Trúc Mã Vi Phu
Chương 22
Editor: Kei/ Beta: Phi Phi
Dân gian nước Triệu từng lưu truyền một bài đồng dao mà cả phụ nữ và trẻ em đều biết.
Gọi là:
Huyết Trích Tử, Tú Y Sứ.
Gân cốt đạm, bì nhục soái.
Là hình dung về một tổ chức ám sát mà ai nhắc đến cũng phải sợ hãi của nước Triệu vào năm đầu lập quốc.
Huyết Trích Tử.
Vì các thành viên trong Huyết Trích Tử đều mang mặt nạ, người mặc áo thêu, vì vậy dân gian gọi họ là Tú Y Sứ.
Thái tổ Hoàng đế chỉ thành lập một tổ chức như vậy trong vòng chưa đầy mười năm. Trong mười năm này, khắp cả nước, dù là quan viên hay dân thường đều hành động thận trọng và giữ im lặng.
Nói đến cái tên xấu xa Huyết Trích Tử thậm chí có thể ngăn trẻ con khóc quấy vào ban đêm.
Có lẽ là cảm thấy cả đời mình nợ máu quá nhiều, không thể rửa sạch được nên trước khi cưỡi hạc về trời, Thái tổ Hoàng đế đã cho giải tán tổ chức này, đồng thời cho một mồi lửa đốt hết mọi tín vật điển tịch có ghi chép những thứ liên quan đến Huyết Trích Tử. Những Tú Y Sứ khiến người nghe thôi cũng sợ mất mật cũng tháo mặt nạ xuống, cởi bỏ cẩm bào rồi lưu lạc giữa chúng sinh vô danh.
Đến nay đã gần sáu mươi năm
Không có sử ký, không còn gì lưu lại.
Bất luận là Huyết Trích Tử hay Tú Y Sứ thì hiện nay cũng chỉ còn là một truyền thuyết trong quán trà hoặc quán cơm mà thôi.
Tùy Ý yên lặng nhìn người đẫm máu đang nằm hấp hối trên mặt đất: “Ngươi nói, Huyết Trích Tử từng xây dựng mạng lưới dưới lòng đất của kinh thành, mà các ngươi lại vừa hay biết được chi tiết về mạng lưới này?”.
“Không phải chúng ta, là Phùng gia; cũng không phải chi tiết, chỉ là một phần hướng đi ở trong đó thôi”.
Tên đồ tể yếu ớt nói: “Phùng gia từng đưa cho bọn ta một tấm bản đồ vẽ những đường hầm giao nhau”.
“Lão muốn bọn ta đào đường hầm từ cửa hàng thịt cho đến khi được nối với những đường hầm vốn có; còn bảo bọn ta tiến hành cải tạo những mật đạo này để thuận lợi cho các kế hoạch sau này”.
Vẻ mặt Tiểu Thế tử bình tĩnh, vừa nghe rõ ngọn nguồn vừa mở lại tấm bản đồ bố cục của cửa quán thịt trong tay.
Đợi tên đồ tể ngừng nói, hắn liền lật phần trống không của trang giấy lên trên rồi trải nó trên nền nhà sạch sẽ trước mặt tên đồ tể rồi nói một cách thờ ơ:
“Vẽ những thứ ngươi biết đi”.
Tên đồ phu ngẩng đầu một cách khó khăn, hắn ta vươn ngón tay run rẩy chấm chút máu dưới đất rồi vẽ trên mặt sau của trang giấy một hình vuông, vài đường gấp khúc cùng vài cái vòng tròn.
Thần sắc của tiểu Thế tử không đổi: “Kinh thành nước Triệu, đường hầm, nơi ẩn thân?”.
Tên đồ tể như bị mất máu quá nhiều mà nằm trên mặt đất thở hổn hển, gật đầu nói: “Trải qua chuyện này, e là bọn chúng không dám quay trở lại thành, hẳn là đang ở cùng những con tin bị bắt, bọn họ đều được giấu ở ngôi làng nhỏ ở ngoài thành”.
“Nơi đó cách cửa Thiên Ba mười dặm, phía Bắc của cửa Thiên Ba; từ lối ra của mật đạo ở ngoài thành đến đó chỉ cần đi năm dặm”.
Tiểu Thế tử nhặt bản vẽ đầy máu lên giao cho người hầu đang đứng một bên: “Đốt đi”.
Đợi người hầu nhận lệnh lui ra, hắn mới nhìn về phía tên đồ tể đã không còn sức lực động đậy: “Nơi ẩn nấp ở ngoài thành có những người nào?”.
“Không tính ba con tin thì chắc là có khoảng ba mươi người. Những người thường xuyên trấn giữ ở đó là sư gia của Phùng gia và mười mấy tên tay chân mà lão ta mang đến; còn lại toàn là những người vẫn còn sống của trại chúng ta”.
Tiểu Thế tử trầm mặc, bỗng nhiên ngồi xổm xuống nhìn hắn: “Tên ngươi là gì?”.
Dường như tên đồ tể đã không còn sức lực để suy nghĩ nhiều hơn, chỉ trả lời ngắn gọn.
“Lý Lương Kiêu”.
“Bao nhiêu tuổi?”.
“Bốn mươi hai”.
“Người Tần Châu?”.
“Phải”.
“Có người thân không?”.
“Cha mẹ đều chết, từng có nương tử và hai con, một trai một gái”.
“Vợ con đã đi đâu rồi?”.
“Không biết, ta… sau khi ta quay về dân tịch* thì bọn họ cũng không từ mà biệt”.
* Dân tịch: ý chỉ thường dân, dân đen.
“Vì sao lại làm sương quân?”.
“Tổ tiên, tòng quân”.
“Ngoại trừ Tần Châu, còn từng đến nơi nào?”.
“Duyễn Châu”.
“Khi nào?”.
“Mười năm trước”.
“Vì sao đi”.
“Điều binh”.
“Người cùng trại với ngươi có cùng người nào ở một doanh với ngươi, khi đó cũng đi Duyễn Châu?”.
“Không có, chúng ta đều là những người đáng thương đến từ năm sông bốn bể”.
“Biết chữ không?”.
“Không biết”.
“Trên người có vật gì có thể chứng minh thân phận không?”.
“Có bùa bình an do vợ đích thân cầu, trên thắt lưng”.
Tiểu Thế tử nhìn kỹ đai lưng của hắn, rồi lấy ra một lá bùa bằng vải có màu sắc khá mờ – bảo quản rất tốt lại không bị dính máu.
“Một câu hỏi cuối cùng, người đứng đầu trại ở bên ngoài thành tên là gì?”.
“Hoàng… Quý Dung”.
Tùy Thế tử cất lá bùa bình an vào trong tay áo, nhìn lại tên đồ tể có hơi thở mong manh một lần nữa.
“Ngủ đi”.
Hắn nhẹ giọng nói xong rồi đứng dậy.
Bước ra khỏi phòng, bước chân của tiểu Thế tử không dừng lại khi đi ngang qua vai hộ vệ đứng ở cửa, mà chỉ thốt ra một câu đặc biệt nhẹ nhàng.
“Giết”.
Cánh cửa sau lưng vang lên một tiếng đóng cửa “cót két”.
Tiểu Thế tử đứng dưới mái hiên, ôm lấy tay áo ngẩng đầu, chỉ thấy sắc trời vốn đang sáng sủa đã bị che lấp bởi những đám mây hình vảy cá.
Xem ra là muốn đổ mưa.
…
Châu Bắc Ngõa Tử.
Cửa hàng thịt Lý thị đã không mở cửa cả một buổi sáng.
Nhưng vì ngày thường trước cửa hàng cũng trong cảnh vắng vẻ nên hôm nay khác thường như vậy cũng không thu hút được quá nhiều sự chú ý của mọi người.
Vì để đánh lừa mọi người, Tùy Ý đi theo người hầu vào tạp viện của cửa hàng thịt từ cửa sau.
“Chính là nơi này”.
Người hầu dẫn mọi người đến cái giếng ở phía Tây.
Tùy tiểu Thế tử rũ mắt nhìn xuống giếng.
Bởi vì bị che khuất trong bóng của lán gỗ nên giếng rất sâu, hắn gần như chỉ có thể nhìn thấy một cái miệng giếng tối om.
Tiểu Thế tử khom người nhặt một cục đá nhỏ dưới chân lên rồi ném xuống giếng.
“Cộp, cộp”.
Giếng sâu phát ra vài tiếng động giòn giã.
“Khô, không cao”.
Tiểu Thế tử phán đoán xong rồi đưa tay sang bên cạnh: “Đưa ô cho ta”.
Thế là người hầu đặt chiếc ô giấy vào lòng bàn tay của hắn.
Sau khi cầm ô, vào khoảnh khắc nét mặt của người hầu trở nên sững sờ vì ngạc nhiên, tiểu Thế tử bước lên phía trước ngồi lên thành giếng một cách rất lưu loát.
Đôi chân hắn đã bị nuốt chửng bởi bóng tối trong giếng.
“Ngươi trở về đi”.
Tùy Ý nghiêng đầu dặn dò.
Dường như lúc này người hầu mới nhận ra ý nghĩa của hành động này của hắn, vẻ mặt có phần hoảng hốt.
“Thế tử đây là muốn, muốn, một mình xuống giếng”.
Đường hầm dễ vào nhưng khó ra, đầu bên kia là nơi ở của đám bắt cóc vô cùng hung ác; bất luận là chỉ thăm dò đường hầm hay là tiến vào sào huyệt của bọn bắt cóc…
Một mình đi xuống cũng quá điên cuồng!
Người hầu sợ hãi mà khom người, cố gắng khiến người thiếu niên không chút cố kỵ trước mặt gạt bỏ ý nghĩ: “Tình hình mật đạo phức tạp, bọn bắt cóc lại hung tàn gian xảo như vậy, xin Thế tử hãy suy nghĩ lại!”.
Người hầu không nghe thấy hắn đáp lại bèn cúi đầu rồi vội vàng bổ sung: “Báo, báo quan, Đại Lý Tự và cấm quân ắt có thể một mẻ bắt gọn bọn chúng”.
“Ngươi cho rằng bọn họ sẽ không phái người theo dõi ở ngoài thành à?”.
Một tay tiểu Thế tử chống trên thành giếng, giọng điệu bình thản mà phân tích cặn kẽ.
“Bất kể là điều động cấm quân hay người đưa tin truyền thư, một khi trong thành có động tĩnh gì thì bọn họ nhất định sẽ chạy trốn khắp nơi như chim sợ cành cong vậy. Ta ghét nhất là những chuyện vô cùng rắc rối này”.
“Vậy…”. Người hầu vội la lên: “Vậy xin Thế tử cho phép tiểu nhân đi cùng với ngài!”.
Tùy Ý cười thành tiếng.
Người hầu ngẩng đầu, chỉ thấy tiểu Thế tử đang uể oải vẫy tay với hắn ta, một tay chống đỡ, bóng dáng nhẹ nhàng rơi vào trong miệng giếng tối đen chỉ để lại một câu cho người ở trên:
“Không, ngươi sẽ vướng víu”.
…
Giờ Thân canh ba, một đội cấm quân được chuẩn bị kỹ lưỡng xông vào khu vực của Châu Bắc Ngõa Tử.
Người đi đường ai cũng dừng lại nhìn một cách ngạc nhiên và sợ hãi.
Cấm quân tách đôi dòng người như một mũi tên sắc bén, đi thẳng đến trước cửa hàng thịt Lý thị của phố Đông mới dừng lại.
Theo lệnh của người đứng đầu, gian hàng thịt nho nhỏ này nhanh chóng bị đội quân trang bị áo giáp bao vây.
“Đại nhân, mấy ngày nay, phủ nha đã thẩm tra đối chiếu kỹ càng sự thay đổi về hộ tịch của kinh thành, thân phận của chủ cửa hàng thịt này có điểm khả nghi. Các mục được ghi trong hồ sơ hoàn toàn không tìm được quê quán của hắn ở đâu, nghi là dùng thân phận giả”.
Bùi Văn Hoán đi sát ngay phía sau cấm quân.
Ông ta vừa nghe lục sự bẩm báo vừa dừng bước nhìn xung quanh.
Ngay sau đó, đôi mắt ông ta khẽ nheo lại, suy nghĩ nói: “Lúc trước dựa vào địa điểm mà bọn bắt cóc xuất hiện và biến mất trong mấy vụ án, ta và thống lĩnh cấm quân đã từng khoanh tròn đại khái một vài nơi là sào huyệt của bọn bắt cóc, cửa hàng thịt này cũng nằm trong đó”.
“Đúng thế”. Lục sự cúi người xuống: “Có điều, khu vực điều tra lần đó thật sự quá lớn, chỉ chú trọng vào việc tìm kiếm con tin ẩn mình trong các hộ gia đình, nhưng không thu hoạch được gì”.
Bùi Văn Hoán nhìn tấm bảng trên đầu cửa hàng có dòng chữ “Cửa hàng thịt Lý thị”, lạnh lùng nhếch môi.
“Xem ra lần này cần phải tìm kiếm trong ngoài trên dưới thật kỹ”.
Lục sự kính cẩn đáp vâng, lập tức đi xuyên qua cấm quân bước lên gõ cánh cửa đang đóng chặt của cửa hàng thịt.
Một lúc lâu vẫn không có người đáp lại.
“Đại nhân, hình như bên trong cửa hàng không có ai cả”.
Lục sự quay lại phía dưới bậc thang, bẩm báo.
“Là thật sự không có ai, hay là giả vờ không có ai, cứ vào nhìn là biết”. Bùi Văn Hoán nói xong, liếc mắt nhìn về phía thống lĩnh cấm quân đang chờ đợi: “Phá cửa”.
Thống lĩnh cấm quân khom người ôm quyền sau đó sai binh lính bên cạnh mang cọc gỗ đến, đâm “đùng đùng” vào cánh cửa sơn đỏ của cửa hàng thịt.
Chỉ một lát sau, cánh cửa gỗ đã bị phá đổ bởi sự thô bạo.
Hơn một chục cấm quân xếp thành một đội nối đuôi nhau vào trong cửa hàng.
Khi dò xét hết tình hình phía trong cửa hàng, thống lĩnh cấm quân bước nhanh ra ngoài rồi ôm quyền với Bùi Văn Hoán ở ngoài cửa: “Bùi đại nhân, cửa hàng đã trống không rồi”.
Bùi Văn Hoán trầm mặc trong phút chốc rồi lên tiếng: “Làm phiền Lĩnh quân vệ* rồi, vẫn xin Lĩnh quân vệ mang binh lục soát kỹ càng mọi ngóc ngách của cửa hàng thịt này, tìm ra đồ vật có thể chỉ ra thân phận của người trong cửa hàng này cũng được, thường ngày bọn họ làm gì hay hướng đi cũng được… một sợi tóc cũng không được bỏ qua”.
* Lĩnh quân vệ: là 2 trong số 16 vệ của phủ binh từ thời Đường, chia ra Tả Lĩnh quân vệ và Hữu Lĩnh quân vệ.
“Vâng”.
Đợi người đứng đầu cấm quân nhận lệnh rời đi hắn ta lại nhìn về phía lục sự bên cạnh: “Ngươi dẫn vài người đi nghe ngóng lai lịch của cửa hàng thịt này với những người xung quanh, khi nào nó đóng cửa và vì sao mà đóng cửa”.
“Thuộc hạ đã hiểu”.
Không lâu sau khi lục sự lui ra, những đám mây âm u trên trời bỗng nhiên lóe lên một chùm sáng chói mắt.
Ngay sau đó, vài tiếng sấm sét “đùng đoàng” vang dội.
Bùi Văn Hoán thong thả bước tới dưới mái hiên trước cửa hàng.
Ông ta vừa bước vào chỗ trú mưa thì những bọt nước to như hạt đậu đã rơi xuống “lộp bộp”.
Con đường lát đá xanh bên cạnh những bậc đá bị mưa làm mờ gần như trong nháy mắt.
Những ổ gà hòa thành bãi nước, hạt mưa dội xuống mặt nước tạo nên gợn sóng lăn tăn. Mặt nước nhăn nhúm phản chiếu bóng người mờ ảo đi đường vội vã tìm chỗ trú mưa và những quân binh đứng thẳng tắp như tùng.
Dân gian nước Triệu từng lưu truyền một bài đồng dao mà cả phụ nữ và trẻ em đều biết.
Gọi là:
Huyết Trích Tử, Tú Y Sứ.
Gân cốt đạm, bì nhục soái.
Là hình dung về một tổ chức ám sát mà ai nhắc đến cũng phải sợ hãi của nước Triệu vào năm đầu lập quốc.
Huyết Trích Tử.
Vì các thành viên trong Huyết Trích Tử đều mang mặt nạ, người mặc áo thêu, vì vậy dân gian gọi họ là Tú Y Sứ.
Thái tổ Hoàng đế chỉ thành lập một tổ chức như vậy trong vòng chưa đầy mười năm. Trong mười năm này, khắp cả nước, dù là quan viên hay dân thường đều hành động thận trọng và giữ im lặng.
Nói đến cái tên xấu xa Huyết Trích Tử thậm chí có thể ngăn trẻ con khóc quấy vào ban đêm.
Có lẽ là cảm thấy cả đời mình nợ máu quá nhiều, không thể rửa sạch được nên trước khi cưỡi hạc về trời, Thái tổ Hoàng đế đã cho giải tán tổ chức này, đồng thời cho một mồi lửa đốt hết mọi tín vật điển tịch có ghi chép những thứ liên quan đến Huyết Trích Tử. Những Tú Y Sứ khiến người nghe thôi cũng sợ mất mật cũng tháo mặt nạ xuống, cởi bỏ cẩm bào rồi lưu lạc giữa chúng sinh vô danh.
Đến nay đã gần sáu mươi năm
Không có sử ký, không còn gì lưu lại.
Bất luận là Huyết Trích Tử hay Tú Y Sứ thì hiện nay cũng chỉ còn là một truyền thuyết trong quán trà hoặc quán cơm mà thôi.
Tùy Ý yên lặng nhìn người đẫm máu đang nằm hấp hối trên mặt đất: “Ngươi nói, Huyết Trích Tử từng xây dựng mạng lưới dưới lòng đất của kinh thành, mà các ngươi lại vừa hay biết được chi tiết về mạng lưới này?”.
“Không phải chúng ta, là Phùng gia; cũng không phải chi tiết, chỉ là một phần hướng đi ở trong đó thôi”.
Tên đồ tể yếu ớt nói: “Phùng gia từng đưa cho bọn ta một tấm bản đồ vẽ những đường hầm giao nhau”.
“Lão muốn bọn ta đào đường hầm từ cửa hàng thịt cho đến khi được nối với những đường hầm vốn có; còn bảo bọn ta tiến hành cải tạo những mật đạo này để thuận lợi cho các kế hoạch sau này”.
Vẻ mặt Tiểu Thế tử bình tĩnh, vừa nghe rõ ngọn nguồn vừa mở lại tấm bản đồ bố cục của cửa quán thịt trong tay.
Đợi tên đồ tể ngừng nói, hắn liền lật phần trống không của trang giấy lên trên rồi trải nó trên nền nhà sạch sẽ trước mặt tên đồ tể rồi nói một cách thờ ơ:
“Vẽ những thứ ngươi biết đi”.
Tên đồ phu ngẩng đầu một cách khó khăn, hắn ta vươn ngón tay run rẩy chấm chút máu dưới đất rồi vẽ trên mặt sau của trang giấy một hình vuông, vài đường gấp khúc cùng vài cái vòng tròn.
Thần sắc của tiểu Thế tử không đổi: “Kinh thành nước Triệu, đường hầm, nơi ẩn thân?”.
Tên đồ tể như bị mất máu quá nhiều mà nằm trên mặt đất thở hổn hển, gật đầu nói: “Trải qua chuyện này, e là bọn chúng không dám quay trở lại thành, hẳn là đang ở cùng những con tin bị bắt, bọn họ đều được giấu ở ngôi làng nhỏ ở ngoài thành”.
“Nơi đó cách cửa Thiên Ba mười dặm, phía Bắc của cửa Thiên Ba; từ lối ra của mật đạo ở ngoài thành đến đó chỉ cần đi năm dặm”.
Tiểu Thế tử nhặt bản vẽ đầy máu lên giao cho người hầu đang đứng một bên: “Đốt đi”.
Đợi người hầu nhận lệnh lui ra, hắn mới nhìn về phía tên đồ tể đã không còn sức lực động đậy: “Nơi ẩn nấp ở ngoài thành có những người nào?”.
“Không tính ba con tin thì chắc là có khoảng ba mươi người. Những người thường xuyên trấn giữ ở đó là sư gia của Phùng gia và mười mấy tên tay chân mà lão ta mang đến; còn lại toàn là những người vẫn còn sống của trại chúng ta”.
Tiểu Thế tử trầm mặc, bỗng nhiên ngồi xổm xuống nhìn hắn: “Tên ngươi là gì?”.
Dường như tên đồ tể đã không còn sức lực để suy nghĩ nhiều hơn, chỉ trả lời ngắn gọn.
“Lý Lương Kiêu”.
“Bao nhiêu tuổi?”.
“Bốn mươi hai”.
“Người Tần Châu?”.
“Phải”.
“Có người thân không?”.
“Cha mẹ đều chết, từng có nương tử và hai con, một trai một gái”.
“Vợ con đã đi đâu rồi?”.
“Không biết, ta… sau khi ta quay về dân tịch* thì bọn họ cũng không từ mà biệt”.
* Dân tịch: ý chỉ thường dân, dân đen.
“Vì sao lại làm sương quân?”.
“Tổ tiên, tòng quân”.
“Ngoại trừ Tần Châu, còn từng đến nơi nào?”.
“Duyễn Châu”.
“Khi nào?”.
“Mười năm trước”.
“Vì sao đi”.
“Điều binh”.
“Người cùng trại với ngươi có cùng người nào ở một doanh với ngươi, khi đó cũng đi Duyễn Châu?”.
“Không có, chúng ta đều là những người đáng thương đến từ năm sông bốn bể”.
“Biết chữ không?”.
“Không biết”.
“Trên người có vật gì có thể chứng minh thân phận không?”.
“Có bùa bình an do vợ đích thân cầu, trên thắt lưng”.
Tiểu Thế tử nhìn kỹ đai lưng của hắn, rồi lấy ra một lá bùa bằng vải có màu sắc khá mờ – bảo quản rất tốt lại không bị dính máu.
“Một câu hỏi cuối cùng, người đứng đầu trại ở bên ngoài thành tên là gì?”.
“Hoàng… Quý Dung”.
Tùy Thế tử cất lá bùa bình an vào trong tay áo, nhìn lại tên đồ tể có hơi thở mong manh một lần nữa.
“Ngủ đi”.
Hắn nhẹ giọng nói xong rồi đứng dậy.
Bước ra khỏi phòng, bước chân của tiểu Thế tử không dừng lại khi đi ngang qua vai hộ vệ đứng ở cửa, mà chỉ thốt ra một câu đặc biệt nhẹ nhàng.
“Giết”.
Cánh cửa sau lưng vang lên một tiếng đóng cửa “cót két”.
Tiểu Thế tử đứng dưới mái hiên, ôm lấy tay áo ngẩng đầu, chỉ thấy sắc trời vốn đang sáng sủa đã bị che lấp bởi những đám mây hình vảy cá.
Xem ra là muốn đổ mưa.
…
Châu Bắc Ngõa Tử.
Cửa hàng thịt Lý thị đã không mở cửa cả một buổi sáng.
Nhưng vì ngày thường trước cửa hàng cũng trong cảnh vắng vẻ nên hôm nay khác thường như vậy cũng không thu hút được quá nhiều sự chú ý của mọi người.
Vì để đánh lừa mọi người, Tùy Ý đi theo người hầu vào tạp viện của cửa hàng thịt từ cửa sau.
“Chính là nơi này”.
Người hầu dẫn mọi người đến cái giếng ở phía Tây.
Tùy tiểu Thế tử rũ mắt nhìn xuống giếng.
Bởi vì bị che khuất trong bóng của lán gỗ nên giếng rất sâu, hắn gần như chỉ có thể nhìn thấy một cái miệng giếng tối om.
Tiểu Thế tử khom người nhặt một cục đá nhỏ dưới chân lên rồi ném xuống giếng.
“Cộp, cộp”.
Giếng sâu phát ra vài tiếng động giòn giã.
“Khô, không cao”.
Tiểu Thế tử phán đoán xong rồi đưa tay sang bên cạnh: “Đưa ô cho ta”.
Thế là người hầu đặt chiếc ô giấy vào lòng bàn tay của hắn.
Sau khi cầm ô, vào khoảnh khắc nét mặt của người hầu trở nên sững sờ vì ngạc nhiên, tiểu Thế tử bước lên phía trước ngồi lên thành giếng một cách rất lưu loát.
Đôi chân hắn đã bị nuốt chửng bởi bóng tối trong giếng.
“Ngươi trở về đi”.
Tùy Ý nghiêng đầu dặn dò.
Dường như lúc này người hầu mới nhận ra ý nghĩa của hành động này của hắn, vẻ mặt có phần hoảng hốt.
“Thế tử đây là muốn, muốn, một mình xuống giếng”.
Đường hầm dễ vào nhưng khó ra, đầu bên kia là nơi ở của đám bắt cóc vô cùng hung ác; bất luận là chỉ thăm dò đường hầm hay là tiến vào sào huyệt của bọn bắt cóc…
Một mình đi xuống cũng quá điên cuồng!
Người hầu sợ hãi mà khom người, cố gắng khiến người thiếu niên không chút cố kỵ trước mặt gạt bỏ ý nghĩ: “Tình hình mật đạo phức tạp, bọn bắt cóc lại hung tàn gian xảo như vậy, xin Thế tử hãy suy nghĩ lại!”.
Người hầu không nghe thấy hắn đáp lại bèn cúi đầu rồi vội vàng bổ sung: “Báo, báo quan, Đại Lý Tự và cấm quân ắt có thể một mẻ bắt gọn bọn chúng”.
“Ngươi cho rằng bọn họ sẽ không phái người theo dõi ở ngoài thành à?”.
Một tay tiểu Thế tử chống trên thành giếng, giọng điệu bình thản mà phân tích cặn kẽ.
“Bất kể là điều động cấm quân hay người đưa tin truyền thư, một khi trong thành có động tĩnh gì thì bọn họ nhất định sẽ chạy trốn khắp nơi như chim sợ cành cong vậy. Ta ghét nhất là những chuyện vô cùng rắc rối này”.
“Vậy…”. Người hầu vội la lên: “Vậy xin Thế tử cho phép tiểu nhân đi cùng với ngài!”.
Tùy Ý cười thành tiếng.
Người hầu ngẩng đầu, chỉ thấy tiểu Thế tử đang uể oải vẫy tay với hắn ta, một tay chống đỡ, bóng dáng nhẹ nhàng rơi vào trong miệng giếng tối đen chỉ để lại một câu cho người ở trên:
“Không, ngươi sẽ vướng víu”.
…
Giờ Thân canh ba, một đội cấm quân được chuẩn bị kỹ lưỡng xông vào khu vực của Châu Bắc Ngõa Tử.
Người đi đường ai cũng dừng lại nhìn một cách ngạc nhiên và sợ hãi.
Cấm quân tách đôi dòng người như một mũi tên sắc bén, đi thẳng đến trước cửa hàng thịt Lý thị của phố Đông mới dừng lại.
Theo lệnh của người đứng đầu, gian hàng thịt nho nhỏ này nhanh chóng bị đội quân trang bị áo giáp bao vây.
“Đại nhân, mấy ngày nay, phủ nha đã thẩm tra đối chiếu kỹ càng sự thay đổi về hộ tịch của kinh thành, thân phận của chủ cửa hàng thịt này có điểm khả nghi. Các mục được ghi trong hồ sơ hoàn toàn không tìm được quê quán của hắn ở đâu, nghi là dùng thân phận giả”.
Bùi Văn Hoán đi sát ngay phía sau cấm quân.
Ông ta vừa nghe lục sự bẩm báo vừa dừng bước nhìn xung quanh.
Ngay sau đó, đôi mắt ông ta khẽ nheo lại, suy nghĩ nói: “Lúc trước dựa vào địa điểm mà bọn bắt cóc xuất hiện và biến mất trong mấy vụ án, ta và thống lĩnh cấm quân đã từng khoanh tròn đại khái một vài nơi là sào huyệt của bọn bắt cóc, cửa hàng thịt này cũng nằm trong đó”.
“Đúng thế”. Lục sự cúi người xuống: “Có điều, khu vực điều tra lần đó thật sự quá lớn, chỉ chú trọng vào việc tìm kiếm con tin ẩn mình trong các hộ gia đình, nhưng không thu hoạch được gì”.
Bùi Văn Hoán nhìn tấm bảng trên đầu cửa hàng có dòng chữ “Cửa hàng thịt Lý thị”, lạnh lùng nhếch môi.
“Xem ra lần này cần phải tìm kiếm trong ngoài trên dưới thật kỹ”.
Lục sự kính cẩn đáp vâng, lập tức đi xuyên qua cấm quân bước lên gõ cánh cửa đang đóng chặt của cửa hàng thịt.
Một lúc lâu vẫn không có người đáp lại.
“Đại nhân, hình như bên trong cửa hàng không có ai cả”.
Lục sự quay lại phía dưới bậc thang, bẩm báo.
“Là thật sự không có ai, hay là giả vờ không có ai, cứ vào nhìn là biết”. Bùi Văn Hoán nói xong, liếc mắt nhìn về phía thống lĩnh cấm quân đang chờ đợi: “Phá cửa”.
Thống lĩnh cấm quân khom người ôm quyền sau đó sai binh lính bên cạnh mang cọc gỗ đến, đâm “đùng đùng” vào cánh cửa sơn đỏ của cửa hàng thịt.
Chỉ một lát sau, cánh cửa gỗ đã bị phá đổ bởi sự thô bạo.
Hơn một chục cấm quân xếp thành một đội nối đuôi nhau vào trong cửa hàng.
Khi dò xét hết tình hình phía trong cửa hàng, thống lĩnh cấm quân bước nhanh ra ngoài rồi ôm quyền với Bùi Văn Hoán ở ngoài cửa: “Bùi đại nhân, cửa hàng đã trống không rồi”.
Bùi Văn Hoán trầm mặc trong phút chốc rồi lên tiếng: “Làm phiền Lĩnh quân vệ* rồi, vẫn xin Lĩnh quân vệ mang binh lục soát kỹ càng mọi ngóc ngách của cửa hàng thịt này, tìm ra đồ vật có thể chỉ ra thân phận của người trong cửa hàng này cũng được, thường ngày bọn họ làm gì hay hướng đi cũng được… một sợi tóc cũng không được bỏ qua”.
* Lĩnh quân vệ: là 2 trong số 16 vệ của phủ binh từ thời Đường, chia ra Tả Lĩnh quân vệ và Hữu Lĩnh quân vệ.
“Vâng”.
Đợi người đứng đầu cấm quân nhận lệnh rời đi hắn ta lại nhìn về phía lục sự bên cạnh: “Ngươi dẫn vài người đi nghe ngóng lai lịch của cửa hàng thịt này với những người xung quanh, khi nào nó đóng cửa và vì sao mà đóng cửa”.
“Thuộc hạ đã hiểu”.
Không lâu sau khi lục sự lui ra, những đám mây âm u trên trời bỗng nhiên lóe lên một chùm sáng chói mắt.
Ngay sau đó, vài tiếng sấm sét “đùng đoàng” vang dội.
Bùi Văn Hoán thong thả bước tới dưới mái hiên trước cửa hàng.
Ông ta vừa bước vào chỗ trú mưa thì những bọt nước to như hạt đậu đã rơi xuống “lộp bộp”.
Con đường lát đá xanh bên cạnh những bậc đá bị mưa làm mờ gần như trong nháy mắt.
Những ổ gà hòa thành bãi nước, hạt mưa dội xuống mặt nước tạo nên gợn sóng lăn tăn. Mặt nước nhăn nhúm phản chiếu bóng người mờ ảo đi đường vội vã tìm chỗ trú mưa và những quân binh đứng thẳng tắp như tùng.
Bình luận truyện