của Tùy gia thương, Tùy Đồng Phủ.”
Thấy có bằng hữu giới thiệu cho mình, Tùy Đồng Phủ, Khương Tử Dã cùng chắp tay thi lễ. Nhưng tên Triệu Thống lĩnh kia dường như không nể mối thâm tình ấy, chỉ hơi giơ bàn tay cầm roi ngựa coi như chào hỏi.
Thấy đối phương vô lễ, Khương Tử Dã bước lên một bước định nói chuyện nhưng bị sư huynh Tùy Đồng Phủ giơ tay chặn lại. Tùy Đồng Phủ nhìn văn sĩ, trầm giọng hỏi: “Tôn đại nhân, xin hỏi hôm nay ngài dẫn quân lính đến đây là vì chuyện gì?”
“Tôn đại nhân gì chứ!” Văn sĩ cười nói. “Trước mặt các ngài, tại hạ chẳng qua chỉ là một tú tài bần hàn suýt chết dưới đao của bọn cường đạo mà thôi. Nếu không có các ngài thì sao hôm nay tại hạ còn có thể đứng đây nói chuyện được.”
Khương Tử Dã hơi mỉm cười, người bằng hữu Tôn Bồi Nguyên này của ông tuổi còn rất trẻ đã đậu tiến sĩ, trở thành quan huyện Bình Dao, tương lai nhất định sẽ còn thăng tiến, tiền đồ vô lượng. Làm quan mấy năm, ông ta cũng không hề quan cách, điểm này thực sự là đáng quý.
Tôn Bồi Nguyên càng tươi cười, vui mừng nói: “Hôm nay tại hạ cùng Triệu Thống lĩnh đến đây là muốn tuyên bố với các ngài một tin tốt vô ngần…”
“Hai vị đại nhân, xin vào nhà rồi hãy nói cho rõ!”
Tùy Đồng Phủ bỗng cắt ngang lời Tôn Bồi Nguyên, ông đưa mắt nhìn một lượt các đệ tử đứng cách đó không xa, ra hiệu bằng mắt cho sư đệ ở bên cạnh rồi thi lễ với hai vị quan viên triều đình, và đưa tay mời vào.
Khương Tử Dã hiểu ý, nhân khi ba người đi vào sảnh đường, quay sang đám đệ tử mắng bảo: “Kéo nhau ra đây xem cái gì chứ? Về phòng hết! Hằng nhi, con dẫn Vân Hy về phòng!”
Khi tất cả đệ tử trong sân đã giải tán hết, Khương Tử Dã liếc nhìn cổng lớn, thấy quân lính ngoài cổng vẫn đứng xếp hàng ngay ngắn, chật cứng trước sơn môn. Không hiểu sao, trong lòng vị trưởng giả luyện võ đã nhiều năm này chợt thấy u ám. Ông chau mày, cố nén nỗi bất an trong lòng và bước vào sảnh đường.
Trên sảnh, Tùy Đồng Phủ đã thu dọn bàn cờ, thắp đèn lên. Vị thống lĩnh họ Triệu chẳng suy nghĩ gì đã ngồi ngay vào ghế chủ vị dưới bức tranh tùng hạc, trông dáng điệu rất ngông nghênh. Đối diện với tên quan quân không coi ai ra gì ấy, Tùy Đồng Phủ vẫn thản nhiên, lịch sự gọi một tiếng: “Dâng trà”, rồi quay sang Tôn Bồi Nguyên, trầm giọng nói: “Tôn đại nhân, xin mời ngài nói!”
Tôn Bồi Nguyên còn chẳng kịp uống trà, vội vàng kéo Khương Tử Dã ngồi xuống, nét mặt tươi cười, nói: “Khương huynh, chắc huynh còn nhớ tại hạ từng nói, nếu như thiên hạ không còn võ công, không có tranh giành giang hồ, không có ân oán bang phái, trăm họ an cư lạc nghiệp, thì sẽ có thể thái bình chứ?”
”Tất nhiên còn nhớ.” Khương Tử Dã cười đáp. Trước kia, Tôn Bồi Nguyên trên đường đi thi gặp phải toán giặc cướp, thiếu chút nữa thì mất mạng, may gặp được Khương Tử Dã ra tay trừ khử lũ giặc cướp ấy. Tôn Bồi Nguyên cảm kích ơn cứu mạng của ông, ra sức mời ông cùng uống rượu. Ai hay kẻ mời rượu lại kém sức rượu, mới uống được vài chén, ông ta đã say nghiêng ngả, mạnh miệng nói đến mộng tưởng thiên hạ thái bình ấy. Khi đó, Khương Tử Dã chỉ cảm thấy thư sinh này tuy rằng có suy nghĩ xa vời nhưng cũng mang lòng mong mỏi thiên hạ được an lạc, nếu thực sự được đề tên bảng vàng thì sẽ là một viên quan tốt, có lòng lo cho trăm họ. Và sự thực đúng là như vậy, từ khi Tôn Bồi Nguyên làm quan huyện Bình Dao, mấy năm nay luôn công chính liêm khiết, trăm họ trong huyện chẳng ai không khen ngợi.
Thấy Khương Tử Dã gật đầu, Tôn Bồi Nguyên hớn hở nói: “Mộng thái bình ấy của tại hạ sắp được thực hiện rồi đấy!”
“Hả?” Nghe thấy câu ấy, Khương Tử Dã giật mình. Đừng nói là ông, ngay cả Tùy Đồng Phủ cũng thấy hơi kinh ngạc.
Tôn Bồi Nguyên lại nói tiếp: “Triệu Thống lĩnh đây từ kinh thành tới, mang theo chỉ dụ mới của Thánh thượng. Đó là cái phúc của võ nhân trong thiên hạ, càng là cái phúc của vạn dân, chuyện thiên hạ không còn võ công chẳng bao lâu sau sẽ thành hiện thực!”
Triệu Thống lĩnh lấy trong người ra bảng chỉ dụ màu vàng, hai tay mở rộng. Chỉ thấy trên bức cẩm thư đề ba chữ lớn “Thái Bình Ước” đập ngay vào mắt.
“Thái Bình Ước, ý rằng bảo vệ thiên lý, trừ diệt tà đạo, làm trong sạch võ lâm, chấm dứt chuyện bang phái tranh giành, trả lại cuộc sống thái bình cho trăm họ. Phàm các nhân sĩ trong võ lâm, nên lấy điều ước này làm chuẩn mực, một là không tụ tập đấu võ, hai là không mang theo binh khí, ba là không gây thù hằn bang phái, phàm việc phải theo pháp luật thi hành, tất thảy bang phái phải xóa bỏ hiềm khích, quy về bộ Binh quản lý, nghe theo hiệu lệnh của triều đình. Còn về các điển tịch võ học, ấy là bảo vật của Thiên triều, nên giao nộp cho triều đình, qua bộ Lễ chỉnh lý, nhập vào thư khố võ học, để tiếng thơm muôn đời, lưu truyền vạn đại, dành phúc cho tử tôn.”
Triệu Thống lĩnh nghiêm trang đứng dậy, tuyên đọc nội dung trong tờ chỉ dụ. Từng câu từng chữ, khiến Tôn Bồi Nguyên nghe xong nét mặt hân hoan, nhưng lại khiến Tùy Đồng Phủ và Khương Tử Dã sắc mặt dần sa sầm. Hai người quay sang nhìn nhau, lặng lẽ hồi lâu, đợi Triệu Thống lĩnh đọc xong, Tùy Đồng Phủ chau mày nói: “Thái Bình Ước này đúng là cũng có lý. Tụ tập đấu võ, làm thương tổn đến người vô tội, thực sự không nên. Hơn nữa, con dân của Thiên triều ta tuân thủ theo hình pháp, đó cũng là việc trong bổn phận. Chỉ có điều, mấy hạng mục như môn phái phải xóa bỏ hiềm khích, quy về bộ Binh quản lý, giao nộp điển tịch võ học, phải chăng có điều chưa thỏa đáng?”
“Hỗn xược!” Triệu Thống lĩnh giận dữ đập bàn, làm vỡ cả chén, đoạn cầm roi ngựa chỉ vào Tùy Đồng Phủ, tức tối nói: “Ngươi nghĩ mình là thá gì mà dám chất vấn Thánh thượng? Hôm nay nếu không phải là nể mặt Tôn đại nhân, bản tướng há lại tốn công nói chuyện với các ngươi! Thái Bình Ước này, Tùy gia thương các ngươi có ký hay không?”
Trước câu hỏi của đối phương, Tùy Đồng Phủ chỉ chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nói: “Ký thì thế nào, mà không ký thì thế nào?”
“Ký Thái Bình Ước rồi, thì được tính là võ lâm chính đạo, quy thuận triều đình, đệ tử của Tùy gia thương các ngươi quy về bộ Binh quản lý, vừa là dân vừa là lính, gặp thời chiến thì bảo vệ sơn hà.” Triệu Thống lĩnh cười nhạt nói. “Còn nhược bằng không ký, tất nhiên là tà ma ngoại đạo, tất cả phải bị tru diệt! Khi ấy đừng trách ta ra tay vô tình!”
Nghe thấy những lời uy hiếp lộ liễu ấy, Khương Tử Dã đập bàn đứng dậy, giận dữ nói: “Chính đạo tà đạo, há do một tờ công văn của ngươi mà quyết định được sao? Mặc xác cái Thái Bình Ước đó của ngươi, ta đi ngay đứng thẳng, trên không hổ với trời xanh, dưới không thẹn với đất dày, cần chi đám chó săn nhà quan các ngươi thừa nhận?”
Thấy đôi bên đã muốn động thủ, Tôn Bồi Nguyên sợ toát mồ hôi, vội đứng dậy xoa dịu: “Khương huynh, xin bình tĩnh chớ nóng vội, xin bình tĩnh chớ nóng vội! Thái Bình Ước này, vốn là chuyện tốt lợi nước lợi dân vậy! Huynh chắc cũng hiểu, giang hồ hỗn loạn, bao nhiêu tà ma ngoại đạo động một chút là giết người, đốt nhà, làm hại lê dân trăm họ. Có Thái Bình Ước này rồi, các nhân sĩ chính đạo sẽ được tập hợp, cùng triều đình tiễu trừ tà phái, đó chẳng phải là chuyện tốt lắm sao?”
Không đợi Khương Tử Dã phản bác, Tôn Bồi Nguyên lại nói: “Còn như ba điều chưa thỏa đáng mà Tùy chưởng môn vừa nói, điều thứ nhất là xóa bỏ hiềm khích môn phái, các ngài nên biết rằng, ân oán bang phái giang hồ nhiều chuyện phức tạp, động chút là tìm kẻ thù gây sự, hôm nay ngươi giết ta, ngày mai ta giết ngươi, cứ một qua hai lại như vậy, oán thù ngày càng sâu. Nếu như có thể mượn Thái Bình Ước để trừ bỏ những ân oán ấy thì thực là phúc trạch to lớn lắm thay. Về điều thứ hai, quy về cho bộ Binh quản lý, điểm này càng không có gì là sai cả. Huyện Bình Dao chúng ta có biết bao nhiêu cường đạo thổ phỉ, chính Khương huynh cũng thường giúp ta truy bắt phạm nhân đó thôi. Ngài thường nói, học võ chẳng phải chỉ để khỏe người mạnh sức, còn để diệt trừ cái ác, tuyên dương cái thiện. Nếu các ngài ký bản Thái Bình Ước này, quy về cho bộ Binh quản lý, thì có thể danh chính ngôn thuận mà hành hiệp trượng nghĩa rồi. Đến khi thiên hạ thái bình, các đệ tử được an cư lạc nghiệp, không khác gì trước kia. Còn như Triệu Thống lĩnh vừa nói, thời chiến thì bảo vệ sơn hà, ấy chẳng phải là bổn phận của võ nhân ư? Về điều thứ ba, giao nộp điển tịch võ học, Thái Bình Ước tuy có nói là triều đình thu giữ, nhưng cũng chỉ là để bảo tồn, lưu truyền cho tử tôn hậu đại, không đến nỗi bị thất truyền. Tùy gia thương vẫn sẽ là Tùy gia thương, điểm này không thay đổi chút nào, chỉ là sẽ trở thành danh môn chính phái, tuân thủ pháp luật, nghe theo hiệu lệnh triều đình, được triều đình thừa nhận mà thôi, hoàn toàn không hề có tổn thất gì cả, thực là chuyện tốt lắm thay!”
Thấy Tôn Bồi Nguyên nhọc lòng khuyên giải, Tùy Đồng Phủ lạnh nhạt nói: “Tôn đại nhân, cứ như từng lời từng chữ ngài nói, Thái Bình Ước đúng là chuyện tốt đem lại phúc trạch cho trăm họ, nhưng ngài có từng nghĩ đệ tử của Tùy gia thương chúng ta, lại còn hàng ngàn hàng vạn nhân sĩ võ lâm khác, cũng là lê dân của triều đình chưa? Ngài hãy hỏi bọn họ xem, có bằng lòng quy về cho bộ Binh thống lĩnh, có bằng lòng ra chiến trường không?”
Nghe thấy câu ấy, Tôn Bồi Nguyên buột miệng nói luôn: “Chuyện ấy lại còn phải hỏi? Đã là người học võ, làm sao không bằng lòng ra chiến trường? Nếu không có ý bảo vệ sơn hà thì học võ làm gì?”
”Không sai, ta từng nói rồi, kẻ học võ nên diệt trừ cái ác, tuyên dương cái thiện.” Khương Tử Dã nói lớn. “Nhưng hành hiệp trượng nghĩa, trừ mạnh giúp yếu, lại phải báo cáo, lại phải được bộ Binh này, bộ Hình kia cho phép, thì còn là võ nhân gì? Có khác nào một con chó săn của triều đình? Lại còn không được mang theo binh khí, rõ là buồn cười! Khương Tử Dã ta học Tùy gia thương, thương còn người còn, thương gãy người chết!”
Lời còn chưa dứt, Khương Tử Dã đã vòng tay ra sau rút cây thương bạc trên lưng, cầm cán thương giội mạnh xuống đất. Chỉ nghe “choang” một tiếng, Khương Tử Dã chống thương đứng dậy, sống lưng thẳng tắp, hệt như cán thương!
Thấy ông lôi thương ra, Triệu Thống lĩnh cười nhạt nói: “Nói như vậy là Tùy gia thương các ngươi từ chối không ký điều ước đúng không?”
”Thái Bình Ước gì chứ, coi võ nhân chúng ta là thứ tượng đất cho các ngươi muốn vê muốn nặn thế nào tùy ý ư?” Khương Tử Dã giận dữ nói.
Thấy sư đệ nổi giận, Tùy Đồng Phủ đưa tay ngăn lại, quay sang Triệu Thống lĩnh chắp tay, trầm giọng nói: “Thống lĩnh đại nhân, đã là Thánh dụ thì Tùy mỗ không dám bình luận bừa thêm về Thái Bình Ước nữa. Nhưng tờ công văn này lại có liên can đến thương pháp mà tổ tiên Tùy gia truyền lại, liên can đến cơ nghiệp trăm năm của Tùy gia thương. Nếu có một ngày hiềm khích giữa các môn phái được xóa bỏ, võ học trong thiên hạ được hội hợp giao hòa, thì đó đúng là một việc may mắn cho võ lâm. Nhưng hôm nay, tùy mỗ không thể để danh hiệu Tùy gia thương bị xóa bỏ trong tay mình được.”
”Ồ, ý ngươi là sẽ không ký chứ gì?”
Trước câu hỏi của Triệu Hãn, Tùy Đồng Phủ lại chắp tay, nói từng tiếng một: “Không - thể - ký!”
”Được lắm!” Triệu Thống lĩnh hét to một tiếng, cây roi ngựa trong tay vút ra. Chỉ nghe một tiếng xé gió, đường roi sắc lẹm nhắm thẳng Tùy Đồng Phủ đánh tới.
Thấy sư huynh bị đánh, Khương Tử Dã đang cầm cây thương bạc lập tức nhún chân nhảy ra, vung thương chặn ngay đòn đánh của Triệu Hãn! Hai người kình lực va nhau, không ai chịu ai.
Triệu Hãn tuy là quan viên, nhưng cũng là thống lĩnh cấm vệ quân, luận về thân thủ đáng được coi là cao thủ nhất đẳng trên giang hồ. Chỉ thấy hắn múa cây roi ngựa kín đến gió không lọt, kình khí tập trung như chia trời rạch biển, bổ thẳng xuống đầu. Khương Tử Dã vội lùi mấy bước, tìm chỗ thủ thế, đợi đúng khoảnh khắc cây roi dài sắp vụt tới người mình liền tung ngay một chiêu Lâm Sơn Cổ Chiếu, đầu mũi thương bạc lấp loáng lóe sáng, dũng mãnh tựa chim hồng, nhằm thẳng mặt Triệu Hãn đâm tới.
Triệu Hãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, xoay lòng bàn tay, kình khí dồn vào cây roi chớp mắt lưu chuyển, cây roi ngựa lập tức như một con linh xà, bỗng đâu quấn chặt cây thương bạc, lực mạnh đến nỗi làm chấn động hổ khẩu (*) của Khương Tử Dã. Sau giây lát, Triệu Hãn xoay cổ tay, cây roi tựa như con rắn liền giật cây thương bạc tuột khỏi tay Khương Tử Dã văng ra xa.
(*) Chỉ khoảng mở giữa ngón tay cái và bàn tay.
Chỉ thấy sáng lóe như ánh chớp, cây trường thương sáng bạc liền bay ra khỏi sảnh đường, cắm ngập vào mặt đất phủ đầy tuyết ngoài cửa, rung rinh hồi lâu, tiếng “choang” ngân mãi không dứt.
Cùng lúc ấy, gần trăm quân lính bên ngoài sơn môn đột nhiên phá cửa xông vào, chớp mắt đã vây kín quanh sân Tùy gia đến một giọt nước cũng không lọt. Chẳng bao lâu sau, tất cả đệ tử Tùy gia thương bị đuổi về phòng lúc trước đều bị quan binh trói hai tay, dẫn tới nơi, đến đàn bà con trẻ cũng không tha. Vân Hy được bà Khương ôm trong lòng, đôi mắt to đen láy, nghi hoặc nhìn những vị khách không mờ mà đến.
Thống lĩnh Triệu Hãn không thèm nhìn lại hai người Tùy Đồng Phủ và Khương Tử Dã, chắp tay sau lưng đi ra ngoài sảnh đường, đứng yên trên sân tuyết. Hắn đưa mắt nhìn một lượt đám đệ tử của Tùy gia thương đang bị trói, lại đưa tay sờ lên cây thương bạc cắm sâu dưới đất, lạnh lùng bảo: “Một là đắc đạo, hai là thành ma, ta cho các ngươi một cơ hội cuối cùng, Thái Bình Ước các ngươi có ký hay không?”
”Ký! Ký!”
Không đợi hai người Tùy, Khương lên tiếng, Tôn Bồi Nguyên đã vội vã cắt lời. Ông ta kéo tay áo Khương Tử Dã, nói vội: “Khương huynh, chớ nên cố chấp như vậy! Nếu như từ chối ký Thái Bình Ước, nhẹ sẽ bị đày ra biên ải, nặng thì bị trừng trị theo vương pháp! Đây vốn là một chuyện rất tốt, sao huynh lại không nghĩ thoáng được một chút?”
”Hừ! Chuyện tốt?” Khương Tử Dã cười khẩy. “Nếu là chuyện tốt, sao phải dùng tính mạng của đệ tử ta để ép buộc? Nếu là chuyện tốt, sao đến cả đàn bà trẻ con cũng không tha? Khen cho Thái Bình Ước, thái bình mà thế này, chúng ta không nhận nổi!”
”Giỏi, giỏi lắm!” Triệu Hãn buông tay, khỏi thương bạc, quay sang cầm cây roi ngựa bên hông. “Nếu như các ngươi rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt thì ta cũng không khách sáo.”
Nói xong, Triệu Hãn vung cây roi dài, dồn hết mười thành công lực, chỉ nghe một tiếng vang chói tai, cây roi đánh thẳng vào cây thương bạc đang cắm sâu trong sân tuyết.
Một tiếng “choang” vang lên, cây thương thẳng tắp chớp mắt gãy làm đôi, rơi xuống lớp tuyết dày.
”Khen cho câu “thương còn người còn, thương gãy người chết“.” Triệu Hãn khiêu khích, quay sang nhìn Khương Tử Dã mặt mũi tái nhợt, cười nhạt nói tiếp: “Ngươi chí ít cũng là thầy của người khác, không đến nỗi trước mặt bao nhiêu đệ tử thế này mà lại nuốt lời đấy chứ?”
Khương Tử Dã mặt mày tái nhợt, đi từng bước tới trước cây thương gãy của mình. Tùy Đồng Phủ đưa tay ngăn lại, nhưng bị Khương Tử Dã gạt đi. Chỉ thấy dưới tuyết rơi đầy trời, Khương Tử Dã đi đến trước chỗ cây thương, đưa mắt nhìn một lượt những đệ tử mình đã dạy nhiều năm, lại nhìn người vợ kết tóc và đứa con trai duy nhất mới mười ba tuổi của mình. Rồi, ông cầm một đoạn thương gãy lên, trầm giọng nói: “Đại trượng phu nhất ngôn cửu đỉnh, Khương Tử Dã ta há lại là người nói một đằng làm một nẻo? Thương còn người còn, thương gãy người chết!”
Chưa nói dứt câu, Khương Tử Dã đã đâm mạnh đoạn thương gãy vào giữa tim mình!
Cùng lúc ấy, Tùy Đồng Phủ phi thân nhảy tới, định cứu tính mạng sư đệ, nhưng đã không còn kịp nữa.
”Cha!”
”Sư phụ!”
”Sư thúc!”
Mấy tiếng kêu thảm thiết cùng lúc vang lên, trên nền tuyết trắng, vẻ bi thương phủ khắp. Cậu thiếu niên Khương Hằng hét to định xông lên, nhưng bị mẫu thân ở bên cạnh kéo trở lại. Bà tuy không biết võ công, nhưng lúc này bỗng có một sức mạnh kỳ là mà người ta khó có thể tin được, giữ chặt lấy đứa con trai của mình. Cánh tay thường ngày luôn mềm mại yếu đuối, vậy mà giờ đây lại cứng như sắt. Bà bịt chặt miệng Khương Hằng, giữ cho tiếng gọi “Cha!” của cậu không bị vuột ra.
Người đàn ông cao lớn vững chãi như núi, luôn che chở mưa gió cho bà; người đàn ông từng nhìn bà bảo Kỳ Sơn bốn mùa đều là cảnh đẹp, hỏi bà có bằng lòng cùng ông lên núi không, cuối cùng cũng đã ngã quỵ xuống. Khương phu nhân câm lặng nhìn chồng mình ngã xuống nền tuyết trắng, nhìn dòng máu tươi từ tim ông phun trào ra, chảy ngoằn ngoèo trên tuyết.
Vốn không giỏi ăn nói, ông chưa bao giờ nói với bà những câu thề non hẹn biển, ngay đến những câu tình tứ đơn giản như “trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”, cũng chưa từng nói với bà. Nhưng sâu thẳm trong tim bà từ lâu đã nguyện lòng ở bên ông trọn đời, dù sông cạn đá mòn cũng không bao giờ thay đổi.
Trong tim chỉ còn một màu tuyết trắng, xưa nay Khương phu nhân vốn hay cười, vậy mà lúc này trên mặt không hề có biểu cảm gì, không một làn sóng gợn, không tức giận cũng không kinh sợ, bà bình tĩnh nhìn thi thể chồng mình dần bị những bông tuyết rơi xuống phủ kín, cánh tay đang ghì chặt con trai càng siết chặt hơn. Mặc cho nhi tử vùng vẫy, Khương phu nhân cũng không để cho nó kêu lên tiếng nào, chỉ cúi đầu xuống, nhìn đứa con trai vẻ mặt đầy uất hận, nói nhỏ: “Hằng nhi, bảo vệ Vân Hy, trốn đi!”
Không để cho con trai phản bác nửa lời, Khương phu nhân đã kéo đứa bé đang khóc thút thít bên cạnh mình, cầm lấy bàn tay nhỏ của Vân Hy, ấn vào tay Khương Hằng.
Rồi Khương phu nhân đứng thẳng dậy, vóc dáng gầy gò như chống đỡ cả bầu trời. Chỉ thấy bà đi từng bước đến trước mặt Triệu Hãn và Tôn Bồi Nguyên đang kinh hãi, nói lớn: “Ta là đàn bà, chẳng biết gì về đạo nghĩa giang hồ, cũng chẳng hiểu luật lệ triều đình như thế nào. Ta chỉ biết, thiên hạ thái bình thì đàn bà con trẻ phải có ăn có mặc, có thể an cư lạc nghiệp, giúp chồng dạy con, không buồn không khổ, không sợ không kinh... Thế nhưng các người...”
Khương phu nhân đưa tay chỉ về phía Triệu Hãn, nói lớn: “Phu quân ta nhìn lên nhìn xuống đều không hổ thẹn với đất trời, xưa nay chưa từng làm nửa điều ác, vậy mà hôm nay lại bị ngươi bức tử ở Kỳ Sơn, khiến gia đình ta nhà tan cửa nát, ngươi còn dám nói cái chỉ dụ ngươi mang đến là thái bình gì đó ư?”
”Còn ngươi!” Khương phu nhân quay sang chỉ tay vào Tôn Bồi Nguyên, lớn giọng chất vấn. “Phu quân ta từng cứu ngươi khỏi cái chết, ngươi thì luôn miệng ân nhân cứu mạng, thế mà bây giờ lại dẫn người lên núi bức tử ông ấy, đó là cách báo ân của ngươi ư?”
”Không... tẩu tẩu, ta... ta không...” Tôn Bồi Nguyên đọc ngàn cuốn sách, trong phủ nhà lúc nào cũng thao thao bất tuyệt, lúc này lại ấp úng không nói nên lời, nước mắt tuôn ra, giọng nói run rẩy bảo: “Làm sao... làm sao ra nông nỗi này...”
Những ánh nắng chiều sót lại, cuối cùng cũng tan biến hết thảy sau lưng núi. Màn đêm nặng trĩu che phủ bốn bề, dưới bầu trời đen kịt, tuyết vẫn rơi bời bời.
Khương phu nhân đứng trong mưa tuyết, từ từ ngồi xuống, rút đoạn thương gãy đâm thấu tim từ thi thể Khương Tử Dã ra, cầm chặt trong tay.
Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên bà đứng vụt dậy, lao thẳng về phía Triệu Hãn, liều mạng đâm đoạn thương gãy vào giữa ngực gã quan viên triều đình. Nhưng Triệu Hãn kia thân thủ thế nào? Hắn chỉ hơi lui nửa bước, nghiêng người tung một chưởng, thế là đã lập tức đánh ngã Khương phu nhân xuống đất.
Khương phu nhân ngồi trên nền tuyết, thấy không thể phục thù, liền bật cười thê thảm, cầm thương đâm thẳng vào giữa ngực mình, rồi phủ phục xuống thi thể phu quân.
”Sư nương!”
”Sư thúc mẫu!”
Đệ tử Tùy gia thương uất nghẹn, kéo nhau phá vòng vây của quan binh, tràn lên phía trước. Nhất thời, không nghe thấy một câu thứ hai, chỉ có tiếng vũ khí va chạm với nhau. Các đệ tử Tùy gia thương đã khóc đỏ mắt, lấy thân mình xô đến, cùng chiến đấu với đối phương.
”Liều mạng với bọn cẩu quan này thôi!” Triệu Hãn chỉ đưa tay lên, lạnh lùng nói: “Trừng trị theo pháp luật.”
”Không, Triệu Thống lĩnh, không được! Xin cho tôi một chút thời gian, cho tôi chút thời gian, tôi nhất định có thể thuyết phục được họ!” Tôn Bồi Nguyên vội nói, nhưng trong lòng ông ta cũng hiểu, lúc này đây, làm sao còn có thể thuyết phục được nữa. Ông ta chỉ biết khổ sở cầu xin, nhưng đã bị người của cả hai bên đẩy ngã, nằm vật trên mặt đất, im lặng nhìn thi thể ân nhân cứu mạng nằm trên tuyết, rất lâu không thốt được lời nào.
Đám đệ tử Tùy gia thương xông lên trước, bị loạn đao của quân lính đâm chém, xương tan thịt nát, máu đổ thịt văng, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Tùy Đồng Phủ tay cầm thương bạc, như tắm trong máu, mái tóc hoa râm đã nhuộm đỏ máu của mình cũng như kẻ địch. Ông quét một đường thương, dồn hết nội lực toàn thân, đánh một đòn chí mạng về phía Triệu Hãn, đó là đòn đánh mà cả hai sẽ cùng phải chết!
Triệu Hãn há lại không nhận ra chiêu liều mạng của đối phương? Lúc này hắn cũng không cố liều, tiện tay túm lấy một đệ tử của Tùy gia dùng làm lá chắn, chặn trước người mình. Tùy Đồng Phủ vội vàng thu chiêu, xoay người tránh đi. Nhân khi chiêu thức của Tùy Đồng Phủ bị phá, Triệu Hãn đưa tay tung ra một chưởng, kình khí mạnh mẽ đánh vào vị trưởng giả khiến ông bay văng ra. Tùy Đồng Phủ đập mạnh vào bức tường cao, vết thương trên lưng in hằn một vệt máu nổi bật trên bức tường trắng.
Triệu Hãn tiện tay nhặt một cây trường thương, đâm xuyên cổ họng một đệ tử Tùy gia đang xông tới. Chỉ thấy đầu mũi thương đâm rách da thịt, trên những sợi tua đỏ máu tươi nhỏ giọt tong tong. Triệu Hãn tùy ý rút thương lại, để thi thể đổ gục xuống một bên, rồi lập tức chạy lại phía Tùy Đồng Phủ. Hắn cười nhạt đâm cây thương bạc trong tay, chỉ nghe xương thịt vang lên một tiếng trầm đục, cây trường thương đã đâm xuyên xương đòn ông, đóng đinh chặt ông vào bức tường!
”Hàng hay không hàng?”
Tùy Đồng Phủ hơi hé miệng, máu tươi liền từ khóe miệng trào ra, ông khạc máu nói: “Thương có thể gãy, người có thể chết, cơ nghiệp trăm năm của Tùy gia thương, đạo nghĩa võ nhân của Tùy gia thì tuyệt không thể chấm dứt ở đây. Hôm nay không thể, ngày mai không thể, Tùy gia vĩnh viễn không bao giờ mất!”
”Hủ lậu.” Triệu Hãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, không nói nhiều thêm, cầm trường thương đâm thẳng vào tim Tùy Đồng Phủ.
Chưởng môn nhân bị ghim trên tường cao, gục đầu xuống, không còn động đậy gì nữa. Triệu Hãn quay người, chỉ thấy tòa đình viện trên lưng núi đã thành chốn địa ngục tu la, thây chất đầy đất, máu chảy thành sông, đệ tử Tùy gia thương chỉ còn lại mấy tên sợ chết, đang run rẩy quỳ xuống đất.
Trong số đó có một tên quay về phía Triệu Hãn khấu đầu, nói vẻ thành khẩn: “Khởi bẩm đại nhân, chưởng môn sư bá còn có một cô con gái duy nhất, là truyền nhân Tùy gia, khi nãy có lẽ đã nhân loạn trốn chạy rồi.”
Triệu Hãn nhíu mày, rút cây roi ngựa bên lưng ra, bước đến trước mặt kẻ đang khấu đầu, bỗng vung cây roi quấn chặt lấy cổ tên đệ tử ấy, giật mạnh một cái. Chỉ nghe một tiếng “rắc” vang lên, sống cổ kẻ đó lập tức bị cây roi bẻ gãy. Triệu Hãn đưa chân đá cái xác đổ gục bên chân mình ra, lạnh lùng nói: “So với những kẻ ngu si hủ lậu, bản tọa còn ghét những kẻ tiểu nhân bất trung hơn. Giết hết bọn chúng cho ta!”
Chỉ nghe mấy tiến
Bình luận truyện