Trăng Sáng Cố Hương
Chương 6: Chia rẽ
Đỉnh Sơn nằm ở phía tây bắc Trung Nguyên, có hình dạng giống một cái đỉnh nên được gọi như vậy. Núi này chu vi lên đến trăm dặm, nhiều cây cỏ che phủ, có cả những cổ thụ ngàn năm cao chọc trời. Trên đỉnh núi xanh biếc, do địa hình lõm xuống nên đã hình thành một hồ nước thiên nhiên, người ta gọi là “Đỉnh Hồ”. Nước ở Đỉnh Hồ là nước từ trời, hồ tựa một viên ngọc minh châu xinh đẹp trên đỉnh núi cao này, dải nước trong như lụa, men theo triền núi chảy xuống, trông như một con rồng bạc quấn quanh sườn núi, trong khi quanh co uốn lượn, nuôi nấng tất cả sinh linh cỏ cây trên núi, đồng thời tưới tắm cho thôn Đỉnh Sơn dưới chân.
Nhưng đêm ấy, sơn thôn nhỏ bé xưa nay vốn yên tĩnh đã bị những tiếng vó ngựa sắt dồn dập phá tan. Ánh đuốc soi sáng khắp nơi, hàng ngàn quan binh lưng đeo bảo kiếm, tay cầm đuốc lửa, vây chặt thôn. Quan binh xông thẳng vào nhà dân, khiến dân chúng hãi hùng luôn miệng kêu “quan gia”, những người phụ nữ ôm chặt con thơ trong lòng, kinh hoảng nhìn đám võ nhân đột nhiên xuất hiện. Đuốc lửa hắt ánh vào khôi giáp, đao sắt quan binh đeo sáng lòa.
“Thống lĩnh đại nhân, tất cả hai mươi sáu hộ dân trong thôn đều đã lục soát, không phát hiện thấy tung tích của Lạc Dương.” Sau khi khám xét một vòng từng nhà, một tên lính đi nhanh ra ngoài cổng sơn thôn, chắp tay bẩm báo với một viên quan quân đang cưỡi trên lưng con tuấn mã màu đen.
Viên quan quân ấy vóc người cao lớn, mắt to mày rậm, râu ria lởm chởm, chính là Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn. Hắn liếc mắt nhìn xóm nhỏ đang bị ánh đuốc soi sáng rực, lạnh lùng nói: “Vây chặt lại cho ta, chạy mất một người nào thì ta sẽ hỏi tội Tiểu Tứ ngươi!”
Nói xong, hắn vung roi, hô to một tiếng, con tuấn mã hí vang rồi phóng đi nhanh như gió cuốn, tiếng vó nện phá tan bầu không khí yên ắng nơi núi non.
Thấy Triệu Hãn đã đi, viên Phó thống lĩnh Ngô Quý nhìn khắp quân lính bốn phía xung quanh, cất giọng quát to: “Lập tức phong tỏa Đỉnh Sơn! Tất cả những con đường núi, không được bỏ qua một đường nào! Nếu có bất cứ ai xuống núi, các ngươi cứ việc mang đầu lại đây!”
Quân lính vội vàng xếp hàng, tản ra bốn phương tám hướng, nhưng không ai phát hiện ra rằng, chính trong lúc ấy, giữa màn đêm đen thăm thẳm, một cặp mắt màu vàng đang thu vào tầm nhìn của mình tất cả hành động của chúng. Bóng đen ấy đi đi lại lại dưới chân núi Đỉnh Sơn một vòng, rồi lập tức nhanh như tên bắn, xông thẳng lên đỉnh núi cao.
Bên bờ Đỉnh Hồ trên đỉnh núi.
Trong đêm đen, tiếng côn trùng rả rích. Giữa lớp cỏ úa cao ngang gối, một con rắn cạp nong đang lặng lẽ bò, bám sát theo đôi hài nhỏ màu hồng phấn thêu hoa sen.
“Có rắn... ối ối...”
Thiếu nữ kinh hãi kêu lên, liền bị một người bịt chặt lấy miệng. Đó là một chàng trai độ hai lăm, hai sáu, ăn mặc theo lối thôn dân, nhưng diện mạo thanh tú, nét mặt khôi ngô toát ra khí chất không hề giống nông phu lúc điền nơi sơn dã, mà giống một văn nhân đọc sách hơn.
Thiếu nữ bị anh ta bịt miệng nhìn mới khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, khuôn mặt trái xoan trắng hồng, dưới đôi mày liễu cong cong là cặp mắt phượng long lanh, mắt mi như vẽ, quả là có khí chất một mỹ nhân. Nhìn mặt mũi cô có sáu phần đường nét giống chàng trai kia. Không thể nói được thành lời, cô sợ hãi nhìn con rắn độc tiếp tục bò về phía trước, trườn qua chân mình, lại bò thêm mấy thước nữa, rồi trườn lên chân một nam nhân, bò lên lưng người ấy, thò cái đầu ra bên vai ông ta, cuối cùng quay lại phía cô thò ra thụt vào cái lưỡi chẻ đôi của nó.
“Sái huynh, tiểu muội còn nhỏ không biết gì, xin huynh đừng trách nó.” Đến tận khi ấy, chàng trai kia mới buông tay khỏi cô gái, quay sang vái tạ người đang đùa chơi với con rắn.
Sái Tiểu Xà cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ về đầu con rắn cạp nong, điềm tĩnh nói một câu: “Không hề gì!”
Thiếu nữ kia thấy con rắn biết nghe lời thì lại không nhịn được hiếu kỳ, cô không dừng được bước dấn lên một bước, định học theo Sái Tiểu Xà thử sờ vào cái đuôi rắn trơn bóng. Nhưng cô vừa định đưa tay đã bị đại ca của mình đập vào tay, chau mày mắng nhỏ: “Tử Tuyền, đừng có nghịch!”
Thiếu nữ được gọi là Tử Tuyền tinh nghịch thè lưỡi ra, cô tuy nghe lời lui sang bên cạnh, nhưng vẫn cố nghiêng mắt ngó nhìn người đang đùa với rắn cũng như con rắn dài đang chui qua những kẽ ngón tay ông ta.
Hai huynh muội ấy chính là con trai và con gái của Dược Vương Lạc Dương. Người anh là Lạc Tử Thương, còn tiểu muội là Lạc Tử Tuyền. Hai người tử nhỏ đã theo cha học nghề làm thuốc, chữa trị cho những võ nhân đến nhờ, cũng được nửa phần coi là người trên giang hồ, nhưng võ nghệ chỉ ở bậc xoàng. Đặc biệt là Lạc Tử Tuyền, khi chỉ dụ Thái Bình Ước được ban ra cho võ lâm cô mới lên năm, cho nên Lạc Dương chưa hề truyền dạy cho con gái chút võ nghệ nào, tránh cho nữ nhi khỏi bị liên lụy.
Từ nhỏ đã theo cha ẩn mình nơi thôn trấn, mấy năm trước cả nhà lại rời đến thôn Đỉnh Sơn này, Lạc Tử Tuyền vốn đơn thuần chất phác, không hề hay biết chuyện xảy đến với gia môn, bỗng nhiên hai hôm trước nghe cha nói phải rời khỏi thôn sơn, chạy ra mãi ngoài biên ải. Cô cố gắng hỏi cha chuyện gì, vốn xưa nay vẫn chiều con gái nhưng lần này ông không đáp một câu, chỉ giục cô nhanh chóng thu dọn đồ đạc để lên đường. Lạc Tử Tuyền trong lòng nghi hoặc, tận đến khi trên đường xuống núi, ba người gặp được Hà Nhân và Sái Tiểu Xà, thì cô mới có câu giải đáp. Khi ấy Tử Tuyền mới biết, hóa ra có kẻ dùng bí dược Thần Túy Mộng Mê của cha mình, hạ độc chết hơn hai mươi mạng người, để giá họa cho ông.
“Nếu như đã có kẻ giá họa, vậy hãy nói rõ với quan phủ chẳng phải là được hay sao? Chúng ta xưa nay chưa từng rời khỏi thôn Đỉnh Sơn, các vị thúc bá đại thẩm ở thôn sẽ làm chứng cho chúng ta, chúng ta sao có thể chạy tới huyện Bình Dao cách xa hàng ngàn dặm để hạ độc được?”
Cô bé thông minh đưa ra câu hỏi ấy, nhưng đáp lại chỉ có tiếng thở dài của cha cô. Hồi lâu, người cha vốn luôn tươi cười, nay nét cười đã thu lại đã thu lại trên môi, than thở nói: “Tuyền nhi, thị phi cong thẳng trên giang hồ không đơn giản như con nghĩ đâu. Cho dù có tự chứng minh mình trong sạch thì ba người trong nhà chúng ta cũng sẽ bị người ta khống chế, lập tức chúng ta sẽ thành cá nằm trên thớt của người ta, chữa bệnh cho ai, hạ độc với ai, cha đây sẽ không còn được tự chủ nữa.”
Trước câu nói của cha, Lạc Tử Tuyền mơ hồ, không rõ vì sao mà một người vô tội lại bắt buộc phải lánh nạn ra tận ngoài biên ải, y như một kẻ có tội trốn chạy vậy. Nhưng cô vốn là đứa bé ngoan, tất nhiên sẽ không phản đối quyết định của phụ thân, huynh trưởng và bọn Hà Nhân, Sái Tiểu Xà vừa đến đón, lập tức xuống núi ngay trong đêm.
Nhưng khi đoàn người đang trên đường xuống núi, sắp rời khỏi Đỉnh Sơn, thì chợt thấy xa xa hàng ngàn bó đuốc đang cháy rực, như muốn soi tỏ cả đêm đen. Đoàn quân đông nghịt đã vây chặt toàn bộ đường núi, và tản ra bốn phía xung quanh Đỉnh Sơn, tạo thành một vòng quay khép chặt. Thấy tình hình ấy, Hà Nhân lập tức cho mọi người chạy lên đỉnh núi, ẩn nấp bên bờ Đình Hồ, đợi thời cơ hành động.
Đã là đêm thứ tư mọi người bị vây khốn. Tối ngày đầu tiên, đội quân hơn bốn ngàn lính ấy đã lấy ra ba ngàn người, tổ chức thành từng đội tiến vào Đỉnh Sơn, định rằng sẽ khám xét theo lối cuốn chiếu. Nhưng tìm kiếm được nửa chừng, liềm gặp phải đàn rắn ngăn cản. Hàng ngàn vạn con rắn lớn xông lại phía đoàn quân như sóng cuộn, toán lính không kịp đề phòng, bị rắn cắn sợ hãi đến rối loạn. Nhưng khi bọn Hà Nhân đang sắp sửa nhân loạn yểm hộ cả nhà Lạc Dương xuống núi, thì từ phía quan binh đột nhiên có bột hùng hoàng được ném ra, đuổi đàn rắn chạy đi hết, rồi lại phong tỏa chặt con đường xuống núi.
“Mẹ kiếp, mấy thứ chết tiệt ấy chúng kiếm đâu ra nhanh thế, hay là đã chuẩn bị sẵn từ trước khi đến đây?” Hà Nhân “hừ” một tiếng, chửi lớn.
Nghe ông ta chửi rủa, Lạc Dương thở dài nói: “Lão phu lánh đời đã nhiều năm là muốn rời khỏi sự tranh giành trên giang hồ, tìm lấy bình yên cho con cái. Nhưng bây giờ... Ôi, cũng chẳng biết là đắc tội với vị cao nhân nào, mà phải rơi vào tình cảnh này?”
Thấy ông ta vẻ mặt buồn lo, Hà Nhân cất tiếng an ủi: “Lạc thần y, ngài chớ lo lắng. Cuồng Đao Khách Cố Lương, Võ Si Âu Dương Tiên đang đưa các huynh đệ của Thương Thiên theo đường Dung Tây cổ đạo tới đây, chỉ khoảng sáng mai là có thể tới rồi. Có bọn họ tiếp ứng, chúng ta nhất định sẽ xuống núi một cách thuận lợi.”
Nhưng bọn Hà Nhân cứ đợi mãi, tới hơn bốn ngày liền. Những võ nhân của Thương Thiên ở Dung An, Lĩnh Giang, tất cả hơn hai trăm người, sau khi nhận được tin báo của Cố Lương, đã lũ lượt kéo đến Đỉnh Sơn. Nhưng trước mặt bốn ngàn quân lính phong tỏa, đám khách giang hồ ấy đã gặp khó khăn. Trong số họ, có không ít người thân thủ bất phàm, có thể lấy một chọi mười, nhưng phần đông là những người võ công thường thường. Huống chi, võ nhân của Thương Thiên đều là những kẻ nhàn vân dã hạc, tự do quen rồi, tổ chức cũng lỏng lẻo, nói thẳng ra là một đám ô hợp, sao có thể địch được bốn ngàn đại quân được huấn luyện kỹ càng?
Thế cục trở nên giằng co. Triệu Hãn cùng đội quân dưới quyền tuy có chuẩn bị sẵn bột hùng hoàng, nhưng cũng không khỏi sợ hãi trước rắn độc trong núi, nhất thời không dám lên núi lục soát. Còn năm người bọn Hà Nhân, Lạc Dương cũng bị khốn đốn trên đỉnh núi. Sái Tiểu Xà đã liên tục bốn ngày dùng nội lực thổi sáo để sai khiến đàn rắn, cũng dần dần không gượng nổi nữa. Cuối cùng chỉ còn dựa vào Hà Nhân truyền công lực cho ông ta, mới có thể gắng gượng duy trì.
“Tiếp tục thế này e không phải là cách hay.” Tay trái đặt lên lưng Sái Tiểu Xà, vừa truyền nội lực Hà Nhân vừa nói. “Thời gian càng dài, càng bất lợi cho chúng ta. Triệu Hãn chẳng những có thể điều động bốn ngàn đại quân, mà hắn thân là thống soái của Thái Bình minh, còn có thể điều động các bang phái trong Thái Bình minh giúp sức. Chắc hẳn trước mắt, các phái Xung Tiêu kiếm các, Vân Tiêu cổ lâu, Tử Vân môn, Thiên Ba lâu, Thụy Kim môn, Cửu Hoa đã chia nhau lên Đỉnh Sơn rồi. Khi ấy dù tất cả các thành viên của Thương Thiên có đến đủ cũng không đỡ nổi thế công của Thái Bình minh.”
Nghe thấy ông ta nói vậy, Lạc Tử Tuyền sợ giật nảy mình, cô tròn mắt nhìn cha, kinh ngạc nói: “Cha, bao nhiêu người như vậy đến đây chỉ để bắt cha thôi sao? Dù cho có là truy bắt hung phạm, cũng đâu cần dùng nhiều quân lính như vậy!”
“Nha đầu ngốc!” Lạc Dương vừa bắt lực vừa đau khổ xoa đầu con gái. “Con nghĩ xem, vụ án mạng ở Bình Dao mới xảy ra được ba ngày, mà Thái Bình minh đã sai mấy ngàn đại quân vây khốn Đỉnh Sơn, đó đâu phải là vì bắt cha của con đây chứ.”
Lạc Tử Tuyền tuy không rõ lắm chuyện trên giang hồ, nhưng lại là một cô bé thông minh, suy nghĩ giây lát liền hiểu ngay. “Cha, ý cha là, Thái Bình minh sai nhiều người như vậy đến đây, hoàn toàn không phải là để bắt cha, mà chúng biết rằng người của Thương Thiên sẽ đến, nên cố ý bắt họ?”
Lạc Dương thở dài trong lòng. Hà Nhân cười nhăn nhó bảo: “Lạc cô nương nói rất có lý, nói như vậy thì, Lạc thần y, lại là chúng tôi làm liên lụy đến ngài rồi.”
“Liên lụy với không liên lụy cái gì chứ.” Lạc Dương lắc lắc đầu nói. “Nếu như không có Thương Thiên báo tin, thì ta làm sao biết vụ án ở Bình Dao? Đến lúc ấy, quan phủ tới tận cửa bắt rồi, cả nhà ta đến trốn chạy cũng không kịp nữa.”
Hà Nhân cười lớn bảo: “Lạc thần y quả biết cách làm người khác vui! Nếu đã như vậy, chúng ta sẽ không khác đến việc ai làm liên lụy ai nữa. Ngài yên tâm, việc người làm trời thấy cả, cổ nhân cũng đã dạy: “Cứu một người hơn xây bảy tòa tháp”, tòa tháp của Lạc thần y ngài xây có lẽ cũng sắp cao ngang trời rồi, lần này nhất định sẽ hóa hung thành cát thôi!”
Lời vừa dứt, chợt nghe trong màn đêm vọng lại tiếng chim ưng kêu. Mọi người đều ngó đầu xem, chỉ thấy dưới ánh trăng non một bóng đen lướt đến!
“Là ưng vương!” Hà Nhân mừng rỡ, đứng lên, giơ cao tay phải. Con hùng ưng bay thẳng lại phía Hà Nhân, đậu lên cánh tay ông ta. Hà Nhân lấy trong ống sắt trên chân nó ra một viên sáp. Hai ngón tay bóp mạnh, viên sáp vỡ làm đôi, để lộ ra mảng giấy cuộn tròn giấu bên trong. Hà Nhân mở mảnh giấy ra, đọc xong, ông ta vỗ đùi cười lớn bảo:
“Hảo kế! Lạc thần y, lần này chúng ta có chiêu rồi!”
Vừa nói, Hà Nhân vừa đem kế hoạch trong thư nói một lượt cho nghe, mọi người lập tức ai lo việc nấy.
Cuối giờ Dần đầu giờ Mão, sắc trời vừa hửng, chân trời phía đông đã le lói ánh nắng, nhưng mây mù trên núi lại dần dày thêm. Hơi sương được nắng sớm chiếu vào lại càng thêm mù mịt. Mây mù trải vòng quanh lưng núi làm Đỉnh Sơn trông như đang quàng một vòng khăn bông vậy!
Trong lớp mây dày mù mịt ấy, hai trăm võ nhân Thương Thiên dưới chân núi bỗng nhiên phát động cuộc tấn công từ phía nam. Những võ nhân đã hành tẩu huyết lộ giang hồ nhiều năm ấy, nhờ thân thủ mẫn tiệp, dựa vào mây mù che giấu, lẳng lặng tiến sát tới chỗ quan quân đóng giữ ở phía nam núi, bất ngờ đột kích từ sau lưng chúng. Đao sắt lướt nhẹ qua yết hầu quân sĩ, đến khi thi thể thứ ba đổ xuống thì Triệu gia quân vốn được huấn luyện kỹ lưỡng đã nhanh chóng phát hiện ra dấu vết bất thường. Một tên lính khi thấy không liên lạc được với đồng đội, lập tức đốt pháo hiệu báo tin.
Sau một tiếng rít chói tai, pháo sáng rít trên không trung. Giữa màn mây mù dày đặc, tuy nhìn không rõ vị trí pháo sáng, nhưng Ngô Quý dựa vào tiếng nổ cũng đoán được nơi xảy ra sự việc. Thân là phó soái của bốn ngàn tinh binh, hắn lập tức hạ quân lệnh: “Hai đội mặt tây, mặt bắc, mỗi nơi rút ba trăm người chi viện cho mặt nam! Những người khác giữ nguyên đội hình, phong tỏa đường núi, đề phòng kẻ địch dùng kế điệu hổ ly sơn! Sương núi dày đặc, dùng cung tên sẵn sàng đợi lệnh xuất kích, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót!”
Sai khi hơn ngàn quân lính tập kết ở phía nam núi, đám lính đã từng kinh qua trăm trận đánh lập tức bày binh bố trận, hướng về phía kẻ địch bắn hàng vạn mũi tên. Dù cho võ nhân của Thương Thiên có cao cường cỡ nào thì cũng chỉ là người trần mắt thịt, không thể xông pha trong trận tên bay ấy được. Hai trăm võ nhân vừa đánh vừa lui, lùi xuống dưới núi.
Trong lúc quân hai bên đang giao tranh ở phía nam núi, thì ở sườn núi phía đông, một chiếc bè tre thuận dòng xuôi xuống. Trong sương mù dày đặc, thấp thoáng thấy trên bè có mấy bóng người kẻ đứng người ngồi, người đứng đầu đội nón lá, tay cầm một cần trúc dài, thỉnh thoảng lại chống xuống đáy nước đẩy bè lướt đi. Chưa đầy khoảnh khắc đã trôi tới vài dặm, tiến thẳng xuống chân núi.
Bảy trăm binh sĩ đang canh giữ ở mặt đông lập tức giương cung lắp tên, đồng loạt bắn về phía chiếc bè! Tên bay như mưa, chiếc bè trong nháy mắt đã bị cơn mưa tên cắm đầy, nhưng do mây mù buổi sáng dày đặc, từ trên bờ không nhìn rõ đối phương bị thương vong ra sao. Mấy chục tên lính giỏi sông nước, tay cầm dây thừng, lội xuống định rằng sẽ kéo bè vào bờ. Nhưng đúng lúc chúng sắp tiếp cận được chiếc bè, chỉ thấy người đội nón lá khuấy mạnh cây gậy trúc, lập tức nghe có tiếng thùm thùm, trên mặt sông từng đợt sóng cuồn cuộn nổi lên.
“Ông đây được người đời xưng là “Thủy Quỷ”, đấu với ông đây ở dưới nước thì các ngươi còn non lắm!”
Chỉ thấy người đứng trên bè ấy nói lớn một câu. Ngay sau đó, tay phải ông ta giơ ngang, nội lực đẩy mạnh, cây gậy trúc lại giáng xuống mặt nước. Lại nghe mấy tiếng thùm thùm, từng đợt sóng cao hàng trượng cùng với tiếng động vọt lên tận lưng trời, lực đẩy mạnh mẽ của dòng nước khiến đám quân kính bật tung ra xa!
Thấy đám quân lính lội dưới nước bị mình đánh bay, người ấy cất tiếng cười lớn, giữa núi non ngút ngàn còn vang vọng lại mấy lần.
“Bắn tên! Bắn tên!”
Đội trưởng đội quân đóng giữ sườn núi phía đông hô to. Cùng với câu ra lệnh của hắn, lại là một trận mưa tên dày đặc. Chỉ nghe những tiếng vun vút bên tai không ngừng, tên sắt cắm vào gỗ ngập đến ba phân! Theo lý mà nói, dưới làn mưa tên không ngừng của bảy trăm người, dù có là thần tiên thì cũng đã bị cắm đầy tên trông như mình nhím. Nhưng ai ngờ được rằng, chiếc bè thuận dòng trôi xuôi, vừa mới vượt qua được tuyến phong tỏa, đã nghe giọng nói thách thúc khi nãy lại vang lên: “Lũ chó chết, ông đây không chơi cùng các ngươi được nữa rồi! Ha ha ha!”
Tiếng cười ngông nghênh, vang vọng khắp núi đồi. Đám quân lính lập tức co cẳng đuổi theo, nhưng chân chúng dù có nhanh đến đâu cũng chẳng nhanh bằng dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Chỉ trông tên rơi ào ào như mưa, mà chiếc bè đã vượt khuất sau đồi núi. Thấy tình hình ấy, tên đội trưởng vừa lo vừa giận, một mặt lệnh cho quân tiếp tục truy đuổi, một mặt cho người đi cấp báo với Ngô Quý.
“Cấp báo! Bọn Dược Vương đã nhân khi rối loạn, theo đường sông trốn thoát!”
Đúng lúc ấy, chợt nghe dưới chân núi vẳng lại tiếng cười vang dội. Hơn hai trăm võ nhân Thương Thiên, ai nấy đều vận hết nội công, cười rung trời. Chỉ thấy kẻ dẫn đầu nói lớn:
“Bốn ngàn tinh binh vây không nổi một ngọn Đỉnh Sơn, chẳng bằng về quê đi bán khoai lang thôi! Ha ha ha!”
Hơn hại trăm võ nhân cùng cười sảng khoái, đồng thanh hét to: “Chẳng bằng về quê đi bán khoai lang thôi”, lại có kẻ chửi những câu như “quân chết tiệt”, “đồ vô dụng”. Đủ kiểu chửi rủa khiến cho quan quân càng cảm thấy bị thua đau, Ngô Quý mặt mũi đỏ lựng, giận dữ đâm mạnh kiếm xuống đất, hét to: “Đuổi!”
Bốn ngàn binh sĩ nhanh chóng đuổi xuống chân núi, có thể nói là thần tốc, nhưng những võ nhân của Thương Thiên làm gì có ai không ít nhiều biết khinh công? Hơn hai trăm người chia nhỏ ra phân tán tản mát xuống các thôn trấn dưới chân núi Đỉnh Sơn, dù Triệu gia quân có đông hơn nữa cũng không cách nào biết được cả nhà Dược Vương rốt cuộc đã trốn đi đâu.
Sau khi Ngô Quý truy kích võ nhân Thương Thuên không thành, phẫn hận rút quân, một con chim ưng vẫn bay liệng trên đỉnh núi Đỉnh Sơn. Nó kêu dài một tiếng, lao mình vút xuống, khuất vào lớp mây mù dưới chân núi. Chỉ thấy nơi cổng sông hợp lưu của Đỉnh Hà đổ vào Lăng Giang, một chiếc bè rộng dài độ một thước đang cắm sào đợi sẵn, trên bè vẫn còn mấy con bù nhìn rơm đang bị cắm tên chi chít. Thủy Quỷ Hà Nhân từ dưới đáy bè nhô lên, ướt sũng bước lên bờ, nhổ mũi tên đang cắm trên cánh tay mình, rồi xé một mảnh vải áo, lấy máu tươi viết lên đó bốn chữ: “Dung Tây cổ đạo”. Rồi ông ta đưa cao cánh tay phải, khi con chim ưng đã đậu xuống đó, Hà Nhân nhét mảnh vải vào ống sắt trên chân nó.
Ưng vương vươn cánh vút lên tầng không, bay qua núi xanh, hướng về phía Đỉnh Hồ trên núi. Lúc này mây mù đã dần tan, chỉ thấy trong khoảnh rừng bên hồ, Sái Tiểu Xà lưng đeo giở rắn đã đón ưng vương trở về, sau khi xem xong thư của Hà Nhân, ông ta quay sang nhìn mấy người nhà Lạc Dương, trầm giọng nói: “Quan binh đã rút, chúng ta tức khắc xuống núi, hội hợp với mấy người Hà Nhân.”
Hóa ra, đêm trước sau khi nhận được thư, bọn Hà Nhân liền y kế hành sự, suốt đêm chặt cây làm bè gỗ, lại dùng cỏ khô bện mấy con bù nhìn, lấy cành cây chống giữ cố định trên bè. Trên tờ thư đã viết rõ, buổi sáng sớm mây mù, quan binh không nhìn được rõ, nhất định sẽ dùng tên bắn. Để đảm bảo chu toàn cho ba người trong nhà Lạc Dương, chỉ để một mình Hà Nhân chống bè xuôi dòng nước đi xuống. Ông ta vẫn được người đời gọi là “Thủy Quỷ”, rất giỏi sông nước, dù có ngâm trong nước ba ngày ba đêm thì thần khí vẫn như bình thường, nói chi đến việc núp dưới đáy bè để tránh tên bắn, với ông ta lại càng dễ như bỡn. Trong khi Hà Nhân dựa vào lớp mây mù, xuyên qua vòng phong tỏa, những người trong Thương Thiên khác đang ở dưới chân núi sẽ phối hợp với ông ta diễn một vở kịch trào phúng thật hay, giả vờ phao tin Dược Vương đã trốn thoát được. Rồi đợi quan binh sau khi rút khỏi Đỉnh Sơn, Hà Nhân sẽ lại nhờ ưng vương truyền tin, để Sái Tiểu Xà hộ tống gia đình Lạc Dương xuống núi an toàn.
Mây tan nắng chiếu, dưới bầu không tạnh ráo khô sáng, ánh nắng chan hòa trên mặt Đỉnh Hồ mờ mịt khói sương, dát ánh vàng lấp lánh lên những con sóng lăn tăn. Con chim ưng bay vút lên trời, kêu dài một tiếng vang vọng, càng thấy rõ Đỉnh Sơn u tĩnh đã yên bình trở lại.
Dòng Lăng Giang cuồn cuộn sóng xô, những con sóng ầm ĩ dưới ánh trăng soi phản chiếu một màu trắng bạc, tựa như ngàn vạn con bạch mã đang phi nhanh về phía biển không bao giờ trở lại. Bên bờ Lăng Giang sóng xô cuồn cuộn ấy, một cổ đạo miên man chạy dài về phía tây bắc, một thôn trấn nhỏ nằm ở phía đông cổ đạo, tựa vào dòng Lăng Giang.
Đêm khuya tĩnh lặng. Trăng bạc như sương, soi ánh lên thôn trấn nhỏ yên tĩnh, làm tỏ bốn bóng người vội vã, đạp trên đá xanh đi qua những ngõ tối. Gió đêm thổi nhẹ, làm dây chuông gió bằng đồng treo dưới mái hiên gỗ phát ra những tiếng leng keng. Một người trong đám dừng chân, ngước mắt nhìn lên dãy chuông gió dưới hàng hiên vẻ hiếu lỳ. Ánh trăng soi lên khuôn mặt trắng nõn như ngọc, làm lộ rõ vẻ ngây thơ trong sáng của cô. Tận đến khi chàng trai đi trước cất lên tiếng gọi nhỏ “tiểu muội”, thì cô nương ấy mới cúi xuống, vội chạy theo chân người đi trước.
Qua các con ngõ nhỏ độ vài dặm, chợt thấy trước mắt một căn nhà, trước cửa treo hai chiếc đèn lồng trắng, trên viết một chữ “Thọ” lớn bằng mực đen. Người dẫn đầu lưng đeo giỏ tre, chính là Sái Tiểu Xà, ông ta đi tới trước cửa quán bán quan tài, gõ nhẹ lên cánh cửa, hai tiếng lớn, ba tiếng nhỏ, rồi lại một tiếng lớn. Cửa gỗ lập tức mở ra, bốn người nối nhau đi vào, chỉ thấy trong quán mấy cỗ quan tài để ngay ngắn, ánh nên bập bùng, hắt bóng chúng lên tường nhà đen sì. Vị cô nương kia sợ run lên, nép mình vào huynh trưởng đang đi bên cạnh. Cô mở to đôi mắt xinh đẹp, nhìn người trong quán cùng Sái Tiểu Xà đang mở nắp một cỗ quan tài, rồi lại xoay chiếc đèn trường minh trên đó. Chỉ nghe một âm thanh khô khốc vang lên, đáy quan tài liền lộ ra một cầu thang tối đen.
Tuy rất không muốn, nhưng cô bé ngoan ngoãn vẫn đi theo sau huynh trưởng, cùng bước vào mật đạo ấy. Đi được độ mấy chục bậc thang, trước mắt bỗng sáng bùng lên, đó là một gian thạch thất dài rộng độ mười thước, bên trong đèn đuốc sáng trưng, đã có mười mấy người đợi sẵn, Thủy Quỷ Hà Nhân cũng trong số đó. Nhìn thấy ba người, Hà Nhân chạy lại giới thiệu với mọi người:
“Vị này chính là Dược Vương Lạc Dương và con trai, con gái ông ấy - Lạc Tử Thương, Lạc Tử Tuyền.”
“Tại hạ Lạc Tử Thương, xin đa tạ ơn cứu mạng của các vị.” Chàng trai chắp tay vái chào các vị võ nhân có mặt, cô gái cũng học theo huynh trưởng thi lễ chào hỏi.
“Lạc thần y, mấy vị này đều là bằng hữu trong Thương Thiên ở địa bàng Dung An.” Hà Nhân lần lượt giới thiệu với Lạc Dương. “Vị này là Âu Dương Tiên, mọi người vẫn gọi là Võ Si; vị này là Tần Thiếu Trực, chính là người đã nuôi dưỡng và huấn luyện ưng vương, chúng tôi đều gọi ông ta là Tần lão Ưng; vị này là Cố Lương, mọi người gọi là Cuồng Đao Khách, chính ông ta là người dẫn huynh đệ lên Đỉnh Sơn chi viện lần này...”
Nghe được câu này, Lạc Dương lập tức chắp tay thi lễ quay sang Cố Lương nói: “Đa tạ tráng sĩ!”
“Ôi, thần y ngài cảm tạ sai người rồi.” Cố Lương gãi gãi đầu, cười lớn bảo. “Đúng là ta dẫn mọi người đến, nhưng mấy người chúng ta không đánh nổi lên núi. Nếu không phải nhờ Khương lão đệ và Vân Hy muội kịp thời chạy tới nơi, thì một kẻ thô kệch như ta sao có thể nghĩ ra kế dương đông kích tây ấy?”
Nghe Cố Lương nói vậy, Lạc Tử Tuyền hiếu kỳ đưa mắt nhìn hai người mà ông ta nhắc đến. Chỉ thấy một thanh niên vóc người cao gầy, mặt mũi tuấn tú, đôi lông mày kiếm dài đến tận mang tai, tay cầm trường kích huyết thiết, so với đại ca của mình thì chắc hơn vài tuổi, nhưng lại lộ rõ vẻ khí khái anh hùng. Lạc Tử Tuyền chợt thấy tim mình đập nhanh hẳn lên, hai má đột nhiên cũng nóng bừng, may mà ánh nến bập bùng, không ai nhìn thấy sự thay đổi đó. Cô cố gắng ngăn sự khác thường trong tim mình, quay sang nhìn cô nương ngồi bên cạnh chàng trai, một cô nương diện mạo thanh tú, khóe miệng hơi mở, nụ cười tựa gió xuân, tuy ăn mặc gọn gàng theo lối võ nhân nhưng cũng không giấu được vẻ thanh tân tú lệ.
Lạc Tử Tuyền mắt sáng long lanh, nhìn ngắm một lượt cả hai người. Cùng lúc ấy, nghe thấy câu của Cố Lương, Lạc Dương bèn quay sang hai người, thi lễ nói: “Đa tạ hai vị tương trợ! Dám hỏi quý tánh đại danh?”
Cô nương ấy bèn vội đỡ lấy tay Lạc Dương, ngăn không để ông ta chắp tay thi lễ, chỉ nghe cô cười nhỏ nói: “Lạc thần y không cần khách khí, cùng là võ nhân Thương Thiên, mấy việc này đều là bổn phận phải làm, tại hạ họ Tùy, tên gọi Vân Hy.”
“Tại hạ Khương Hằng.” Chàng trai cũng cất lời, trầm giọng nói. “Không cần phải đa tạ tại hạ, nhân mây mù đi bè, lấy người cỏ qua sông, đều là chủ ý của Vân Hy.”
Người ấy nói đến hai từ “Vân Hy” thì cảm thấy như vẻ lạnh lùng thâm trầm dồn nén lúc đầu chợt tan biến hết. Đôi mày kiếm hơi rướn lên, trong ánh mắt không giấu nổi vẻ đắc ý. Lạc Tử Tuyền đang lén nhìn y, như đọc được ra vẻ hân hoan và tự hào trong ánh mắt Khương Hằng. Cô không khỏi lấy làm nghi hoặc, không biết quan hệ giữa hai người này là thế nào? Cảm giác như có chút giống cô với đại ca, nhưng rõ ràng bọn họ lại không cùng họ...
Trong lúc Lạc Tử Tuyền còn đang suy nghĩ mông lung, thì Hà Nhân đã lần lượt giới thiệu hết mọi người. Ông ta quay sang Khương Hằng và Vân Hy, nghi hoặc hỏi: “Sao Trương lão đệ không quay về cùng với hai người?”
Nghe câu hỏi ấy, Vân Hy chợt cúi mặt xuống, đôi mi dài hơi run run. Còn Khương Hằng thì nắm chặt bàn tay trái, vẻ mặt đau buồn nói: “Trương huynh, huynh ấy... bất hạnh bị hại rồi.”
“Sao? Tay thư sinh ấy chết rồi ư?” Cố Lương sấn về phía trước, ông ta đưa tay túm chặt lấy cổ áo Khương Hằng, vừa lo vừa giận cật vấn. “Rốt cuộc là chuyện gì? Các người không phải là đi Bình Dao điều tra án mạng ư? Làm sao lại chết được? Tay thư sinh ấy kém ăn nói một chút, nhưng công phu tuyệt đối không xoàng, sao lại chết dễ dàng như thế được...”
“Cố huynh, ta hiểu tâm trạng của huynh, huynh hãy bình tĩnh đã.” Khương Hằng giật tay Cố Lương ra, trầm giọng nói. “Hôm ấy, ba người ta, Vân Hy, Trương huynh đến huyện thành Bình Dao, kiểm tra thi thể trong nghĩa địa...”
Khương Hằng chậm rãi kể lại những điều mắt thấy tai nghe tối hôm ấy ở nghĩa địa Bình Dao, nào là chuyện châm độc trong tim, rồi người áo đen đến cõng xác đi, cho tới sau khi đánh tan môn nhân của Bất Phá các đeo mặt nạ ở trong nhà dân, rồi lại tìm thấy lối vào sơn động ở Kỳ Sơn như thế nào, ba người cùng thăm dò động bí mật của Bất Phá các ở trong lòng núi, chứng kiến việc môn nhân của họ nhảy vào lò luyện kiếm ra sao... nhất nhất nói lại hết. Khi nói đến việc các chủ Bất Phá các Trịnh Lý đề xuất liên minh với Thương Thiên, Khương Hằng cố ý giấu tình tiết Trịnh Lý bằng lòng cung cấp vũ khí cho võ nhân Thương Thiên, chỉ nói với vẻ đau đớn:
“Trịnh Lý muốn cổ động Thương Thiên liên thủ với mình, đem Thương Thiên ra làm lá chắn đối phó với Thái Bình minh. Ý đồ của lão ta bị Trương huynh đệ nhận ra, hai người lời qua tiếng lại, cuối cùng động thủ với nhau. Trịnh Lý kia toàm thân trên dưới giấu đầy ám khí máy móc, hai người chúng ta đấu với lão hồi lâu, trong khi đánh nhau, Trương huynh và Trịnh Lý cùng ngã khỏi chiếu nghỉ, về nơi chín suối rồi.”
Nói đến sau cùng, Khương Hằng lặng lẽ cúi đầu. Những người còn lại nghe xong câu ấy thì đều thở vắn than dài vẻ ảo não, đặc biệt là Cố Lương, ông ta với Trương Văn Thư thường ngày hay trêu chọc đấu khẩu quen rồi, giờ bỗng nghe tin bạn mình mất mạng, hán tử cao lớn ấy thu chặt nắm đấm, đấm mạnh vào tường đá, “thình” một tiếng, làm tường đá nứt toác.
Mọi người đều lặng lẽ than thở. Thấy bọn họ cúi đầu, Lạc Tử Tuyền cũng cúi theo, thiếu nữ ấy vốn hiếu kỳ ấy lén đưa ánh mắt liếc nhìn mọi người, chợt thấy Tùy Vân Hy cô nương sắc mặt nhợt nhạt mấp máy miệng như định nói điều gì, nhưng cuối cùng lại cắn chặt môi, nuốt lời chựt nói vào trong.
“Ôi, Văn Thư thật là hồ đồ!” Âu Dương Tiên vuốt râu lắc đầu than. “Cậu chàng đúng là tâm địa lương thiện, ghét điều ác như cừu thù, nhưng dù rằng cậu ta có không quen mắt với cách làm của Trịnh Lý, thì chuyện liên thủ giữa hai phái cũng là đại sự có liên quan đến việc đối phó với Thái Bình minh, nên lấy đại cục làm trọng, cùng bàn bạc với các vị trưởng bối mới phải... Văn Thư xưa nay tinh minh, sao lại nhất thời hồ đồ vậy!”
Câu nói của ông ta làm hai mi mắt Tùy Vân Hy run run, sắc mặt càng không ổn. Nhưng Khương Hằng đã than bảo: “Chư vị cũng đã biết tính khí của Trương huynh, thường ngày huynh ấy hay nói cười, lời lẽ tự do đã quen rồi. Ai ngờ một câu nói vô tâm của huynh ấy, lại chạm vào nỗi đau của Trịnh Lý, khiến Trịnh Lý lập tức nảy sát cơ...”
“Ta phỉ nhổ! Bất Phá các, ông đây nhất định sẽ bắt các ngươi đền mạng!” Cố Lương phẫn uất nói.
Nghe câu ấy của Cố Lương, Tùy Vân Hy bèn cất lời ngăn lại: “Cố huynh, huynh còn chưa biết đấy thôi, Trịnh Lý cố nhiên đáng ghét, nhưng những đệ tử của Bất Phá các đều được lão ta nuôi nấng từ nhỏ, bị lão ta đầu độc niềm tin rằng ‘lấy thân tế kiếm, linh kiếm trường sinh’, bọn họ dường như chưa bao giờ ra khỏi môn phái, rất ít tiếp xúc với mọi người. Thực sự phải nói rằng những đệ tự ấy đều không phải những kẻ đại gian đại ác, chỉ là họ đã theo nhầm sư phụ, lỡ bước sai đường...”
Nói tới đó, Vân Hy lại nhìn Hà Nhân, nói nhỏ: “Trước mắt, vụ án mạng ở Bình Dao, tất là có liên quan đến đệ tử của Bất Phá các. Nhưng Trịnh Lý đã chết, mà đám đệ tử kia thì chỉ là những kẻ chuyên chú vào việc rèn đúc, bọn chúng không biết nguy cơ gì đang đến cả, chưa từng nghĩ tới việc rời khỏi Kỳ Sơn. Hà đại ca, nếu được, Thương Thiên có thể thu nạp những đệ tử ấy không? Một là, với những kẻ đáng thương ấy, cũng là thêm cho họ một con đường sống. Hai là, đối với Thương Thiên, có thêm một số thợ thuyền có kỹ nghệ cao siêu, cũng rất có ích.”
“Cũng được.” Hà Nhân gật đầu nói. “Việc này đợi đến khi đưa được Lạc thần y ra ngoài ải rồi chúng ta sẽ quay trở lại Bình Dao xử lý.”
Nghe thấy Hà Nhân nói vậy, Lạc Dương vội quay sang ông ta nói thêm một câu “Đa tạ”, rồi quay sang Khương Hằng hỏi: “Tráng sĩ, vừa nãy các hạ có nói, người chết trong vụ án mạng ở Bình Dao đều là do bị kim đâm vào tim, mà đầu kim có nhúng một lượng nhỏ độc dược Thần Túy Mộng Mê phải không? Như thế thì lạ thật, từ khi lão phu đưa cả nhà dời đến thôn Đỉnh Sơn, đã không còn tranh chấp gì với đời nữa, cũng không nói đến chuyện trên giang hồ, Thần Túy Mộng Mê sao lại bị người ngoài lấy được chứ?”
Khương Hằng chau mày nói: “Trong nhà ngài có từng bị mất trộm bao giờ không?”
Lạc Tử Tuyền cười đáp lời: “Chưa từng! Vừa nãy cha muội vừa nói rồi, từ sau khi nhà muội chuyển đến thôn Đỉnh Sơn, trừ những vị thúc thẩm hàng xóm xung quanh, không hề gặp qua người ngoài nào cả.”
“Rốt cuộc là kẻ nào đã vu vạ cho Lạc thần y, lại có kẻ nào đã báo lên cho quan phủ biết hành tung của Lạc thần y khiến cho Triệu gia quân đến nhanh như vậy, tất cả những chuyện ấy cố nhiên phải điều tra rõ, nhưng việc gấp gáp nhất hiện nay là đưa Lạc thần y ra ngoài ải nhanh nhất.” Hà Nhân trầm giọng nói. “Trước mắt công việc gấp rút, ta nhận được tin của bằng hữu, Thái Bình minh bao gồm cả mấy môn phái lớn Xung Tiêu, Vân Tiêu đều tham gia hành động lần này, đang tiến sát tới bên bờ Lăng Giang. Mọi người hãy nghỉ ngơi đêm nay, sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ xuất phát đi Hồng Thạch Nguyên.”
“Hồng Thạch Nguyên?” Vân Hy hơi nhướng mày, cô hồ nghi nhìn Hà Nhân, nói vẻ khó hiểu: “Hà đại ca, nếu như muội nhớ không lầm, thì Hồng Thạch Nguyên là nơi cao nguyên gập ghềnh, Lăng Giang chảy xiết xuyên qua đó, tạo nên kẽm (*) Hồng Thạch kỳ quan. Kẽm núi địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công, chỗ đó nếu như có người mai phục thì e là không hay.”
(*) Kẽm: Hẻm giữa hai sườn núi, giữa có lối đi.
“Ý muội ta hiểu.” Hà Nhân hơi gật đầu, cười nói. “Nhưng, Vân Hy muội yên tâm, tin tức này tuyệt đối đáng tin cậy! Ta và vị bằng hữu ấy có thể coi là chỗ giao tình lâu năm, vị ấy tuy gia nhập Thái Bình minh, nhưng mấy năm nay luôn ngầm liên lạc với ta, nhiều lần hành động của Thương Thiên là có sự giúp đỡ của vị ấy.”
Nghe Hà Nhân đảm bảo, Vân Hy không còn nghi hoặc nữa. Ba năm nay giao thiệp với nhau, cô cũng biết Hà Nhân có mối quan hệ rộng rãi cả hai bên hắc bạch, ông ta là người trượng nghĩa trọng tình, rất quý mến bằng hữu. Thực ra, tính khí của Hà Nhân cũng ghét điều ác như cừu thù, vũ khí của ông ta cũng không phải là lợi khí dễ giết người, giang hồ cũng đánh giá rất cao, theo lý mà nói, ông ta rất đáng để gia nhập Thái Bình minh. Nhưng Hà Nhân vì lo lắng đến bằng hữu, nên đã khẳng khái cùng Sái Tiểu Xà gia nhập Thương Thiên. Dầu sao, Sái Tiểu Xà suốt ngày làm bạn với rắn độc, bị giang hồ đặt cho biệt hiệu là “Độc Vương”, nên từ rât lâu đã bị kiệt vào hàng tà phái rồi.
“Được rồi, mọi người đã chiến đấu mấy ngày, cũng nên ngủ một giấc thật ngon cho lại sức. Khương lão đệ, Tần Lão Ưng, hai người hãy canh phòng trước, một canh giờ sau ta và Sái Tiểu Xà sẽ thay ca cho hai người.”
Khương Hằng và Tần Thiếu Trực gật đầu đồng ý. Sau đó, dưới sự sắp xếp của Hà Nhân, mọi người trải thảm ra đất nằm, còn gian phòng duy nhất ở tầm trên thì dành cho hai vị cô nương. Tùy Vân Hy dẫn Lạc Tử Tuyền bước lên bậc thang, đi tới cỗ quan tài để ở trong phòng. Thấy chỉ có một chiếc giường, Vân Hy mỉm cười nói: “Lạc cô nương, hãy nằm nghỉ trước đi, ta còn chút việc vặt phải làm.”
Nghe Vân Hy nói vậy, Lạc Tử Tuyền mới an tâm ngồi xuống giường. Thấy cô ngủ yên rồi, Tùy Vân Hy mới nhè nhẹ khép cửa, đi ra khỏi phòng, nhẹ nhàng tung mình bay lên nóc nhà.
Dưới ánh trăng vằng vặc, hai người Khương Hằng và Tần Thiếu Trực đang ngồi trên sóng mái nhà, đưa mắt nhìn khắp bốn bên. Tần Lão Ưng thấy Vân Hy đến, cười nói một câu “Ta đi thả chim ưng”, rồi liềm rời đi nơi khác. Trong ánh trăng sáng tỏ, chỉ còn lại hai người Khương Hằng và Vân Hy, quay sang nhìn nhau.
Đôi mày kiếm của Khương Hằng tuy hơi biểu lộ vẻ không vui, nhưng giọng nói vẫn ôn tồn: “Sao muội không nghỉ sớm đi? Mấy ngày nay đều phải đi suốt ngày đêm rồi, mai lại trèo đèo lội suối, muội còn không mau nghỉ đi ư?”
Từ nhỏ đến lớn, Hằng ca chưa bao giờ dỗ dành cô bằng những câu dễ nghe, sự quan tâm của y luôn được giấu trong những câu trách cứ. Nghe câu nói đầy quan tâm ấy của Khương Hằng, Vân Hy cũng cảm thấy ấm áp, nhưng nhiều hơn vẫn là một nỗi bất an và nghi hoặc. Cô ngồi xuống bên Khương Hằng, hai người vai kề vai, tựa như thuở ấu thơ lúc ẩn mình trong ngõ tối ở thành Phàn Dương, dựa vào nhau để lấy hơi ấm.... Nhưng cuối cùng Vân Hy cũng từ hồi ức tỉnh lại, cô khẽ cất giọng nói phá tan sự yên tĩnh:
“Hằng ca, lúc nãy huynh có nói, Trương huynh và Trịnh Lý vì một câu nói không hợp mà đã động thủ, nhưng muội lại cảm thấy, chuyện ấy tựa như trái với lẽ thường. Trịnh Lý đào hang ở Kỳ Sơn, giấu Bất Phá các trong lòng núi, đó vốn là một chủ ý vô cùng hoàn hảo. Chỉ tiếc rằng Bình Dao bỗng nhiên xảy ra vụ án mạng ấy, triều đình tất sẽ điều tra, khi đó chuyện dân ở huyện Bình Dao bị mạo danh thay thế sẽ khó tránh khỏi bại lộ và Bất Phá các cũng có nguy cơ bị lộ theo. Trong khi Trịnh Lý vẫn say mê với việc rèn đúc, tự ví mình với Âu Dã Tử, tuyệt nhiên không thể đem kỹ nghệ và cơ nghiệp mấy chục năm qua của Bất Phá các hủy đi trong một buổi được, cho nên mới nghĩ đến việc muốn liên hợp với Thương Thiên chúng ta, cùng nhau đối phó với triều đình và Thái Bình minh. Theo lý đó, ở thời khác tồn vong ấy, Trịnh Lý sẽ phải thể hiện vô cùng tốt, ra sức xúc tiến việc liên hợp mới đúng, sao có thể chỉ vì tranh cãi ở một câu nói, mà lại động võ với Trương huynh? Lão ta hiểu rõ, nếu đắc tội với Thương Thiên thì sẽ có thêm một kẻ địch mạnh, càng thêm bất lợi cho Bất Phá các. Nhỏ không nhẫn sẽ làm hỏng mưu lớn, Trịnh Lý tuổi đã gần trăm, lẽ nào lại không hiểu chút đạo lý ấy?”
“Vân Hy, muội nói vậy là có ý gì?” Khương Hằng bỗng nhiên đứng bật dây, từ trên cao trừng mắt nhìn xuống Vân Hy, lớn tiếng nói. “Là muội nghi ngờ muốn chất vấn ta ư? Lẽ nào đến ta muội cũng khôg tin?”
Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt giận dữ của Khương Hằng, trông rõ một lớp sương lạnh phủ mở trên má y. Vân Hy trân trân nhìn y, không thốt được lời nào: Chiếc quạt trắng trong tay áo, chữ “Lan” bằng máu tươi in hằn, tựa như một mũi kim, đâm sâu vào tim cô. Nhưng, người đang đứng trước mặt mình là người mình đã quen biết mười chín năm trời, sớm chiều cùng nhau, là người cùng trải qua sinh tử, hoạn nạn với mình, là người để bảo vệ mình đã tự chặt đứt cánh tay. Trên cõi đời này, bất cứ người nào cũng có thể không tin, nhưng riêng y thì cô không thể không tin được!
“Hằng ca, muội xin lội, không phải là muội không tin tưởng huynh.” Rất lâu, Vân Hy mới nhẹ nhàng xin lỗi. Dù cho trong lòng vẫn muôn vàn nỗi nghi hoặc, dù cho chiếc quạt nhuốm máu kia vẫn giấu trong tay áo, nhưng cô cũng gắng gượng nén nỗi bất an lại, chậm rãi bảo: “Muội chỉ là... vẫn chưa thể đón nhận cái chết của Trương Văn Thư...”
Thấy coo không còn nghi hoặc nữa, Khương Hằng cũng trở lại giọng điệu bình thường, y vỗ vỗ tay trái lên vai Vân Hy, nói nhỏ: “Ta hiểu... Không còn sớm nữa đâu, muội hãy nghĩ sớm một chút đí.”
Vân Hy khẽ gật đầu, tung mình nhảy xuống khỏi nóc nhà, đứng vững. Ngước mắt lên, thấy Khương Hằng đứng trong trăng sáng, đôi mắt sâu xa, lặng lẽ nhìn cô chăm chú.
Y với cô đã cùng trải qua bao phen sinh tử hoạn nạn, chính đôi mắt ấy luôn chăm chú nhìn cô, chính con người ấy luôn bảo vệ cho cô. Dù cho người toàn thiên hạ đều không tin Khương Hằng, thì Tùy Vân Hy cô cũng không thể không tin y được.
Nghĩ đến đó, Vân Hy ngẩng mặt, nhìn y mỉn cười. Rồi cô mở cửa bước vài phòng. Sau khi cô đi rồi, Khương Hằng đứng trên đỉnh mái, lặng lẽ nắm chặt bàn tay trái duy nhất còn lại của mình, đến độ những ngón tay trắng bợt đi.
Tùy Vân Hy nhẹ nhàng đi vào phòng, thấy Lạc Tử Tuyền đang quay mặt vào trong ngủ, liền đặt hai chiếc ghế, định bụng ngủ tạm qua đêm. Nhưng khi cô vừa đặt lưng xuống thì chợt nhe tren giường có tiếng gọi nhỏ: “Tùy tỷ tỷ, tỷ về rồi ạ?”
Vừa nói Lạc Tử Tuyền vừa quay người lại, đôi mắt to sáng chăm chú nhìn Vân Hy. Thấy Vân Hy ngủ trên ghế, Lạc Tử Tuyền nằm lùi sát vào phía trong giường, vỗ vỗ xuống chỗ trống bên cạnh, nhỏ nhẹ bảo: “Tùy tỷ tỷ, tỷ ngủ trên đây này.”
Thấy động tác của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy cũng không chối từ, cô đi lại nằm xuống mé giường phía ngoài, cười hỏi: “Sao vậy? Muội không ngủ được ư?”
Lạc Tử Tuyền gật gật đầu: Chỉ cần nghĩ tới ở phòng ngoài để đầy những cỗ quan tài gớm ghiếc, cô đã thấy toàn thân ớn lạnh, không thể nào ngủ được. May mà có Tùy tỷ tỷ quay vào, tỷ ấy võ công bất phàm, chắc chẳng sợ bất cứ yêu ma quỷ quái nào... Nhưng, tuy có người ở bên cạnh, không còn sợ những chiếc quan tài ma quái kia nữa, song Lạc Tử Tuyền vẫn không sao ngủ được. Đôi mắt như hai vì sao của cô nhìn khắp khuôn mặt của Tùy Vân Hy, không khỏi suy nghĩ rối bời.
Nhận ra ánh mắt của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy không khỏi buồn cười, hỏi: “Sao vậy? Lạc cô nương có điều gì muốn nói ư?”
“Tỷ gọi là “Lạc cô nương” nghe kỳ lắm, cứ gọi muội là “Tử Tuyền” được rồi!” Lạc Tử Tuyền đáp nhỏ. Cô chần chừ giây lát, cuối cùng không kìm nổi bật ra câu hỏi về sự nghi hoặc trong lòng: “Tùy tỷ tỷ, tỷ với Khương đại ca, có phải là... phải là...”
Nói rồi, Lạc Tử Tuyền giơ hai tay ra, lấy hai ngón tay áp sát lại, mô phỏng hai người tí hon đang cúi chào.
Nhờ ánh trăng mờ ảo, nhìn thấy động tác của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy chỉ cảm thấy cô nương này thật thú vị: Trước đây ở Kỳ Sơn, Vân Hy là người nhỏ tuổi nhất, các sư huynh đều coi cô như tiểu muội. Hằng ca lại lớn hơn cô nhiều. Sau khi hai người rời khỏi Kỳ Sơn, bao nhiêu năm qua, cô rất ít khi được quen biết với một muội muội nhỏ hơn mình. Lạc Tử Tuyền nhỏ hơn cô ba tuổi, bây giờ hai người cùng ngủ một giường, thấy Lạc Tử Tuyền ngây thơ chân thật, Vân Hy không khỏi thấy như đó chính là muội muội của mình, cô bèn cười hỏi: “Có phải là cái gì cơ?”
“Ôi chao, thì cái đó đó.” Lạc Tử Tuyền hơi đỏ mặt, ngượng ngùng nói. “Giống như đại ca muội với tỷ tỷ đẹp như tiên giáng trần ấy, tay cầm tay, ôm chặt lấy nhau...”
Nói đến đó, Lạc Tử Tuyền lại vội vàng dặn bảo: “Tùy tỷ tỷ, tỷ nhất định không được nói ra đấy nhé! Đại ca không cho muội nói, muội cũng là nhìn trộm thấy thôi.”
Vân Hy khẽ bật cười một tiếng, bằng lòng bảo: “Được, muội an tâm, ta sẽ giữ miệng kín như hũ nút.”
Lạc Tử Tuyền yên tâm gật gật đầu, nhưng giây sau, cô lại huých nhẹ cùi chỏ vào Vân Hy đang nằm bên cạnh, nói: “Ôi, Tùy tỷ tỷ còn chưa trả lời muội, tỷ với Khương đại ca có phải là như thế.”
Nói rồi, cô lại để hai ngón cái sát nhau, mô phỏng hai người đang dựa vào nhau.
“Cái này...” Vân Hy còn chưa nói xong thì dòng suy nghĩ đã trôi đi mãi xa.
Nếu như nói tay cầm tay, ôm ấp, thì cũng đúng như “cái đó” mà Lạc Tử Tuyền nói, hơn nữa nếu so ra, cô với Khương Hằng còn thân thiết hơn là đằng khác. Mười một năm trước, sau sự biến ở Kỳ Sơn, y và cô chạy trốn xuống núi, một người mười ba, một người lên tám. Đên đông hàn tuyết rơi như xối ấy, hai người ôm chặt lấy nhau, dựa vào hơi ấm của nhau, vượt qua những thử thách không tưởng đối với thân hình mảnh mai của hai đứa trẻ. Hằng ca chỉ biết dùng bàn tay trái ấm áp duy nhất còn lại nắm chặt lấy hai bàn tay bé nhỏ của cô, giúp cô xua tan mọi giá buốt...
“Tùy tỷ tỷ?” Lạc Tử Tuyền khẽ gọi, khiến Vân Hy thoát ra khỏi dòng ký ức. Nhìn ánh mắt hiếu kỳ của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy khẽ nói: “Ta với Hằng ca, nói như thế nào nhỉ... Trên đời này, huynh ấy là người thân duy nhất của ta. Vì huynh ấy ta có thể bỏ cả mạng sống của mình.”
Lạc Tử Tuyền nghi hoặc nheo mắt nhìn. Câu trả lời của Tùy Vân Hy khiến cô như hiểu lại như không, chưa từng trải qua sinh ly tử biệt bao giờ, Tử Tuyền hoàn toàn không thể hiểu được nghĩa tình còn hơn cả tính mạng ấy. Cô chỉ thấy câu trả lời của đối phương không giống lắm với “cái đó” trong tưởng tượng của mình, không thể nói ra được lý do vì sao.
“Được rồi, đừng suy nghĩ lung tung nữa, ngày mai còn phải lên đường đấy.” Vân Hy nói nhỏ.
Sau câu nói đó, Lạc Tử Tuyền ngoan ngoãn nhắm mắt lại, mang theo nỗi niềm nghi hoặc và khó hiểu trong lòng dần chìm vào giấc ngủ êm đềm.
Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng, đoàn người Thương Thiên bắt đầu lên đường, mọi người men theo bờ sông Lăng Giang tiến về hướng Hồng Thạch Nguyên ở phía tây bắc.
Hồng Thạch Nguyên nằm ở phía tây bắc Trung Nguyên, địa thế khá cao, có sông Lăng Giang cắt ngang, tạo nên một kẽm núi kỳ quan. Chỉ thấy Lăng Giang cuồn cuộn chảy qua kẽm núi, núi non hai bên bờ đều là vách cao dựng đứng, đá phô sắc đỏ, đường vân lúc mờ lúc tỏ, như được vẻ bằng chu sa.
Nếu muốn vượt ra ngoài biên ải thì phải vượt qua Lăng Giang, xuyên qua kẽm núi Hồng Thạch. Con đường này vô cùng, chẳng những không có cầu, cả thuyền đò cũng không, chỉ có một sợi dây sắt trơ trọi vắt ngang mặt sông, đu đưa trong gió thu se sắt, phát ra những tiếng vi vu. Chính vì con đường hiểm trở, nên người dân thường chọn những đường quan đạo, có bến đò khác dù xa ngàn dặm. Nhưng theo như lời người hảo hữu của Hà Nhân nói, các phái trong Thái Bình minh hiện đang gấp rút tiến đến con đường quan đạo, duy chỉ có kẽm Hồng Thạch ít dấu chân người này là con đường duy nhất mà họ bỏ qua.
Men theo kẽm núi, đoàn người Thương Thiên hộ tống cả nhà Dược Vương Lạc Dương lặn lội lên phía bắc. Trên vách kỳ thạch hai bên bờ, thi thoảng lại có cây cối mọc xiên ra từ kẽ đá, chảnh quan kỳ lạ như vậy, khiến Lạc Tử Tuyền tấm tắc mãi không thôi. Từ nhoe cô đã luôn ở bên cha, chưa từng đi xa bao giờ, giờ đây thấy được những cảnh quan tráng lệ trước nay chưa từng thấy, lập tức kinh ngạc thốt lên: “Tùy tỷ tỷ, tỷ xem kìa, tỷ xem kìa, chỗ kia có con dê đấy!”
Tùy Vân Hy đang đi bên cạnh Lạc Tử Tuyền, nhìn theo hướng ngón tay cô chỉ về phía vách núi đối diện, chỉ thấy trên vách đá màu đỏ son có mấy khóm cỏ xanh tươi, hai con sơn dương nhởn nhơ chạy đi trên vách núi không khác gì đi trên đất bằng. Cảnh tượng ấy cũng khiến Vân Hy phải tấm tắc cho là kỳ lạ, không ngăn được cười bảo: “Công phu đi trên vách, chạy trên mái gì đi nữa, thì đứng trước mặt các vị “Dương đại hiệp” này cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ!”
Câu “Dương đại hiệp” khiến cho Tử Tuyền cười ngặc nghẽo, cô ghé đến bên tai Vân Hy, thì thầm hỏi đùa: “Vậy Khương đại hiệp so với Dương đại hiệp, thì ai khinh công cao cường hơn ai?”
Người nói vô tình, nhưng người nghe lại có ý, Lạc Tử Tuyền đâu ngờ rằng câu nói của mình lại gợi lên mối suy nghĩ trong lòng Vân Hy: Chữ “Lan” viết bằng máu trên chiếc quạt của Trương Văn Thư, lúc ở trên Kỳ Sơn bị giọt sương nhỏ vào, chảy xuống thành một vệt dọc tạo thành chữ “Dương”. Chính vệt nước hòa máu ấy đã làm Vân Hy ngộ ra, chữ “Lan” viết bằng máu ấy chính là những nét đầu tiên của chữ “Khương”. Mấy ngày hôm nay, không lúc nào cô không nghĩ đến chuyện này, tuy cô tin tưởng Khương Hằng, nhưng chữ tuyệt bút của Trương Văn Thư vẫn khiến cô ăn không ngon ngủ không yên. Cô không chỉ một lần hối hận rằng, giá như lúc ở trong mật động của Bất Phá các ấy, cô không đi xuống đáy hang thăm dò, mà cùng ở lại trên chiếu nghỉ với Trương huynh, thì có thể sự việc đã khác...
“Tùy tỷ tỷ?” Thấy Vân Hy không nói, Lạc Tử Tuyền gọi liền mấy câu, mới kéo cô ra được khỏi nỗi trầm tư. Nhận ra mình luống cuống, Vân Hy nhoẻn miệng cười nói: “Xin lỗi, tỷ đang nghĩ nấy chuyện linh tinh, nên không để ý!”
Tuy mới quen được mấy ngày ngắn ngủi, nhưng trong Thương Thiên chỉ có hai người là nữ, tuổi lại ngang ngang nhau, nên Vân Hy với Tử Tuyền làm thân nhau rất nhanh, thường xưng hô tỷ muội, cũng hay kể cho nhau nghe những câu chuyện của các cô nương. Trò chuyện hồi lâu, thì nghe thấy phía trước loáng thoáng có tiếng nước chảy ì ầm, vòng qua lối ngoặc kẽm núi, thấy dòng Lăng Giang đang cuồn cuộn chảy, gầm thét lao ngang qua vách núi đỏ.
Cảnh tượng ấy khiến Lạc Tử Tuyền há miệng tròn mắt. Vân Hy thì nhớ đến câu thơ trong một cuốn sách của chú câm: “Hoàng Hà chỉ thủy thiên thu lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.”(*), dòng Lăng Giang này cũng có khí phách như vậy. Lại đi lúc nữa, thì thấy trên cao nguyên cao tới vài nhẫn, có một dây sắt bắc ngang, lẻ loi mắc giữa không trung. Độ cao ấy đối với người không học võ như Lạc Tử Tuyền thì chỉ nhìn thôi đã thấy chân mềm nhũn rồi, huống chi phía dưới lại là dòng nước cuồn cuộn, sóng bạc tung trời.
(*) Sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước. Xuống biển rồi, có ngược lên đâu! (Theo bản dịch của Ngô Tất Tố).
Dưới sự sắp xếp của Hà Nhân, ba người Tần Lão Ưng, Âu Dương Tiên, Sái Tiểu Xà trèo lên dây sắt trước. Dầu sao, Âu Dương Tiên tuổi cũng đã quá năm mươi, võ công lại bình thường, để tránh xảy ra sự cố, phải cho hai võ nhân thân thủ phi phàm, một người phía trước, một người phía sau, giúp qua sông, nhỡ có việc gì còn tiện hỗ trợ. Tần Lão Ưng dùng cả tay chân, treo ngược mình dưới dây sắt, cánh tay ông ta rất khỏe, động tác nhanh nhẹn, chỉ ngoảnh đi ngoảnh lại đã tiến được một đoạn xa. Âu Dương Tiên cũng làm theo cách đó, treo ngược mình để vượt qua sợi dây dài cả trăm thước. Còn Sái Tiểu Xà khinh công rất giỏi, nhún thân hình như con chim hồng nhảy trên sợi dây sắt, mỗi lầm có thể đi được vài dặm. Đầu mũi chân Sái Tiểu Xà chạm nhẹ lên dây sắt, mượn lực bay lên, lộn một vòng trên không, bảy lần lên xuống thì qua tới bờ bên kia, còn bảo bối của ông ta là con rắn cạp nong thì quấn mình quanh dây sắt. Con linh xà quấn quanh dây sắt cũng như bơi trong nước, nháy mắt đã sang được bên kia.
Thấy bọn họ có thể qua dây sắt một cách dễ dàng, Hà Nhân đang đợi để hộ tống Lạc Dương qua sông, thì đúng lúc ấy, bỗng nghe Lạc Tử Thương kêu “a” một tiếng thảm thiết, ngã vật mạnh xuống đất. Ngay sau đó, toàn thân anh ta như người chìm dưới nước, liên tục quẫy đạp lăn lộn, tựa như vô cùng đau đớn.
“Tử Thương!” Trông thấy vậy, Lạc Dương hốt hoảng quay đầu, ông ta đưa tay cầm lấy tay phải của Lạc Tử Thương để chẩn mạch.
Đúng lúc vị thần y nổi danh thiên hạ ấy, một tay đỡ lưng con trai, một tay bắt mạch, thì bỗng nhiên hai con mắt Lạc Tử Thương chợt lóe lên ánh u ám, toàn thân anh ta chồm về phía trước, ôm chặt lấy cha mình. Từ trong móng tay anh ta nhô ra một vật nhỏ màu sáng bạc, sáng lóe lên dưới ánh mặt trời...
Vân Hy nhanh mắt nhận ra, như thấy đầu mối của mớ bòng bong. Cô không kịp nghĩ nhiều, lập tức kêu to một tiếng: “Cẩn thận!”, rồi cùng lúc phi cước, phóng thẳng vào bên vai của Lạc Tử Thương!
Chỉ nghe một âm thanh trầm đục vang lên, vai của Lạc Tử Thương đã bị trật khớp, cả bên vai phải vô lực buông thõng xuống, vật kim loại ngầm giấu trong ngón tay cũng rơi xuống đất, sáng lóe lên.
Trên đá hồng thạch là một cây ngân châm. Đầu mũi kim đen sì, đuôi thì vẫn còn mới tinh sáng loáng, giống hết châm độc tìm thấy ở nghịa địa huyện Bình Dao.
Biến cố xảy ra bất ngờ khiến mọi người đều kinh ngạc. Cánh tay phải của Lạc Tử Thương bị trật khớp nhưng vẫn chưa thôi tấn công, anh ta há miệng cắn mạnh vào một bên mặt Lạc Dương, làm cha mình đứt một miếng tai lớn, máu lập tức chảy ra đầm đìa.
Lạc Tử Tuyền sợ hãi kêu thét lên. Khương Hằng thấy vậy, vung tay chặt mạnh vào gáy Lạc Tử Thương, khiến anh ta lập tức ngất đi. Lạc Dương không kịp kêu đau, thậm chí cũng không quan tâm đến cái tai đang bị thương của mình, giữ ngay lấy tay phải của con trai, giật mạnh để nắn lại khớp. Rồi vị lão nhân tóc đã hoa râm ấy mới run rẩy thốt lên ba từ: “Thực Tâm Cổ!”
Lạc Tử Tuyền hốt hoảng lau máu trên tai cho cha, hai tay cô run run, vừa khóc vừa hỏi: “Cha, Thực Tâm Cổ là gì cơ? Đại ca bị sao vậy?”
“Đại ca của con không biết bị trúng độc Thực Tâm Cổ khi nào. Phàm những người trúng thứ cổ độc này đều không thể khống chế được tâm niệm của mình, mà sẽ bị kẻ đầu độc cổ trùng khống chế.” Lạc Dương nhíu chặt hai mày, thở dài một tiếng, rồi quay sang Tùy Vân Hy đang đứng ở bên, ch
Nhưng đêm ấy, sơn thôn nhỏ bé xưa nay vốn yên tĩnh đã bị những tiếng vó ngựa sắt dồn dập phá tan. Ánh đuốc soi sáng khắp nơi, hàng ngàn quan binh lưng đeo bảo kiếm, tay cầm đuốc lửa, vây chặt thôn. Quan binh xông thẳng vào nhà dân, khiến dân chúng hãi hùng luôn miệng kêu “quan gia”, những người phụ nữ ôm chặt con thơ trong lòng, kinh hoảng nhìn đám võ nhân đột nhiên xuất hiện. Đuốc lửa hắt ánh vào khôi giáp, đao sắt quan binh đeo sáng lòa.
“Thống lĩnh đại nhân, tất cả hai mươi sáu hộ dân trong thôn đều đã lục soát, không phát hiện thấy tung tích của Lạc Dương.” Sau khi khám xét một vòng từng nhà, một tên lính đi nhanh ra ngoài cổng sơn thôn, chắp tay bẩm báo với một viên quan quân đang cưỡi trên lưng con tuấn mã màu đen.
Viên quan quân ấy vóc người cao lớn, mắt to mày rậm, râu ria lởm chởm, chính là Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn. Hắn liếc mắt nhìn xóm nhỏ đang bị ánh đuốc soi sáng rực, lạnh lùng nói: “Vây chặt lại cho ta, chạy mất một người nào thì ta sẽ hỏi tội Tiểu Tứ ngươi!”
Nói xong, hắn vung roi, hô to một tiếng, con tuấn mã hí vang rồi phóng đi nhanh như gió cuốn, tiếng vó nện phá tan bầu không khí yên ắng nơi núi non.
Thấy Triệu Hãn đã đi, viên Phó thống lĩnh Ngô Quý nhìn khắp quân lính bốn phía xung quanh, cất giọng quát to: “Lập tức phong tỏa Đỉnh Sơn! Tất cả những con đường núi, không được bỏ qua một đường nào! Nếu có bất cứ ai xuống núi, các ngươi cứ việc mang đầu lại đây!”
Quân lính vội vàng xếp hàng, tản ra bốn phương tám hướng, nhưng không ai phát hiện ra rằng, chính trong lúc ấy, giữa màn đêm đen thăm thẳm, một cặp mắt màu vàng đang thu vào tầm nhìn của mình tất cả hành động của chúng. Bóng đen ấy đi đi lại lại dưới chân núi Đỉnh Sơn một vòng, rồi lập tức nhanh như tên bắn, xông thẳng lên đỉnh núi cao.
Bên bờ Đỉnh Hồ trên đỉnh núi.
Trong đêm đen, tiếng côn trùng rả rích. Giữa lớp cỏ úa cao ngang gối, một con rắn cạp nong đang lặng lẽ bò, bám sát theo đôi hài nhỏ màu hồng phấn thêu hoa sen.
“Có rắn... ối ối...”
Thiếu nữ kinh hãi kêu lên, liền bị một người bịt chặt lấy miệng. Đó là một chàng trai độ hai lăm, hai sáu, ăn mặc theo lối thôn dân, nhưng diện mạo thanh tú, nét mặt khôi ngô toát ra khí chất không hề giống nông phu lúc điền nơi sơn dã, mà giống một văn nhân đọc sách hơn.
Thiếu nữ bị anh ta bịt miệng nhìn mới khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, khuôn mặt trái xoan trắng hồng, dưới đôi mày liễu cong cong là cặp mắt phượng long lanh, mắt mi như vẽ, quả là có khí chất một mỹ nhân. Nhìn mặt mũi cô có sáu phần đường nét giống chàng trai kia. Không thể nói được thành lời, cô sợ hãi nhìn con rắn độc tiếp tục bò về phía trước, trườn qua chân mình, lại bò thêm mấy thước nữa, rồi trườn lên chân một nam nhân, bò lên lưng người ấy, thò cái đầu ra bên vai ông ta, cuối cùng quay lại phía cô thò ra thụt vào cái lưỡi chẻ đôi của nó.
“Sái huynh, tiểu muội còn nhỏ không biết gì, xin huynh đừng trách nó.” Đến tận khi ấy, chàng trai kia mới buông tay khỏi cô gái, quay sang vái tạ người đang đùa chơi với con rắn.
Sái Tiểu Xà cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ về đầu con rắn cạp nong, điềm tĩnh nói một câu: “Không hề gì!”
Thiếu nữ kia thấy con rắn biết nghe lời thì lại không nhịn được hiếu kỳ, cô không dừng được bước dấn lên một bước, định học theo Sái Tiểu Xà thử sờ vào cái đuôi rắn trơn bóng. Nhưng cô vừa định đưa tay đã bị đại ca của mình đập vào tay, chau mày mắng nhỏ: “Tử Tuyền, đừng có nghịch!”
Thiếu nữ được gọi là Tử Tuyền tinh nghịch thè lưỡi ra, cô tuy nghe lời lui sang bên cạnh, nhưng vẫn cố nghiêng mắt ngó nhìn người đang đùa với rắn cũng như con rắn dài đang chui qua những kẽ ngón tay ông ta.
Hai huynh muội ấy chính là con trai và con gái của Dược Vương Lạc Dương. Người anh là Lạc Tử Thương, còn tiểu muội là Lạc Tử Tuyền. Hai người tử nhỏ đã theo cha học nghề làm thuốc, chữa trị cho những võ nhân đến nhờ, cũng được nửa phần coi là người trên giang hồ, nhưng võ nghệ chỉ ở bậc xoàng. Đặc biệt là Lạc Tử Tuyền, khi chỉ dụ Thái Bình Ước được ban ra cho võ lâm cô mới lên năm, cho nên Lạc Dương chưa hề truyền dạy cho con gái chút võ nghệ nào, tránh cho nữ nhi khỏi bị liên lụy.
Từ nhỏ đã theo cha ẩn mình nơi thôn trấn, mấy năm trước cả nhà lại rời đến thôn Đỉnh Sơn này, Lạc Tử Tuyền vốn đơn thuần chất phác, không hề hay biết chuyện xảy đến với gia môn, bỗng nhiên hai hôm trước nghe cha nói phải rời khỏi thôn sơn, chạy ra mãi ngoài biên ải. Cô cố gắng hỏi cha chuyện gì, vốn xưa nay vẫn chiều con gái nhưng lần này ông không đáp một câu, chỉ giục cô nhanh chóng thu dọn đồ đạc để lên đường. Lạc Tử Tuyền trong lòng nghi hoặc, tận đến khi trên đường xuống núi, ba người gặp được Hà Nhân và Sái Tiểu Xà, thì cô mới có câu giải đáp. Khi ấy Tử Tuyền mới biết, hóa ra có kẻ dùng bí dược Thần Túy Mộng Mê của cha mình, hạ độc chết hơn hai mươi mạng người, để giá họa cho ông.
“Nếu như đã có kẻ giá họa, vậy hãy nói rõ với quan phủ chẳng phải là được hay sao? Chúng ta xưa nay chưa từng rời khỏi thôn Đỉnh Sơn, các vị thúc bá đại thẩm ở thôn sẽ làm chứng cho chúng ta, chúng ta sao có thể chạy tới huyện Bình Dao cách xa hàng ngàn dặm để hạ độc được?”
Cô bé thông minh đưa ra câu hỏi ấy, nhưng đáp lại chỉ có tiếng thở dài của cha cô. Hồi lâu, người cha vốn luôn tươi cười, nay nét cười đã thu lại đã thu lại trên môi, than thở nói: “Tuyền nhi, thị phi cong thẳng trên giang hồ không đơn giản như con nghĩ đâu. Cho dù có tự chứng minh mình trong sạch thì ba người trong nhà chúng ta cũng sẽ bị người ta khống chế, lập tức chúng ta sẽ thành cá nằm trên thớt của người ta, chữa bệnh cho ai, hạ độc với ai, cha đây sẽ không còn được tự chủ nữa.”
Trước câu nói của cha, Lạc Tử Tuyền mơ hồ, không rõ vì sao mà một người vô tội lại bắt buộc phải lánh nạn ra tận ngoài biên ải, y như một kẻ có tội trốn chạy vậy. Nhưng cô vốn là đứa bé ngoan, tất nhiên sẽ không phản đối quyết định của phụ thân, huynh trưởng và bọn Hà Nhân, Sái Tiểu Xà vừa đến đón, lập tức xuống núi ngay trong đêm.
Nhưng khi đoàn người đang trên đường xuống núi, sắp rời khỏi Đỉnh Sơn, thì chợt thấy xa xa hàng ngàn bó đuốc đang cháy rực, như muốn soi tỏ cả đêm đen. Đoàn quân đông nghịt đã vây chặt toàn bộ đường núi, và tản ra bốn phía xung quanh Đỉnh Sơn, tạo thành một vòng quay khép chặt. Thấy tình hình ấy, Hà Nhân lập tức cho mọi người chạy lên đỉnh núi, ẩn nấp bên bờ Đình Hồ, đợi thời cơ hành động.
Đã là đêm thứ tư mọi người bị vây khốn. Tối ngày đầu tiên, đội quân hơn bốn ngàn lính ấy đã lấy ra ba ngàn người, tổ chức thành từng đội tiến vào Đỉnh Sơn, định rằng sẽ khám xét theo lối cuốn chiếu. Nhưng tìm kiếm được nửa chừng, liềm gặp phải đàn rắn ngăn cản. Hàng ngàn vạn con rắn lớn xông lại phía đoàn quân như sóng cuộn, toán lính không kịp đề phòng, bị rắn cắn sợ hãi đến rối loạn. Nhưng khi bọn Hà Nhân đang sắp sửa nhân loạn yểm hộ cả nhà Lạc Dương xuống núi, thì từ phía quan binh đột nhiên có bột hùng hoàng được ném ra, đuổi đàn rắn chạy đi hết, rồi lại phong tỏa chặt con đường xuống núi.
“Mẹ kiếp, mấy thứ chết tiệt ấy chúng kiếm đâu ra nhanh thế, hay là đã chuẩn bị sẵn từ trước khi đến đây?” Hà Nhân “hừ” một tiếng, chửi lớn.
Nghe ông ta chửi rủa, Lạc Dương thở dài nói: “Lão phu lánh đời đã nhiều năm là muốn rời khỏi sự tranh giành trên giang hồ, tìm lấy bình yên cho con cái. Nhưng bây giờ... Ôi, cũng chẳng biết là đắc tội với vị cao nhân nào, mà phải rơi vào tình cảnh này?”
Thấy ông ta vẻ mặt buồn lo, Hà Nhân cất tiếng an ủi: “Lạc thần y, ngài chớ lo lắng. Cuồng Đao Khách Cố Lương, Võ Si Âu Dương Tiên đang đưa các huynh đệ của Thương Thiên theo đường Dung Tây cổ đạo tới đây, chỉ khoảng sáng mai là có thể tới rồi. Có bọn họ tiếp ứng, chúng ta nhất định sẽ xuống núi một cách thuận lợi.”
Nhưng bọn Hà Nhân cứ đợi mãi, tới hơn bốn ngày liền. Những võ nhân của Thương Thiên ở Dung An, Lĩnh Giang, tất cả hơn hai trăm người, sau khi nhận được tin báo của Cố Lương, đã lũ lượt kéo đến Đỉnh Sơn. Nhưng trước mặt bốn ngàn quân lính phong tỏa, đám khách giang hồ ấy đã gặp khó khăn. Trong số họ, có không ít người thân thủ bất phàm, có thể lấy một chọi mười, nhưng phần đông là những người võ công thường thường. Huống chi, võ nhân của Thương Thiên đều là những kẻ nhàn vân dã hạc, tự do quen rồi, tổ chức cũng lỏng lẻo, nói thẳng ra là một đám ô hợp, sao có thể địch được bốn ngàn đại quân được huấn luyện kỹ càng?
Thế cục trở nên giằng co. Triệu Hãn cùng đội quân dưới quyền tuy có chuẩn bị sẵn bột hùng hoàng, nhưng cũng không khỏi sợ hãi trước rắn độc trong núi, nhất thời không dám lên núi lục soát. Còn năm người bọn Hà Nhân, Lạc Dương cũng bị khốn đốn trên đỉnh núi. Sái Tiểu Xà đã liên tục bốn ngày dùng nội lực thổi sáo để sai khiến đàn rắn, cũng dần dần không gượng nổi nữa. Cuối cùng chỉ còn dựa vào Hà Nhân truyền công lực cho ông ta, mới có thể gắng gượng duy trì.
“Tiếp tục thế này e không phải là cách hay.” Tay trái đặt lên lưng Sái Tiểu Xà, vừa truyền nội lực Hà Nhân vừa nói. “Thời gian càng dài, càng bất lợi cho chúng ta. Triệu Hãn chẳng những có thể điều động bốn ngàn đại quân, mà hắn thân là thống soái của Thái Bình minh, còn có thể điều động các bang phái trong Thái Bình minh giúp sức. Chắc hẳn trước mắt, các phái Xung Tiêu kiếm các, Vân Tiêu cổ lâu, Tử Vân môn, Thiên Ba lâu, Thụy Kim môn, Cửu Hoa đã chia nhau lên Đỉnh Sơn rồi. Khi ấy dù tất cả các thành viên của Thương Thiên có đến đủ cũng không đỡ nổi thế công của Thái Bình minh.”
Nghe thấy ông ta nói vậy, Lạc Tử Tuyền sợ giật nảy mình, cô tròn mắt nhìn cha, kinh ngạc nói: “Cha, bao nhiêu người như vậy đến đây chỉ để bắt cha thôi sao? Dù cho có là truy bắt hung phạm, cũng đâu cần dùng nhiều quân lính như vậy!”
“Nha đầu ngốc!” Lạc Dương vừa bắt lực vừa đau khổ xoa đầu con gái. “Con nghĩ xem, vụ án mạng ở Bình Dao mới xảy ra được ba ngày, mà Thái Bình minh đã sai mấy ngàn đại quân vây khốn Đỉnh Sơn, đó đâu phải là vì bắt cha của con đây chứ.”
Lạc Tử Tuyền tuy không rõ lắm chuyện trên giang hồ, nhưng lại là một cô bé thông minh, suy nghĩ giây lát liền hiểu ngay. “Cha, ý cha là, Thái Bình minh sai nhiều người như vậy đến đây, hoàn toàn không phải là để bắt cha, mà chúng biết rằng người của Thương Thiên sẽ đến, nên cố ý bắt họ?”
Lạc Dương thở dài trong lòng. Hà Nhân cười nhăn nhó bảo: “Lạc cô nương nói rất có lý, nói như vậy thì, Lạc thần y, lại là chúng tôi làm liên lụy đến ngài rồi.”
“Liên lụy với không liên lụy cái gì chứ.” Lạc Dương lắc lắc đầu nói. “Nếu như không có Thương Thiên báo tin, thì ta làm sao biết vụ án ở Bình Dao? Đến lúc ấy, quan phủ tới tận cửa bắt rồi, cả nhà ta đến trốn chạy cũng không kịp nữa.”
Hà Nhân cười lớn bảo: “Lạc thần y quả biết cách làm người khác vui! Nếu đã như vậy, chúng ta sẽ không khác đến việc ai làm liên lụy ai nữa. Ngài yên tâm, việc người làm trời thấy cả, cổ nhân cũng đã dạy: “Cứu một người hơn xây bảy tòa tháp”, tòa tháp của Lạc thần y ngài xây có lẽ cũng sắp cao ngang trời rồi, lần này nhất định sẽ hóa hung thành cát thôi!”
Lời vừa dứt, chợt nghe trong màn đêm vọng lại tiếng chim ưng kêu. Mọi người đều ngó đầu xem, chỉ thấy dưới ánh trăng non một bóng đen lướt đến!
“Là ưng vương!” Hà Nhân mừng rỡ, đứng lên, giơ cao tay phải. Con hùng ưng bay thẳng lại phía Hà Nhân, đậu lên cánh tay ông ta. Hà Nhân lấy trong ống sắt trên chân nó ra một viên sáp. Hai ngón tay bóp mạnh, viên sáp vỡ làm đôi, để lộ ra mảng giấy cuộn tròn giấu bên trong. Hà Nhân mở mảnh giấy ra, đọc xong, ông ta vỗ đùi cười lớn bảo:
“Hảo kế! Lạc thần y, lần này chúng ta có chiêu rồi!”
Vừa nói, Hà Nhân vừa đem kế hoạch trong thư nói một lượt cho nghe, mọi người lập tức ai lo việc nấy.
Cuối giờ Dần đầu giờ Mão, sắc trời vừa hửng, chân trời phía đông đã le lói ánh nắng, nhưng mây mù trên núi lại dần dày thêm. Hơi sương được nắng sớm chiếu vào lại càng thêm mù mịt. Mây mù trải vòng quanh lưng núi làm Đỉnh Sơn trông như đang quàng một vòng khăn bông vậy!
Trong lớp mây dày mù mịt ấy, hai trăm võ nhân Thương Thiên dưới chân núi bỗng nhiên phát động cuộc tấn công từ phía nam. Những võ nhân đã hành tẩu huyết lộ giang hồ nhiều năm ấy, nhờ thân thủ mẫn tiệp, dựa vào mây mù che giấu, lẳng lặng tiến sát tới chỗ quan quân đóng giữ ở phía nam núi, bất ngờ đột kích từ sau lưng chúng. Đao sắt lướt nhẹ qua yết hầu quân sĩ, đến khi thi thể thứ ba đổ xuống thì Triệu gia quân vốn được huấn luyện kỹ lưỡng đã nhanh chóng phát hiện ra dấu vết bất thường. Một tên lính khi thấy không liên lạc được với đồng đội, lập tức đốt pháo hiệu báo tin.
Sau một tiếng rít chói tai, pháo sáng rít trên không trung. Giữa màn mây mù dày đặc, tuy nhìn không rõ vị trí pháo sáng, nhưng Ngô Quý dựa vào tiếng nổ cũng đoán được nơi xảy ra sự việc. Thân là phó soái của bốn ngàn tinh binh, hắn lập tức hạ quân lệnh: “Hai đội mặt tây, mặt bắc, mỗi nơi rút ba trăm người chi viện cho mặt nam! Những người khác giữ nguyên đội hình, phong tỏa đường núi, đề phòng kẻ địch dùng kế điệu hổ ly sơn! Sương núi dày đặc, dùng cung tên sẵn sàng đợi lệnh xuất kích, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót!”
Sai khi hơn ngàn quân lính tập kết ở phía nam núi, đám lính đã từng kinh qua trăm trận đánh lập tức bày binh bố trận, hướng về phía kẻ địch bắn hàng vạn mũi tên. Dù cho võ nhân của Thương Thiên có cao cường cỡ nào thì cũng chỉ là người trần mắt thịt, không thể xông pha trong trận tên bay ấy được. Hai trăm võ nhân vừa đánh vừa lui, lùi xuống dưới núi.
Trong lúc quân hai bên đang giao tranh ở phía nam núi, thì ở sườn núi phía đông, một chiếc bè tre thuận dòng xuôi xuống. Trong sương mù dày đặc, thấp thoáng thấy trên bè có mấy bóng người kẻ đứng người ngồi, người đứng đầu đội nón lá, tay cầm một cần trúc dài, thỉnh thoảng lại chống xuống đáy nước đẩy bè lướt đi. Chưa đầy khoảnh khắc đã trôi tới vài dặm, tiến thẳng xuống chân núi.
Bảy trăm binh sĩ đang canh giữ ở mặt đông lập tức giương cung lắp tên, đồng loạt bắn về phía chiếc bè! Tên bay như mưa, chiếc bè trong nháy mắt đã bị cơn mưa tên cắm đầy, nhưng do mây mù buổi sáng dày đặc, từ trên bờ không nhìn rõ đối phương bị thương vong ra sao. Mấy chục tên lính giỏi sông nước, tay cầm dây thừng, lội xuống định rằng sẽ kéo bè vào bờ. Nhưng đúng lúc chúng sắp tiếp cận được chiếc bè, chỉ thấy người đội nón lá khuấy mạnh cây gậy trúc, lập tức nghe có tiếng thùm thùm, trên mặt sông từng đợt sóng cuồn cuộn nổi lên.
“Ông đây được người đời xưng là “Thủy Quỷ”, đấu với ông đây ở dưới nước thì các ngươi còn non lắm!”
Chỉ thấy người đứng trên bè ấy nói lớn một câu. Ngay sau đó, tay phải ông ta giơ ngang, nội lực đẩy mạnh, cây gậy trúc lại giáng xuống mặt nước. Lại nghe mấy tiếng thùm thùm, từng đợt sóng cao hàng trượng cùng với tiếng động vọt lên tận lưng trời, lực đẩy mạnh mẽ của dòng nước khiến đám quân kính bật tung ra xa!
Thấy đám quân lính lội dưới nước bị mình đánh bay, người ấy cất tiếng cười lớn, giữa núi non ngút ngàn còn vang vọng lại mấy lần.
“Bắn tên! Bắn tên!”
Đội trưởng đội quân đóng giữ sườn núi phía đông hô to. Cùng với câu ra lệnh của hắn, lại là một trận mưa tên dày đặc. Chỉ nghe những tiếng vun vút bên tai không ngừng, tên sắt cắm vào gỗ ngập đến ba phân! Theo lý mà nói, dưới làn mưa tên không ngừng của bảy trăm người, dù có là thần tiên thì cũng đã bị cắm đầy tên trông như mình nhím. Nhưng ai ngờ được rằng, chiếc bè thuận dòng trôi xuôi, vừa mới vượt qua được tuyến phong tỏa, đã nghe giọng nói thách thúc khi nãy lại vang lên: “Lũ chó chết, ông đây không chơi cùng các ngươi được nữa rồi! Ha ha ha!”
Tiếng cười ngông nghênh, vang vọng khắp núi đồi. Đám quân lính lập tức co cẳng đuổi theo, nhưng chân chúng dù có nhanh đến đâu cũng chẳng nhanh bằng dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Chỉ trông tên rơi ào ào như mưa, mà chiếc bè đã vượt khuất sau đồi núi. Thấy tình hình ấy, tên đội trưởng vừa lo vừa giận, một mặt lệnh cho quân tiếp tục truy đuổi, một mặt cho người đi cấp báo với Ngô Quý.
“Cấp báo! Bọn Dược Vương đã nhân khi rối loạn, theo đường sông trốn thoát!”
Đúng lúc ấy, chợt nghe dưới chân núi vẳng lại tiếng cười vang dội. Hơn hai trăm võ nhân Thương Thiên, ai nấy đều vận hết nội công, cười rung trời. Chỉ thấy kẻ dẫn đầu nói lớn:
“Bốn ngàn tinh binh vây không nổi một ngọn Đỉnh Sơn, chẳng bằng về quê đi bán khoai lang thôi! Ha ha ha!”
Hơn hại trăm võ nhân cùng cười sảng khoái, đồng thanh hét to: “Chẳng bằng về quê đi bán khoai lang thôi”, lại có kẻ chửi những câu như “quân chết tiệt”, “đồ vô dụng”. Đủ kiểu chửi rủa khiến cho quan quân càng cảm thấy bị thua đau, Ngô Quý mặt mũi đỏ lựng, giận dữ đâm mạnh kiếm xuống đất, hét to: “Đuổi!”
Bốn ngàn binh sĩ nhanh chóng đuổi xuống chân núi, có thể nói là thần tốc, nhưng những võ nhân của Thương Thiên làm gì có ai không ít nhiều biết khinh công? Hơn hai trăm người chia nhỏ ra phân tán tản mát xuống các thôn trấn dưới chân núi Đỉnh Sơn, dù Triệu gia quân có đông hơn nữa cũng không cách nào biết được cả nhà Dược Vương rốt cuộc đã trốn đi đâu.
Sau khi Ngô Quý truy kích võ nhân Thương Thuên không thành, phẫn hận rút quân, một con chim ưng vẫn bay liệng trên đỉnh núi Đỉnh Sơn. Nó kêu dài một tiếng, lao mình vút xuống, khuất vào lớp mây mù dưới chân núi. Chỉ thấy nơi cổng sông hợp lưu của Đỉnh Hà đổ vào Lăng Giang, một chiếc bè rộng dài độ một thước đang cắm sào đợi sẵn, trên bè vẫn còn mấy con bù nhìn rơm đang bị cắm tên chi chít. Thủy Quỷ Hà Nhân từ dưới đáy bè nhô lên, ướt sũng bước lên bờ, nhổ mũi tên đang cắm trên cánh tay mình, rồi xé một mảnh vải áo, lấy máu tươi viết lên đó bốn chữ: “Dung Tây cổ đạo”. Rồi ông ta đưa cao cánh tay phải, khi con chim ưng đã đậu xuống đó, Hà Nhân nhét mảnh vải vào ống sắt trên chân nó.
Ưng vương vươn cánh vút lên tầng không, bay qua núi xanh, hướng về phía Đỉnh Hồ trên núi. Lúc này mây mù đã dần tan, chỉ thấy trong khoảnh rừng bên hồ, Sái Tiểu Xà lưng đeo giở rắn đã đón ưng vương trở về, sau khi xem xong thư của Hà Nhân, ông ta quay sang nhìn mấy người nhà Lạc Dương, trầm giọng nói: “Quan binh đã rút, chúng ta tức khắc xuống núi, hội hợp với mấy người Hà Nhân.”
Hóa ra, đêm trước sau khi nhận được thư, bọn Hà Nhân liền y kế hành sự, suốt đêm chặt cây làm bè gỗ, lại dùng cỏ khô bện mấy con bù nhìn, lấy cành cây chống giữ cố định trên bè. Trên tờ thư đã viết rõ, buổi sáng sớm mây mù, quan binh không nhìn được rõ, nhất định sẽ dùng tên bắn. Để đảm bảo chu toàn cho ba người trong nhà Lạc Dương, chỉ để một mình Hà Nhân chống bè xuôi dòng nước đi xuống. Ông ta vẫn được người đời gọi là “Thủy Quỷ”, rất giỏi sông nước, dù có ngâm trong nước ba ngày ba đêm thì thần khí vẫn như bình thường, nói chi đến việc núp dưới đáy bè để tránh tên bắn, với ông ta lại càng dễ như bỡn. Trong khi Hà Nhân dựa vào lớp mây mù, xuyên qua vòng phong tỏa, những người trong Thương Thiên khác đang ở dưới chân núi sẽ phối hợp với ông ta diễn một vở kịch trào phúng thật hay, giả vờ phao tin Dược Vương đã trốn thoát được. Rồi đợi quan binh sau khi rút khỏi Đỉnh Sơn, Hà Nhân sẽ lại nhờ ưng vương truyền tin, để Sái Tiểu Xà hộ tống gia đình Lạc Dương xuống núi an toàn.
Mây tan nắng chiếu, dưới bầu không tạnh ráo khô sáng, ánh nắng chan hòa trên mặt Đỉnh Hồ mờ mịt khói sương, dát ánh vàng lấp lánh lên những con sóng lăn tăn. Con chim ưng bay vút lên trời, kêu dài một tiếng vang vọng, càng thấy rõ Đỉnh Sơn u tĩnh đã yên bình trở lại.
Dòng Lăng Giang cuồn cuộn sóng xô, những con sóng ầm ĩ dưới ánh trăng soi phản chiếu một màu trắng bạc, tựa như ngàn vạn con bạch mã đang phi nhanh về phía biển không bao giờ trở lại. Bên bờ Lăng Giang sóng xô cuồn cuộn ấy, một cổ đạo miên man chạy dài về phía tây bắc, một thôn trấn nhỏ nằm ở phía đông cổ đạo, tựa vào dòng Lăng Giang.
Đêm khuya tĩnh lặng. Trăng bạc như sương, soi ánh lên thôn trấn nhỏ yên tĩnh, làm tỏ bốn bóng người vội vã, đạp trên đá xanh đi qua những ngõ tối. Gió đêm thổi nhẹ, làm dây chuông gió bằng đồng treo dưới mái hiên gỗ phát ra những tiếng leng keng. Một người trong đám dừng chân, ngước mắt nhìn lên dãy chuông gió dưới hàng hiên vẻ hiếu lỳ. Ánh trăng soi lên khuôn mặt trắng nõn như ngọc, làm lộ rõ vẻ ngây thơ trong sáng của cô. Tận đến khi chàng trai đi trước cất lên tiếng gọi nhỏ “tiểu muội”, thì cô nương ấy mới cúi xuống, vội chạy theo chân người đi trước.
Qua các con ngõ nhỏ độ vài dặm, chợt thấy trước mắt một căn nhà, trước cửa treo hai chiếc đèn lồng trắng, trên viết một chữ “Thọ” lớn bằng mực đen. Người dẫn đầu lưng đeo giỏ tre, chính là Sái Tiểu Xà, ông ta đi tới trước cửa quán bán quan tài, gõ nhẹ lên cánh cửa, hai tiếng lớn, ba tiếng nhỏ, rồi lại một tiếng lớn. Cửa gỗ lập tức mở ra, bốn người nối nhau đi vào, chỉ thấy trong quán mấy cỗ quan tài để ngay ngắn, ánh nên bập bùng, hắt bóng chúng lên tường nhà đen sì. Vị cô nương kia sợ run lên, nép mình vào huynh trưởng đang đi bên cạnh. Cô mở to đôi mắt xinh đẹp, nhìn người trong quán cùng Sái Tiểu Xà đang mở nắp một cỗ quan tài, rồi lại xoay chiếc đèn trường minh trên đó. Chỉ nghe một âm thanh khô khốc vang lên, đáy quan tài liền lộ ra một cầu thang tối đen.
Tuy rất không muốn, nhưng cô bé ngoan ngoãn vẫn đi theo sau huynh trưởng, cùng bước vào mật đạo ấy. Đi được độ mấy chục bậc thang, trước mắt bỗng sáng bùng lên, đó là một gian thạch thất dài rộng độ mười thước, bên trong đèn đuốc sáng trưng, đã có mười mấy người đợi sẵn, Thủy Quỷ Hà Nhân cũng trong số đó. Nhìn thấy ba người, Hà Nhân chạy lại giới thiệu với mọi người:
“Vị này chính là Dược Vương Lạc Dương và con trai, con gái ông ấy - Lạc Tử Thương, Lạc Tử Tuyền.”
“Tại hạ Lạc Tử Thương, xin đa tạ ơn cứu mạng của các vị.” Chàng trai chắp tay vái chào các vị võ nhân có mặt, cô gái cũng học theo huynh trưởng thi lễ chào hỏi.
“Lạc thần y, mấy vị này đều là bằng hữu trong Thương Thiên ở địa bàng Dung An.” Hà Nhân lần lượt giới thiệu với Lạc Dương. “Vị này là Âu Dương Tiên, mọi người vẫn gọi là Võ Si; vị này là Tần Thiếu Trực, chính là người đã nuôi dưỡng và huấn luyện ưng vương, chúng tôi đều gọi ông ta là Tần lão Ưng; vị này là Cố Lương, mọi người gọi là Cuồng Đao Khách, chính ông ta là người dẫn huynh đệ lên Đỉnh Sơn chi viện lần này...”
Nghe được câu này, Lạc Dương lập tức chắp tay thi lễ quay sang Cố Lương nói: “Đa tạ tráng sĩ!”
“Ôi, thần y ngài cảm tạ sai người rồi.” Cố Lương gãi gãi đầu, cười lớn bảo. “Đúng là ta dẫn mọi người đến, nhưng mấy người chúng ta không đánh nổi lên núi. Nếu không phải nhờ Khương lão đệ và Vân Hy muội kịp thời chạy tới nơi, thì một kẻ thô kệch như ta sao có thể nghĩ ra kế dương đông kích tây ấy?”
Nghe Cố Lương nói vậy, Lạc Tử Tuyền hiếu kỳ đưa mắt nhìn hai người mà ông ta nhắc đến. Chỉ thấy một thanh niên vóc người cao gầy, mặt mũi tuấn tú, đôi lông mày kiếm dài đến tận mang tai, tay cầm trường kích huyết thiết, so với đại ca của mình thì chắc hơn vài tuổi, nhưng lại lộ rõ vẻ khí khái anh hùng. Lạc Tử Tuyền chợt thấy tim mình đập nhanh hẳn lên, hai má đột nhiên cũng nóng bừng, may mà ánh nến bập bùng, không ai nhìn thấy sự thay đổi đó. Cô cố gắng ngăn sự khác thường trong tim mình, quay sang nhìn cô nương ngồi bên cạnh chàng trai, một cô nương diện mạo thanh tú, khóe miệng hơi mở, nụ cười tựa gió xuân, tuy ăn mặc gọn gàng theo lối võ nhân nhưng cũng không giấu được vẻ thanh tân tú lệ.
Lạc Tử Tuyền mắt sáng long lanh, nhìn ngắm một lượt cả hai người. Cùng lúc ấy, nghe thấy câu của Cố Lương, Lạc Dương bèn quay sang hai người, thi lễ nói: “Đa tạ hai vị tương trợ! Dám hỏi quý tánh đại danh?”
Cô nương ấy bèn vội đỡ lấy tay Lạc Dương, ngăn không để ông ta chắp tay thi lễ, chỉ nghe cô cười nhỏ nói: “Lạc thần y không cần khách khí, cùng là võ nhân Thương Thiên, mấy việc này đều là bổn phận phải làm, tại hạ họ Tùy, tên gọi Vân Hy.”
“Tại hạ Khương Hằng.” Chàng trai cũng cất lời, trầm giọng nói. “Không cần phải đa tạ tại hạ, nhân mây mù đi bè, lấy người cỏ qua sông, đều là chủ ý của Vân Hy.”
Người ấy nói đến hai từ “Vân Hy” thì cảm thấy như vẻ lạnh lùng thâm trầm dồn nén lúc đầu chợt tan biến hết. Đôi mày kiếm hơi rướn lên, trong ánh mắt không giấu nổi vẻ đắc ý. Lạc Tử Tuyền đang lén nhìn y, như đọc được ra vẻ hân hoan và tự hào trong ánh mắt Khương Hằng. Cô không khỏi lấy làm nghi hoặc, không biết quan hệ giữa hai người này là thế nào? Cảm giác như có chút giống cô với đại ca, nhưng rõ ràng bọn họ lại không cùng họ...
Trong lúc Lạc Tử Tuyền còn đang suy nghĩ mông lung, thì Hà Nhân đã lần lượt giới thiệu hết mọi người. Ông ta quay sang Khương Hằng và Vân Hy, nghi hoặc hỏi: “Sao Trương lão đệ không quay về cùng với hai người?”
Nghe câu hỏi ấy, Vân Hy chợt cúi mặt xuống, đôi mi dài hơi run run. Còn Khương Hằng thì nắm chặt bàn tay trái, vẻ mặt đau buồn nói: “Trương huynh, huynh ấy... bất hạnh bị hại rồi.”
“Sao? Tay thư sinh ấy chết rồi ư?” Cố Lương sấn về phía trước, ông ta đưa tay túm chặt lấy cổ áo Khương Hằng, vừa lo vừa giận cật vấn. “Rốt cuộc là chuyện gì? Các người không phải là đi Bình Dao điều tra án mạng ư? Làm sao lại chết được? Tay thư sinh ấy kém ăn nói một chút, nhưng công phu tuyệt đối không xoàng, sao lại chết dễ dàng như thế được...”
“Cố huynh, ta hiểu tâm trạng của huynh, huynh hãy bình tĩnh đã.” Khương Hằng giật tay Cố Lương ra, trầm giọng nói. “Hôm ấy, ba người ta, Vân Hy, Trương huynh đến huyện thành Bình Dao, kiểm tra thi thể trong nghĩa địa...”
Khương Hằng chậm rãi kể lại những điều mắt thấy tai nghe tối hôm ấy ở nghĩa địa Bình Dao, nào là chuyện châm độc trong tim, rồi người áo đen đến cõng xác đi, cho tới sau khi đánh tan môn nhân của Bất Phá các đeo mặt nạ ở trong nhà dân, rồi lại tìm thấy lối vào sơn động ở Kỳ Sơn như thế nào, ba người cùng thăm dò động bí mật của Bất Phá các ở trong lòng núi, chứng kiến việc môn nhân của họ nhảy vào lò luyện kiếm ra sao... nhất nhất nói lại hết. Khi nói đến việc các chủ Bất Phá các Trịnh Lý đề xuất liên minh với Thương Thiên, Khương Hằng cố ý giấu tình tiết Trịnh Lý bằng lòng cung cấp vũ khí cho võ nhân Thương Thiên, chỉ nói với vẻ đau đớn:
“Trịnh Lý muốn cổ động Thương Thiên liên thủ với mình, đem Thương Thiên ra làm lá chắn đối phó với Thái Bình minh. Ý đồ của lão ta bị Trương huynh đệ nhận ra, hai người lời qua tiếng lại, cuối cùng động thủ với nhau. Trịnh Lý kia toàm thân trên dưới giấu đầy ám khí máy móc, hai người chúng ta đấu với lão hồi lâu, trong khi đánh nhau, Trương huynh và Trịnh Lý cùng ngã khỏi chiếu nghỉ, về nơi chín suối rồi.”
Nói đến sau cùng, Khương Hằng lặng lẽ cúi đầu. Những người còn lại nghe xong câu ấy thì đều thở vắn than dài vẻ ảo não, đặc biệt là Cố Lương, ông ta với Trương Văn Thư thường ngày hay trêu chọc đấu khẩu quen rồi, giờ bỗng nghe tin bạn mình mất mạng, hán tử cao lớn ấy thu chặt nắm đấm, đấm mạnh vào tường đá, “thình” một tiếng, làm tường đá nứt toác.
Mọi người đều lặng lẽ than thở. Thấy bọn họ cúi đầu, Lạc Tử Tuyền cũng cúi theo, thiếu nữ ấy vốn hiếu kỳ ấy lén đưa ánh mắt liếc nhìn mọi người, chợt thấy Tùy Vân Hy cô nương sắc mặt nhợt nhạt mấp máy miệng như định nói điều gì, nhưng cuối cùng lại cắn chặt môi, nuốt lời chựt nói vào trong.
“Ôi, Văn Thư thật là hồ đồ!” Âu Dương Tiên vuốt râu lắc đầu than. “Cậu chàng đúng là tâm địa lương thiện, ghét điều ác như cừu thù, nhưng dù rằng cậu ta có không quen mắt với cách làm của Trịnh Lý, thì chuyện liên thủ giữa hai phái cũng là đại sự có liên quan đến việc đối phó với Thái Bình minh, nên lấy đại cục làm trọng, cùng bàn bạc với các vị trưởng bối mới phải... Văn Thư xưa nay tinh minh, sao lại nhất thời hồ đồ vậy!”
Câu nói của ông ta làm hai mi mắt Tùy Vân Hy run run, sắc mặt càng không ổn. Nhưng Khương Hằng đã than bảo: “Chư vị cũng đã biết tính khí của Trương huynh, thường ngày huynh ấy hay nói cười, lời lẽ tự do đã quen rồi. Ai ngờ một câu nói vô tâm của huynh ấy, lại chạm vào nỗi đau của Trịnh Lý, khiến Trịnh Lý lập tức nảy sát cơ...”
“Ta phỉ nhổ! Bất Phá các, ông đây nhất định sẽ bắt các ngươi đền mạng!” Cố Lương phẫn uất nói.
Nghe câu ấy của Cố Lương, Tùy Vân Hy bèn cất lời ngăn lại: “Cố huynh, huynh còn chưa biết đấy thôi, Trịnh Lý cố nhiên đáng ghét, nhưng những đệ tử của Bất Phá các đều được lão ta nuôi nấng từ nhỏ, bị lão ta đầu độc niềm tin rằng ‘lấy thân tế kiếm, linh kiếm trường sinh’, bọn họ dường như chưa bao giờ ra khỏi môn phái, rất ít tiếp xúc với mọi người. Thực sự phải nói rằng những đệ tự ấy đều không phải những kẻ đại gian đại ác, chỉ là họ đã theo nhầm sư phụ, lỡ bước sai đường...”
Nói tới đó, Vân Hy lại nhìn Hà Nhân, nói nhỏ: “Trước mắt, vụ án mạng ở Bình Dao, tất là có liên quan đến đệ tử của Bất Phá các. Nhưng Trịnh Lý đã chết, mà đám đệ tử kia thì chỉ là những kẻ chuyên chú vào việc rèn đúc, bọn chúng không biết nguy cơ gì đang đến cả, chưa từng nghĩ tới việc rời khỏi Kỳ Sơn. Hà đại ca, nếu được, Thương Thiên có thể thu nạp những đệ tử ấy không? Một là, với những kẻ đáng thương ấy, cũng là thêm cho họ một con đường sống. Hai là, đối với Thương Thiên, có thêm một số thợ thuyền có kỹ nghệ cao siêu, cũng rất có ích.”
“Cũng được.” Hà Nhân gật đầu nói. “Việc này đợi đến khi đưa được Lạc thần y ra ngoài ải rồi chúng ta sẽ quay trở lại Bình Dao xử lý.”
Nghe thấy Hà Nhân nói vậy, Lạc Dương vội quay sang ông ta nói thêm một câu “Đa tạ”, rồi quay sang Khương Hằng hỏi: “Tráng sĩ, vừa nãy các hạ có nói, người chết trong vụ án mạng ở Bình Dao đều là do bị kim đâm vào tim, mà đầu kim có nhúng một lượng nhỏ độc dược Thần Túy Mộng Mê phải không? Như thế thì lạ thật, từ khi lão phu đưa cả nhà dời đến thôn Đỉnh Sơn, đã không còn tranh chấp gì với đời nữa, cũng không nói đến chuyện trên giang hồ, Thần Túy Mộng Mê sao lại bị người ngoài lấy được chứ?”
Khương Hằng chau mày nói: “Trong nhà ngài có từng bị mất trộm bao giờ không?”
Lạc Tử Tuyền cười đáp lời: “Chưa từng! Vừa nãy cha muội vừa nói rồi, từ sau khi nhà muội chuyển đến thôn Đỉnh Sơn, trừ những vị thúc thẩm hàng xóm xung quanh, không hề gặp qua người ngoài nào cả.”
“Rốt cuộc là kẻ nào đã vu vạ cho Lạc thần y, lại có kẻ nào đã báo lên cho quan phủ biết hành tung của Lạc thần y khiến cho Triệu gia quân đến nhanh như vậy, tất cả những chuyện ấy cố nhiên phải điều tra rõ, nhưng việc gấp gáp nhất hiện nay là đưa Lạc thần y ra ngoài ải nhanh nhất.” Hà Nhân trầm giọng nói. “Trước mắt công việc gấp rút, ta nhận được tin của bằng hữu, Thái Bình minh bao gồm cả mấy môn phái lớn Xung Tiêu, Vân Tiêu đều tham gia hành động lần này, đang tiến sát tới bên bờ Lăng Giang. Mọi người hãy nghỉ ngơi đêm nay, sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ xuất phát đi Hồng Thạch Nguyên.”
“Hồng Thạch Nguyên?” Vân Hy hơi nhướng mày, cô hồ nghi nhìn Hà Nhân, nói vẻ khó hiểu: “Hà đại ca, nếu như muội nhớ không lầm, thì Hồng Thạch Nguyên là nơi cao nguyên gập ghềnh, Lăng Giang chảy xiết xuyên qua đó, tạo nên kẽm (*) Hồng Thạch kỳ quan. Kẽm núi địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công, chỗ đó nếu như có người mai phục thì e là không hay.”
(*) Kẽm: Hẻm giữa hai sườn núi, giữa có lối đi.
“Ý muội ta hiểu.” Hà Nhân hơi gật đầu, cười nói. “Nhưng, Vân Hy muội yên tâm, tin tức này tuyệt đối đáng tin cậy! Ta và vị bằng hữu ấy có thể coi là chỗ giao tình lâu năm, vị ấy tuy gia nhập Thái Bình minh, nhưng mấy năm nay luôn ngầm liên lạc với ta, nhiều lần hành động của Thương Thiên là có sự giúp đỡ của vị ấy.”
Nghe Hà Nhân đảm bảo, Vân Hy không còn nghi hoặc nữa. Ba năm nay giao thiệp với nhau, cô cũng biết Hà Nhân có mối quan hệ rộng rãi cả hai bên hắc bạch, ông ta là người trượng nghĩa trọng tình, rất quý mến bằng hữu. Thực ra, tính khí của Hà Nhân cũng ghét điều ác như cừu thù, vũ khí của ông ta cũng không phải là lợi khí dễ giết người, giang hồ cũng đánh giá rất cao, theo lý mà nói, ông ta rất đáng để gia nhập Thái Bình minh. Nhưng Hà Nhân vì lo lắng đến bằng hữu, nên đã khẳng khái cùng Sái Tiểu Xà gia nhập Thương Thiên. Dầu sao, Sái Tiểu Xà suốt ngày làm bạn với rắn độc, bị giang hồ đặt cho biệt hiệu là “Độc Vương”, nên từ rât lâu đã bị kiệt vào hàng tà phái rồi.
“Được rồi, mọi người đã chiến đấu mấy ngày, cũng nên ngủ một giấc thật ngon cho lại sức. Khương lão đệ, Tần Lão Ưng, hai người hãy canh phòng trước, một canh giờ sau ta và Sái Tiểu Xà sẽ thay ca cho hai người.”
Khương Hằng và Tần Thiếu Trực gật đầu đồng ý. Sau đó, dưới sự sắp xếp của Hà Nhân, mọi người trải thảm ra đất nằm, còn gian phòng duy nhất ở tầm trên thì dành cho hai vị cô nương. Tùy Vân Hy dẫn Lạc Tử Tuyền bước lên bậc thang, đi tới cỗ quan tài để ở trong phòng. Thấy chỉ có một chiếc giường, Vân Hy mỉm cười nói: “Lạc cô nương, hãy nằm nghỉ trước đi, ta còn chút việc vặt phải làm.”
Nghe Vân Hy nói vậy, Lạc Tử Tuyền mới an tâm ngồi xuống giường. Thấy cô ngủ yên rồi, Tùy Vân Hy mới nhè nhẹ khép cửa, đi ra khỏi phòng, nhẹ nhàng tung mình bay lên nóc nhà.
Dưới ánh trăng vằng vặc, hai người Khương Hằng và Tần Thiếu Trực đang ngồi trên sóng mái nhà, đưa mắt nhìn khắp bốn bên. Tần Lão Ưng thấy Vân Hy đến, cười nói một câu “Ta đi thả chim ưng”, rồi liềm rời đi nơi khác. Trong ánh trăng sáng tỏ, chỉ còn lại hai người Khương Hằng và Vân Hy, quay sang nhìn nhau.
Đôi mày kiếm của Khương Hằng tuy hơi biểu lộ vẻ không vui, nhưng giọng nói vẫn ôn tồn: “Sao muội không nghỉ sớm đi? Mấy ngày nay đều phải đi suốt ngày đêm rồi, mai lại trèo đèo lội suối, muội còn không mau nghỉ đi ư?”
Từ nhỏ đến lớn, Hằng ca chưa bao giờ dỗ dành cô bằng những câu dễ nghe, sự quan tâm của y luôn được giấu trong những câu trách cứ. Nghe câu nói đầy quan tâm ấy của Khương Hằng, Vân Hy cũng cảm thấy ấm áp, nhưng nhiều hơn vẫn là một nỗi bất an và nghi hoặc. Cô ngồi xuống bên Khương Hằng, hai người vai kề vai, tựa như thuở ấu thơ lúc ẩn mình trong ngõ tối ở thành Phàn Dương, dựa vào nhau để lấy hơi ấm.... Nhưng cuối cùng Vân Hy cũng từ hồi ức tỉnh lại, cô khẽ cất giọng nói phá tan sự yên tĩnh:
“Hằng ca, lúc nãy huynh có nói, Trương huynh và Trịnh Lý vì một câu nói không hợp mà đã động thủ, nhưng muội lại cảm thấy, chuyện ấy tựa như trái với lẽ thường. Trịnh Lý đào hang ở Kỳ Sơn, giấu Bất Phá các trong lòng núi, đó vốn là một chủ ý vô cùng hoàn hảo. Chỉ tiếc rằng Bình Dao bỗng nhiên xảy ra vụ án mạng ấy, triều đình tất sẽ điều tra, khi đó chuyện dân ở huyện Bình Dao bị mạo danh thay thế sẽ khó tránh khỏi bại lộ và Bất Phá các cũng có nguy cơ bị lộ theo. Trong khi Trịnh Lý vẫn say mê với việc rèn đúc, tự ví mình với Âu Dã Tử, tuyệt nhiên không thể đem kỹ nghệ và cơ nghiệp mấy chục năm qua của Bất Phá các hủy đi trong một buổi được, cho nên mới nghĩ đến việc muốn liên hợp với Thương Thiên chúng ta, cùng nhau đối phó với triều đình và Thái Bình minh. Theo lý đó, ở thời khác tồn vong ấy, Trịnh Lý sẽ phải thể hiện vô cùng tốt, ra sức xúc tiến việc liên hợp mới đúng, sao có thể chỉ vì tranh cãi ở một câu nói, mà lại động võ với Trương huynh? Lão ta hiểu rõ, nếu đắc tội với Thương Thiên thì sẽ có thêm một kẻ địch mạnh, càng thêm bất lợi cho Bất Phá các. Nhỏ không nhẫn sẽ làm hỏng mưu lớn, Trịnh Lý tuổi đã gần trăm, lẽ nào lại không hiểu chút đạo lý ấy?”
“Vân Hy, muội nói vậy là có ý gì?” Khương Hằng bỗng nhiên đứng bật dây, từ trên cao trừng mắt nhìn xuống Vân Hy, lớn tiếng nói. “Là muội nghi ngờ muốn chất vấn ta ư? Lẽ nào đến ta muội cũng khôg tin?”
Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt giận dữ của Khương Hằng, trông rõ một lớp sương lạnh phủ mở trên má y. Vân Hy trân trân nhìn y, không thốt được lời nào: Chiếc quạt trắng trong tay áo, chữ “Lan” bằng máu tươi in hằn, tựa như một mũi kim, đâm sâu vào tim cô. Nhưng, người đang đứng trước mặt mình là người mình đã quen biết mười chín năm trời, sớm chiều cùng nhau, là người cùng trải qua sinh tử, hoạn nạn với mình, là người để bảo vệ mình đã tự chặt đứt cánh tay. Trên cõi đời này, bất cứ người nào cũng có thể không tin, nhưng riêng y thì cô không thể không tin được!
“Hằng ca, muội xin lội, không phải là muội không tin tưởng huynh.” Rất lâu, Vân Hy mới nhẹ nhàng xin lỗi. Dù cho trong lòng vẫn muôn vàn nỗi nghi hoặc, dù cho chiếc quạt nhuốm máu kia vẫn giấu trong tay áo, nhưng cô cũng gắng gượng nén nỗi bất an lại, chậm rãi bảo: “Muội chỉ là... vẫn chưa thể đón nhận cái chết của Trương Văn Thư...”
Thấy coo không còn nghi hoặc nữa, Khương Hằng cũng trở lại giọng điệu bình thường, y vỗ vỗ tay trái lên vai Vân Hy, nói nhỏ: “Ta hiểu... Không còn sớm nữa đâu, muội hãy nghĩ sớm một chút đí.”
Vân Hy khẽ gật đầu, tung mình nhảy xuống khỏi nóc nhà, đứng vững. Ngước mắt lên, thấy Khương Hằng đứng trong trăng sáng, đôi mắt sâu xa, lặng lẽ nhìn cô chăm chú.
Y với cô đã cùng trải qua bao phen sinh tử hoạn nạn, chính đôi mắt ấy luôn chăm chú nhìn cô, chính con người ấy luôn bảo vệ cho cô. Dù cho người toàn thiên hạ đều không tin Khương Hằng, thì Tùy Vân Hy cô cũng không thể không tin y được.
Nghĩ đến đó, Vân Hy ngẩng mặt, nhìn y mỉn cười. Rồi cô mở cửa bước vài phòng. Sau khi cô đi rồi, Khương Hằng đứng trên đỉnh mái, lặng lẽ nắm chặt bàn tay trái duy nhất còn lại của mình, đến độ những ngón tay trắng bợt đi.
Tùy Vân Hy nhẹ nhàng đi vào phòng, thấy Lạc Tử Tuyền đang quay mặt vào trong ngủ, liền đặt hai chiếc ghế, định bụng ngủ tạm qua đêm. Nhưng khi cô vừa đặt lưng xuống thì chợt nhe tren giường có tiếng gọi nhỏ: “Tùy tỷ tỷ, tỷ về rồi ạ?”
Vừa nói Lạc Tử Tuyền vừa quay người lại, đôi mắt to sáng chăm chú nhìn Vân Hy. Thấy Vân Hy ngủ trên ghế, Lạc Tử Tuyền nằm lùi sát vào phía trong giường, vỗ vỗ xuống chỗ trống bên cạnh, nhỏ nhẹ bảo: “Tùy tỷ tỷ, tỷ ngủ trên đây này.”
Thấy động tác của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy cũng không chối từ, cô đi lại nằm xuống mé giường phía ngoài, cười hỏi: “Sao vậy? Muội không ngủ được ư?”
Lạc Tử Tuyền gật gật đầu: Chỉ cần nghĩ tới ở phòng ngoài để đầy những cỗ quan tài gớm ghiếc, cô đã thấy toàn thân ớn lạnh, không thể nào ngủ được. May mà có Tùy tỷ tỷ quay vào, tỷ ấy võ công bất phàm, chắc chẳng sợ bất cứ yêu ma quỷ quái nào... Nhưng, tuy có người ở bên cạnh, không còn sợ những chiếc quan tài ma quái kia nữa, song Lạc Tử Tuyền vẫn không sao ngủ được. Đôi mắt như hai vì sao của cô nhìn khắp khuôn mặt của Tùy Vân Hy, không khỏi suy nghĩ rối bời.
Nhận ra ánh mắt của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy không khỏi buồn cười, hỏi: “Sao vậy? Lạc cô nương có điều gì muốn nói ư?”
“Tỷ gọi là “Lạc cô nương” nghe kỳ lắm, cứ gọi muội là “Tử Tuyền” được rồi!” Lạc Tử Tuyền đáp nhỏ. Cô chần chừ giây lát, cuối cùng không kìm nổi bật ra câu hỏi về sự nghi hoặc trong lòng: “Tùy tỷ tỷ, tỷ với Khương đại ca, có phải là... phải là...”
Nói rồi, Lạc Tử Tuyền giơ hai tay ra, lấy hai ngón tay áp sát lại, mô phỏng hai người tí hon đang cúi chào.
Nhờ ánh trăng mờ ảo, nhìn thấy động tác của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy chỉ cảm thấy cô nương này thật thú vị: Trước đây ở Kỳ Sơn, Vân Hy là người nhỏ tuổi nhất, các sư huynh đều coi cô như tiểu muội. Hằng ca lại lớn hơn cô nhiều. Sau khi hai người rời khỏi Kỳ Sơn, bao nhiêu năm qua, cô rất ít khi được quen biết với một muội muội nhỏ hơn mình. Lạc Tử Tuyền nhỏ hơn cô ba tuổi, bây giờ hai người cùng ngủ một giường, thấy Lạc Tử Tuyền ngây thơ chân thật, Vân Hy không khỏi thấy như đó chính là muội muội của mình, cô bèn cười hỏi: “Có phải là cái gì cơ?”
“Ôi chao, thì cái đó đó.” Lạc Tử Tuyền hơi đỏ mặt, ngượng ngùng nói. “Giống như đại ca muội với tỷ tỷ đẹp như tiên giáng trần ấy, tay cầm tay, ôm chặt lấy nhau...”
Nói đến đó, Lạc Tử Tuyền lại vội vàng dặn bảo: “Tùy tỷ tỷ, tỷ nhất định không được nói ra đấy nhé! Đại ca không cho muội nói, muội cũng là nhìn trộm thấy thôi.”
Vân Hy khẽ bật cười một tiếng, bằng lòng bảo: “Được, muội an tâm, ta sẽ giữ miệng kín như hũ nút.”
Lạc Tử Tuyền yên tâm gật gật đầu, nhưng giây sau, cô lại huých nhẹ cùi chỏ vào Vân Hy đang nằm bên cạnh, nói: “Ôi, Tùy tỷ tỷ còn chưa trả lời muội, tỷ với Khương đại ca có phải là như thế.”
Nói rồi, cô lại để hai ngón cái sát nhau, mô phỏng hai người đang dựa vào nhau.
“Cái này...” Vân Hy còn chưa nói xong thì dòng suy nghĩ đã trôi đi mãi xa.
Nếu như nói tay cầm tay, ôm ấp, thì cũng đúng như “cái đó” mà Lạc Tử Tuyền nói, hơn nữa nếu so ra, cô với Khương Hằng còn thân thiết hơn là đằng khác. Mười một năm trước, sau sự biến ở Kỳ Sơn, y và cô chạy trốn xuống núi, một người mười ba, một người lên tám. Đên đông hàn tuyết rơi như xối ấy, hai người ôm chặt lấy nhau, dựa vào hơi ấm của nhau, vượt qua những thử thách không tưởng đối với thân hình mảnh mai của hai đứa trẻ. Hằng ca chỉ biết dùng bàn tay trái ấm áp duy nhất còn lại nắm chặt lấy hai bàn tay bé nhỏ của cô, giúp cô xua tan mọi giá buốt...
“Tùy tỷ tỷ?” Lạc Tử Tuyền khẽ gọi, khiến Vân Hy thoát ra khỏi dòng ký ức. Nhìn ánh mắt hiếu kỳ của Lạc Tử Tuyền, Vân Hy khẽ nói: “Ta với Hằng ca, nói như thế nào nhỉ... Trên đời này, huynh ấy là người thân duy nhất của ta. Vì huynh ấy ta có thể bỏ cả mạng sống của mình.”
Lạc Tử Tuyền nghi hoặc nheo mắt nhìn. Câu trả lời của Tùy Vân Hy khiến cô như hiểu lại như không, chưa từng trải qua sinh ly tử biệt bao giờ, Tử Tuyền hoàn toàn không thể hiểu được nghĩa tình còn hơn cả tính mạng ấy. Cô chỉ thấy câu trả lời của đối phương không giống lắm với “cái đó” trong tưởng tượng của mình, không thể nói ra được lý do vì sao.
“Được rồi, đừng suy nghĩ lung tung nữa, ngày mai còn phải lên đường đấy.” Vân Hy nói nhỏ.
Sau câu nói đó, Lạc Tử Tuyền ngoan ngoãn nhắm mắt lại, mang theo nỗi niềm nghi hoặc và khó hiểu trong lòng dần chìm vào giấc ngủ êm đềm.
Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng, đoàn người Thương Thiên bắt đầu lên đường, mọi người men theo bờ sông Lăng Giang tiến về hướng Hồng Thạch Nguyên ở phía tây bắc.
Hồng Thạch Nguyên nằm ở phía tây bắc Trung Nguyên, địa thế khá cao, có sông Lăng Giang cắt ngang, tạo nên một kẽm núi kỳ quan. Chỉ thấy Lăng Giang cuồn cuộn chảy qua kẽm núi, núi non hai bên bờ đều là vách cao dựng đứng, đá phô sắc đỏ, đường vân lúc mờ lúc tỏ, như được vẻ bằng chu sa.
Nếu muốn vượt ra ngoài biên ải thì phải vượt qua Lăng Giang, xuyên qua kẽm núi Hồng Thạch. Con đường này vô cùng, chẳng những không có cầu, cả thuyền đò cũng không, chỉ có một sợi dây sắt trơ trọi vắt ngang mặt sông, đu đưa trong gió thu se sắt, phát ra những tiếng vi vu. Chính vì con đường hiểm trở, nên người dân thường chọn những đường quan đạo, có bến đò khác dù xa ngàn dặm. Nhưng theo như lời người hảo hữu của Hà Nhân nói, các phái trong Thái Bình minh hiện đang gấp rút tiến đến con đường quan đạo, duy chỉ có kẽm Hồng Thạch ít dấu chân người này là con đường duy nhất mà họ bỏ qua.
Men theo kẽm núi, đoàn người Thương Thiên hộ tống cả nhà Dược Vương Lạc Dương lặn lội lên phía bắc. Trên vách kỳ thạch hai bên bờ, thi thoảng lại có cây cối mọc xiên ra từ kẽ đá, chảnh quan kỳ lạ như vậy, khiến Lạc Tử Tuyền tấm tắc mãi không thôi. Từ nhoe cô đã luôn ở bên cha, chưa từng đi xa bao giờ, giờ đây thấy được những cảnh quan tráng lệ trước nay chưa từng thấy, lập tức kinh ngạc thốt lên: “Tùy tỷ tỷ, tỷ xem kìa, tỷ xem kìa, chỗ kia có con dê đấy!”
Tùy Vân Hy đang đi bên cạnh Lạc Tử Tuyền, nhìn theo hướng ngón tay cô chỉ về phía vách núi đối diện, chỉ thấy trên vách đá màu đỏ son có mấy khóm cỏ xanh tươi, hai con sơn dương nhởn nhơ chạy đi trên vách núi không khác gì đi trên đất bằng. Cảnh tượng ấy cũng khiến Vân Hy phải tấm tắc cho là kỳ lạ, không ngăn được cười bảo: “Công phu đi trên vách, chạy trên mái gì đi nữa, thì đứng trước mặt các vị “Dương đại hiệp” này cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ!”
Câu “Dương đại hiệp” khiến cho Tử Tuyền cười ngặc nghẽo, cô ghé đến bên tai Vân Hy, thì thầm hỏi đùa: “Vậy Khương đại hiệp so với Dương đại hiệp, thì ai khinh công cao cường hơn ai?”
Người nói vô tình, nhưng người nghe lại có ý, Lạc Tử Tuyền đâu ngờ rằng câu nói của mình lại gợi lên mối suy nghĩ trong lòng Vân Hy: Chữ “Lan” viết bằng máu trên chiếc quạt của Trương Văn Thư, lúc ở trên Kỳ Sơn bị giọt sương nhỏ vào, chảy xuống thành một vệt dọc tạo thành chữ “Dương”. Chính vệt nước hòa máu ấy đã làm Vân Hy ngộ ra, chữ “Lan” viết bằng máu ấy chính là những nét đầu tiên của chữ “Khương”. Mấy ngày hôm nay, không lúc nào cô không nghĩ đến chuyện này, tuy cô tin tưởng Khương Hằng, nhưng chữ tuyệt bút của Trương Văn Thư vẫn khiến cô ăn không ngon ngủ không yên. Cô không chỉ một lần hối hận rằng, giá như lúc ở trong mật động của Bất Phá các ấy, cô không đi xuống đáy hang thăm dò, mà cùng ở lại trên chiếu nghỉ với Trương huynh, thì có thể sự việc đã khác...
“Tùy tỷ tỷ?” Thấy Vân Hy không nói, Lạc Tử Tuyền gọi liền mấy câu, mới kéo cô ra được khỏi nỗi trầm tư. Nhận ra mình luống cuống, Vân Hy nhoẻn miệng cười nói: “Xin lỗi, tỷ đang nghĩ nấy chuyện linh tinh, nên không để ý!”
Tuy mới quen được mấy ngày ngắn ngủi, nhưng trong Thương Thiên chỉ có hai người là nữ, tuổi lại ngang ngang nhau, nên Vân Hy với Tử Tuyền làm thân nhau rất nhanh, thường xưng hô tỷ muội, cũng hay kể cho nhau nghe những câu chuyện của các cô nương. Trò chuyện hồi lâu, thì nghe thấy phía trước loáng thoáng có tiếng nước chảy ì ầm, vòng qua lối ngoặc kẽm núi, thấy dòng Lăng Giang đang cuồn cuộn chảy, gầm thét lao ngang qua vách núi đỏ.
Cảnh tượng ấy khiến Lạc Tử Tuyền há miệng tròn mắt. Vân Hy thì nhớ đến câu thơ trong một cuốn sách của chú câm: “Hoàng Hà chỉ thủy thiên thu lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.”(*), dòng Lăng Giang này cũng có khí phách như vậy. Lại đi lúc nữa, thì thấy trên cao nguyên cao tới vài nhẫn, có một dây sắt bắc ngang, lẻ loi mắc giữa không trung. Độ cao ấy đối với người không học võ như Lạc Tử Tuyền thì chỉ nhìn thôi đã thấy chân mềm nhũn rồi, huống chi phía dưới lại là dòng nước cuồn cuộn, sóng bạc tung trời.
(*) Sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước. Xuống biển rồi, có ngược lên đâu! (Theo bản dịch của Ngô Tất Tố).
Dưới sự sắp xếp của Hà Nhân, ba người Tần Lão Ưng, Âu Dương Tiên, Sái Tiểu Xà trèo lên dây sắt trước. Dầu sao, Âu Dương Tiên tuổi cũng đã quá năm mươi, võ công lại bình thường, để tránh xảy ra sự cố, phải cho hai võ nhân thân thủ phi phàm, một người phía trước, một người phía sau, giúp qua sông, nhỡ có việc gì còn tiện hỗ trợ. Tần Lão Ưng dùng cả tay chân, treo ngược mình dưới dây sắt, cánh tay ông ta rất khỏe, động tác nhanh nhẹn, chỉ ngoảnh đi ngoảnh lại đã tiến được một đoạn xa. Âu Dương Tiên cũng làm theo cách đó, treo ngược mình để vượt qua sợi dây dài cả trăm thước. Còn Sái Tiểu Xà khinh công rất giỏi, nhún thân hình như con chim hồng nhảy trên sợi dây sắt, mỗi lầm có thể đi được vài dặm. Đầu mũi chân Sái Tiểu Xà chạm nhẹ lên dây sắt, mượn lực bay lên, lộn một vòng trên không, bảy lần lên xuống thì qua tới bờ bên kia, còn bảo bối của ông ta là con rắn cạp nong thì quấn mình quanh dây sắt. Con linh xà quấn quanh dây sắt cũng như bơi trong nước, nháy mắt đã sang được bên kia.
Thấy bọn họ có thể qua dây sắt một cách dễ dàng, Hà Nhân đang đợi để hộ tống Lạc Dương qua sông, thì đúng lúc ấy, bỗng nghe Lạc Tử Thương kêu “a” một tiếng thảm thiết, ngã vật mạnh xuống đất. Ngay sau đó, toàn thân anh ta như người chìm dưới nước, liên tục quẫy đạp lăn lộn, tựa như vô cùng đau đớn.
“Tử Thương!” Trông thấy vậy, Lạc Dương hốt hoảng quay đầu, ông ta đưa tay cầm lấy tay phải của Lạc Tử Thương để chẩn mạch.
Đúng lúc vị thần y nổi danh thiên hạ ấy, một tay đỡ lưng con trai, một tay bắt mạch, thì bỗng nhiên hai con mắt Lạc Tử Thương chợt lóe lên ánh u ám, toàn thân anh ta chồm về phía trước, ôm chặt lấy cha mình. Từ trong móng tay anh ta nhô ra một vật nhỏ màu sáng bạc, sáng lóe lên dưới ánh mặt trời...
Vân Hy nhanh mắt nhận ra, như thấy đầu mối của mớ bòng bong. Cô không kịp nghĩ nhiều, lập tức kêu to một tiếng: “Cẩn thận!”, rồi cùng lúc phi cước, phóng thẳng vào bên vai của Lạc Tử Thương!
Chỉ nghe một âm thanh trầm đục vang lên, vai của Lạc Tử Thương đã bị trật khớp, cả bên vai phải vô lực buông thõng xuống, vật kim loại ngầm giấu trong ngón tay cũng rơi xuống đất, sáng lóe lên.
Trên đá hồng thạch là một cây ngân châm. Đầu mũi kim đen sì, đuôi thì vẫn còn mới tinh sáng loáng, giống hết châm độc tìm thấy ở nghịa địa huyện Bình Dao.
Biến cố xảy ra bất ngờ khiến mọi người đều kinh ngạc. Cánh tay phải của Lạc Tử Thương bị trật khớp nhưng vẫn chưa thôi tấn công, anh ta há miệng cắn mạnh vào một bên mặt Lạc Dương, làm cha mình đứt một miếng tai lớn, máu lập tức chảy ra đầm đìa.
Lạc Tử Tuyền sợ hãi kêu thét lên. Khương Hằng thấy vậy, vung tay chặt mạnh vào gáy Lạc Tử Thương, khiến anh ta lập tức ngất đi. Lạc Dương không kịp kêu đau, thậm chí cũng không quan tâm đến cái tai đang bị thương của mình, giữ ngay lấy tay phải của con trai, giật mạnh để nắn lại khớp. Rồi vị lão nhân tóc đã hoa râm ấy mới run rẩy thốt lên ba từ: “Thực Tâm Cổ!”
Lạc Tử Tuyền hốt hoảng lau máu trên tai cho cha, hai tay cô run run, vừa khóc vừa hỏi: “Cha, Thực Tâm Cổ là gì cơ? Đại ca bị sao vậy?”
“Đại ca của con không biết bị trúng độc Thực Tâm Cổ khi nào. Phàm những người trúng thứ cổ độc này đều không thể khống chế được tâm niệm của mình, mà sẽ bị kẻ đầu độc cổ trùng khống chế.” Lạc Dương nhíu chặt hai mày, thở dài một tiếng, rồi quay sang Tùy Vân Hy đang đứng ở bên, ch
Bình luận truyện