Trường An Thái Bình
Chương 66: Dương Châu
Trằn trọc mấy ngày, khi đến Dương Châu vừa hay là giữa đêm, đêm khuya gió lớn, đám Tô Sầm quyết định ngủ lại trên thuyền, đợi sáng mai rồi tính.
Sang hôm sau vừa ra khỏi khoang thuyền, Tô Sầm sững người.
Thuyền họ đậu ngoài cổng phía đông, bị kẹp giữa vài con thuyền lớn, tuy thuyền buôn của họ không hề nhỏ, cả đầu bếp, phục vụ trên thuyền cộng thêm họ nữa cũng phải, ba, bốn chục người, đứng dàn hàng trên thuyền vẫn còn thừa chỗ, nhưng so với những con thuyền trước mắt này thì hệt như một chiếc thuyền con.
Mấy con thuyền bên cạnh cao tới bốn, năm trượng, đình đài gác cao, màn lụa hương bay, giữa màn che trướng rủ loáng thoáng trông vài mỹ nhân đang chải chuốt sau song cửa, liếc mắt đưa tình, trêu chọc nhìn cậu.
Ông lão chủ thuyền đang chỉ huy dỡ hàng, thấy vậy bèn đi qua giải thích: “Công tử chớ trách, mấy thuyền này là thuyền hoa – cũng là thanh lâu trên nước, chắc mấy cô nương kia tưởng công tử là khách làng chơi qua đêm trên thuyền rồi, công tử cứ mặc đi là được.”
Tô Sầm cũng từng được nghe về thuyền hoa Dương Châu rồi, nhưng trăm nghe không bằng một thấy, cảnh tượng được thuyền hoa bao quanh vẫn khiến cậu chấn động. Cậu bèn hỏi chủ thuyền: “Đêm qua lúc chúng ta tới mấy thuyền hoa này đã đậu ở đây rồi sao?”
Ông lão đáp: “Mấy thuyền hoa này đều đón khách lúc chiều tà, đến đêm thì vào thành chạy dọc trên quan hà, tới sáng sớm mới về. Đêm qua lúc chúng ta tới đây thì họ vẫn chưa về nên không có động tĩnh gì, nếu bắt gặp đúng lúc còn được xem đánh đàn nhảy múa trên thuyền nữa, náo nhiệt lắm.”
Tô Sầm thấy ông lão hào hứng kể, cười bảo: “Xây thuyền hoa thế này lại hay, cũng không sợ khách chơi quỵt, đến lúc đó ra sông rồi, bốn bề là nước, chạy cũng không chạy được.”
“Chưa nghe khách làng chơi chết đuối trên thuyền hoa bao giờ, nhưng hoa khôi chết đuối thì có rồi.”
“Ồ?” Tô Sầm nhướng mày.
“Tôi cũng chỉ nghe nói thôi.” Ông lão nhíu mày nghĩ lại: “Đâu chừng đôi, ba năm trước đấy, nghe bảo là có hoa khôi nọ nổi tiếng khắp Dương Châu nhảy sông tự vẫn, hình như là vì chuyện tình cảm, cụ thể ra sao tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói sau khi chết, thi thể hoa khôi đó trôi trên sông mấy ngày liền, người thì y như đang ngủ, sắc mặt vẫn ửng hồng, xung quanh thi thể có mùi thơm lạ thu hút bươm bướm vây quanh cô nàng. Có người nói cô ta là thần hoa chuyển kiếp, cũng có người bảo là chết không nhắm mắt, trăn trối với bươm bướm, tóm lại là đồn nhau tà quái lắm, muốn nói kiểu gì cũng có.”
“Hương thơm lạ?” Tô Sầm nghiêng đầu hỏi: “Người chết bình thường đều bốc mùi hôi thối, sau lại có hương thơm lạ được?”
“Phải, thế mới lạ.” Ông lão lắc đầu, vừa thở dài vừa nói: “Còn có người biên lại chuyện này thành khúc hát nữa, hình như tên là “Vịnh Điệp Lệnh” gì đấy, gặp dịp còn được nghe người trên thuyền hoa hát nữa kìa.”
…
Đợi Kỳ Lâm và Khúc Linh Nhi thu thập hành lý xong, ba người mới từ biệt chủ thuyền rồi lên bờ, bước lên mảnh đất Dương Châu phong nguyệt khói hoa nhưng cũng âm thầm dậy sóng này.
Khác với thành Trường An phần đông nhà cửa ngay ngắn chỉnh tề, từng phố từng phường nối sát vào nhau, nhà cửa ở Giang Nam phần nhiều là tường hồng ngói than, phố sát bên sông, cầu xây san sát, liễu rủ bờ sông hãy còn ý xanh, trông có vẻ nhiều sức sống hơn thành Trường An mấy phần.
Càng vào sâu trong thành lại càng sống động hơn, tơ lụa rực rỡ phấp phới trong gió, Khúc Linh Nhi mới đến Giang Nam lần đầu, đôi mắt đào hoa đảo liên hồi, kéo tay áo Tô Sầm nhìn gì cũng thấy lạ.
Kỳ Lâm đã quen nhìn bão cát Mạc Bắc, nhưng lại là lần đầu thấy dáng vẻ dịu dàng uyển chuyển của Giang Nam, song hắn bình tĩnh hơn Khúc Linh Nhi nhiều, chỉ nói thẳng: “Thương nhân không được di chuyển bằng xe kéo, không được dùng tơ lụa vải sa, người ở đây lại chẳng bị ảnh hưởng chút nào.”
“Trời cao Hoàng đế xa mà, thành Dương Châu nhiều thương nhân, thương nhân đông hơn cả dân, ngoài thương nhân bản địa còn có cả Tấn thương, Huy thương, Hồ thương… nơi nào cũng có, vải góc gấm hoa rực rỡ trong tay lại không được mặc, khó chịu biết bao.” Tô Sầm chột dạ xoa mũi, ngày trước khi chưa đỗ đạt cậu cũng mặc tơ lụa vải sa hằng ngày, chưa kiêng dè bao giờ, giờ vào triều làm quan lại phải chú ý nhiều hơn, tính ra như vậy cũng là phạm tội bất kính rồi. Vả nhà cậu cũng làm kinh doanh, nghĩ cho danh tiếng của thương nhân, Tô Sầm giải thích: “Năm xưa Hoàng đế Thái tổ lập ra quy định như vậy, một là vì khi ấy người đánh thiên hạ cùng ngài đều xuất thân nhà nông, hai cũng là để khuyến khích nông nghiệp. Nhưng thực ra không phải thương nhân nào cũng xảo trá nham hiểm, người làm thương buôn cũng chẳng dễ dàng gì, nhân dân không thể tự cung tự cấp hết được, có giao dịch là có thương nhân, vốn cũng chỉ là hối hả ngược xuôi kiếm miếng ăn, địa vị thấp còn nặng thuế má, kiếm được tiền lại không cho tiêu, muốn ấm ức bao nhiêu thì ấm ức bấy nhiêu…”
“Tô đại nhân.” Kỳ Lâm cắt ngang: “Ta chỉ nói vậy thôi, ngài nghĩ nhiều rồi.”
Tô Sầm lập tức dừng lại, gật đầu: “…À.”
Cậu cứ cảm giác Lý Thích bảo Kỳ Lâm đi theo là để giám sát cậu, làm cậu lúc nào cũng phải chú ý lời nói hành động, chỉ sợ để lại thóp gì cho người này bắt được thì Lý Thích sẽ tính sổ với cậu.
Tô Sầm thầm thở dài, gần Vua như gần hổ, cứ thấp tha thấp thỏm thế này cũng đâu có dễ gì?
Khúc Linh Nhi thắc mắc: “Thương nhân có tiền thì không cho mua, nông dân được mua thì không có tiền, thế tơ lụa vải sa này cho ai mặc? Cho kẻ làm quan à?”
Tô Sầm nói: “Cậu nghĩ chút bổng lộc đó của quan lại làm được cái gì? Giao thiệp quan trường, ăn uống trong gia đình, tiền lương cho người làm, chức quan càng cao càng phải có hình thức phù hợp với thân phận, nào là xe ngựa, tùy tùng,… Nếu tôi chỉ trông vào chút bổng lộc đó thì còn chẳng nuôi được cậu nữa.”
Khúc Linh Nhi bĩu môi: “Thế làm quan có gì hay đâu, sao có nhiều người muốn làm quan vậy?”
“Có người thích tiền, có người thích quyền, hơn nữa quyền lực đến một mức nào đó còn có thể sinh tiền.” Tô Sầm nghiêng người nói nhỏ: “Cậu nói xem xe ngựa, bảo mã, mỹ nhân của mấy kẻ làm quan kia đều đổi bằng bổng lộc à?”
“Ý huynh là…” Khúc Linh Nhi chưa kịp nói xong đã bị Tô Sầm kéo tay áo, tức thì ngậm miệng.
Chỉ thấy một người đàn ông chui ra từ con ngõ đằng trước, vóc dáng không cao, tay xách một chiếc giỏ rau đậy kín bằng vải màu chàm, gã đi một bước ngoái đầu ba lần, xác nhận sau lưng không có ai bám theo mới vùi đầu bước vội.
Lối đi vốn không rộng, ba người Tô Sầm dàn hàng đã chiếm hơn nửa đường, người kia chỉ có thể đi nép vào tường, trong lúc bước qua hai căn nhà người nọ liếc mắt nhìn Tô Sầm, không khéo cũng đúng lúc Tô Sầm đang nhìn gã.
Ngay lúc đấy, người nọ vội vàng rời mắt, rẽ vào một ngõ nhỏ sau lưng Tô Sầm.
Tô Sầm dừng bước nhìn lại, sau đó nói với Khúc Linh Nhi: “Đi báo quan.”
Khúc Linh Nhi ngớ ra: “Hả?”
“Nói người đó là dân buôn lậu muối, chắc chắn quan phủ sẽ cho người đi bắt.” Sau đó cậu nói với Kỳ Lâm: “Đợi gã gần bị bắt thì cứu lại.”
Khúc Linh Nhi bừng tỉnh, lập tức nhận mệnh, vừa đi hai bước y đã quay lại hỏi: “Tô ca ca, lát nữa tôi đi đâu tìm huynh?”
“Nhà trọ lớn nhất thành Dương Châu.” Tô Sầm mỉm cười: “Phòng hảo hạng nhất.”
…
Thành Dương Châu chia hai phần La Thành và Tử Thành, Tử Thành nằm trên Thục Cương năm dặn phía tây bắc La Thành, là nơi đóng quân và xây dựng nha môn, La Thành thì là nơi ở của bách tính bình thường. Một con phố dài mười dặm xây ven sông, khác với thành Trường An có nơi mua bán tập trung là chợ Đông, chợ Tây, hàng quán trong thành Dương Châu lại bày ngay ven phố, nối liền với phường ở bên trong, dọc đường đi náo nhiệt vô cùng.
Nhà trọ lớn nhất trong thành là Thiên Hạ Lâu, nằm trên đoạn đường phồn hoa bậc nhất giữa phố dài mười dặm, tòa nhà cao ba tầng, tầng một là sảnh, tầng hai là phòng riêng, tầng ba mới là phòng ở. Nhà trọ được xây cực kỳ tráng lệ, quỳnh lâu ngọc vũ, trên người mà không sẵn mấy đĩnh vàng cũng chẳng dám vào trong.
Vậy còn chưa tính là gì, Thiên Hạ Lâu này sợ có khách không thích ồn ào còn dẹp hẳn ra một vùng yên tĩnh giữa phố xá náo nhiệt.
Sau tòa chính có mấy viện riêng, không cần đi vào từ sảnh mà vào từ cửa hông, trúc xanh vây quanh, dưới cầu nước chảy, yên liễu mênh mang tràn ngập ý cảnh Giang Nam.
Tô Sầm vừa vào phòng đã có một tiểu nhị qua bưng trà nước, khác với tiểu nhị ngoài sảnh mặc áo vải thô, tiểu nhị ở viện sau này đều chưa qua mười lăm, mười sáu tuổi, mặc áo gấm trắng, cử chỉ hành động nhìn là biết được huấn luyện từ nhỏ.
Tô Sầm nói mình không thích bị làm phiền, sau này không dặn gì thì không cần qua đây, tiểu nhị kia cũng biết điều, không nhiều lời mà cúi người đáp “dạ”, rồi lui xuống.
Không lâu sau ngoài cửa lại có tiếng động, Kỳ Lâm dẫn một người vào, chính là người họ gặp ban nãy.
Khúc Linh Nhi cũng đi về cùng họ, sau khi báo quan, y còn tiện thể diễn màn cứu người với Kỳ Lâm, gã đàn ông kia không biết Khúc Linh Nhi là người báo quan, còn luôn miệng nói “Đa tạ cô nương”.
Khúc Linh Nhi quan sát người trước mặt, gã đàn ông này chừng ba, bốn mươi tuổi, màu da ngăm đen, vóc dáng nhỏ con, đứng cạnh Kỳ Lâm lại càng rõ vẻ tầm thường. Một người bình thường đến vậy mà chẳng hiểu làm sao Tô Sầm lại nhận ra ngay đó là người buôn muối lậu.
Vừa rồi y đã kiểm tra cẩn thận, thứ trong giỏ đó đúng là muối.
Kỳ Lâm chỉ vào Tô Sầm, bảo: “Đây là công tử nhà ta.”
Người kia lập tức quỳ xuống trước mặt Tô Sầm: “Đa tạ công tử ra tay cứu giúp, tiểu nhân nhà có mẹ già con nhỏ, thay mặt cả nhà đa tạ công tử.”
Tô Sầm không dám nhận, vội bảo người nọ ngồi lên, nói: “Tôi cũng là thấy huynh hiền lành không giống người xấu mới bảo họ cứu huynh, nhưng tôi mong huynh có gì nói nấy, tôi không muốn cứu sai người. Huynh tên họ là gì? Nhà ở nơi đâu? Sao đám quan sai đó muốn bắt huynh?”
Người kia chần chừ một lát mới nói: “Tiểu nhân là Vương Nhị, là người thôn La Lĩnh ngoại thành Dương Châu, mấy quan binh kia muốn bắt tôi là vì… tôi buôn muối lậu.”
“Ồ?” Tô Sầm nhướng mày đầy hứng thú.
Ban đầu cậu chỉ nghĩ người này lén lút ắt có vấn đề, nhưng cũng không có bản lĩnh vừa nhìn đã biết là người buôn muối lậu, chẳng qua khi nhìn theo mép tường gã chạy mới phát hiện có vài hạt muối thô bị rơi lại.
“Huynh có biết buôn muối lậu là tội chết không, theo luật Đại Chu là bị xử chém ngay giữa phố đấy.”
Vương Nhị lập tức trượt khỏi ghế, quỳ xuống đất: “Công tử, công tử tha mạng. Tiểu nhân cũng chỉ bất đắc dĩ thôi, tiểu nhân có mẹ già tám mươi, có con nhỏ ba tuổi, cả gia đình đều đang đợi chút bạc này của ta để sống qua ngày!”
Tô Sầm phất tay: “Nếu đã cứu rồi không lý nào tôi lại đưa huynh về đó, huynh không cần sợ. Huynh nói huynh bất đắc dĩ, chẳng lẽ trong nhà không có ruộng đất gì hay sao? Sao lại phải mạo hiểm tính mạng làm việc này?”
Khúc Linh Nhi dìu Vương Nhị lên ghế, song gã cũng không dám ngồi hẳn, chỉ chực quỳ xuống bất cứ lúc nào, gã dè dặt nói: “Thấy công tử không giống người Dương Châu, e là không biết tình hình ở đây, tôi cũng không giấu công tử, nhà tôi xưa cũng có một mẫu ba phân, chẳng qua… giờ đều bị lừa cả rồi.”
Tô Sầm nhíu mày: “Sao lại như vậy?”
Vương Nhị nói: “Thôn La Lĩnh chúng ta vốn là nơi ruộng nương trù phú, nhưng năm trước đại hạn, sau đó lại thêm nạn châu chấu, khi sắp không nộp nổi thuế má nữa thì phú hào trong thành mới bảo chúng ta bán ruộng cho chúng, chúng nộp thuế ruộng cho chúng ta, sau này không cần chúng ta lo chuyện thuế má. Chúng nói chúng thuê chúng ta làm tá điền, chúng ta lo liệu ruộng vườn giúp chúng, bất kể lỗ lãi thế nào chúng đều trả công hằng tháng.”
Tô Sầm hỏi: “Họ nuốt lời sao?”
Vương Nhị thở dài, nói tiếp: “Mấy tháng đầu đúng là có trả công, thôn dân thấy có tiền đều bán đất cho chúng. Đến khi tất cả mọi người hết đất rồi chúng mới trở mặt, không trả tiền công tháng cho chúng tôi nữa, mà cũng chả trả đất luôn.”
“Không ai báo quan sao?”
Vương Nhị lắc đầu: “Sao lại không chứ? Nhưng đám phú hào đó đã bắt tay với quan phủ từ lâu, khế ruộng của chúng tôi nằm trong tay chúng, quan phủ nhắm một mắt mở một mắt, chúng tôi cũng hết cách.”
“Đúng là gian thương tham quan.” Khúc Linh Nhi tức tối giậm chân: “Quan lại với thương buôn chẳng có ai tốt hết!”
Tô Sầm khẽ ho một tiếng, nhìn Khúc Linh Nhi, làm quan với thương buôn cậu đều chiếm cả, thế chẳng phải tội ác tày trời hay sao?
Khúc Linh Nhi vội nói: “Tô… Công tử, em không nói công tử mà!”
Tô Sầm lắc đầu, hỏi tiếp: “Phú hào chiếm ruộng các huynh là ai?”
Vương Nhị nói: “Là thương buôn muối lớn nhất thành Dương Châu chúng tôi, họ Uông với họ Giả.”
Tô Sầm sửng sốt, hơi ngẩng đầu.
Đúng là chẳng mất chút sức nào đã đến.
“Vậy nên huynh bán muối lậu trả thù họ sao?”
“Phải… mà cũng không phải.” Vương Nhị buồn bã lắc đầu: “Đâu đến lượt chúng tôi trả thù chứ, chúng tôi cũng chỉ bị miếng ăn dồn tới bước này, công tử không biết chúng bán giá muối cao thế nào đâu, một cân muối năm Nguyên Thuận Nguyên niên có giá tám mươi tư văn, giờ một cân muối chúng có thể bán tận hơn hai trăm năm mươi văn kìa!”
“Hơn hai trăm năm mươi văn?!” Tô Sầm không khỏi kinh ngạc, phải biết chi tiêu một tháng của một hộ dân bình thường cũng chỉ chừng một lượng bạc, một cân muối đã chiếm hết phần tư, nói cách khác, một cân muối bây giờ có thể đổi được hai đấu gạo ngoài chợ, đủ cho một hộ bình thường ăn hai tháng.
“Vô pháp vô thiên.” Tô Sầm vỗ bàn: “Quan phủ mà lại mặc cho chúng nâng giá trên trời như vậy!”
“Đâu chỉ có vậy, quan phủ còn giúp đám buôn muối quan dẹp người buôn lậu, bắt về được thì đánh cho tơi bời, nhà ai trả được tiền chuộc thì nhặt được về cái mạng, nhỡ mà nghèo không có tiền chuộc thì chỉ có nước chết trong lao thôi.”
Khúc Linh Nhi lại định nổi nóng, Tô Sầm lại lắc đầu với y. Hiện giờ họ chỉ có thể âm thầm đối phó chuyện này, bán muối lậu vốn là phạm pháp, quan phủ làm vậy quả không có gì chê trách.
Chẳng qua cấu kết với gian thương vụ lợi thì không thể nhẫn nhịn.
“Nếu gặp Phong đại nhân còn đỡ, chỉ răn dạy chúng tôi vài câu rồi cũng âm thầm thả đi, phải người khác e là chẳng còn đường sống.”
“Phong đại nhân?” Tô Sầm ngẩng đầu: “Phong đại nhân nào?”
Vương Nhị giải thích: “Công tử không biết đấy thôi, Phong đại nhân là Trưởng sử thành Dương Châu chúng tôi, là một vị quan tốt, tiếc là lại bị phân đến Dương Châu,…”
Phong Nhất Minh… Tô Sầm híp mắt, xem ra hình tượng của Phong Nhất Minh trong lòng người dân Dương Châu cũng không tệ.
Tô Sầm hỏi thêm về tình hình muối quan và nguồn gốc muối tư, đến khi hỏi xong đã sắp giữa trưa.
Lúc này cậu đã hiểu được phần nào tình hình cơ bản ở Dương Châu. Hai hộ muối quan lớn nhất Dương Châu lần lượt là hai nhà Uông và Giả, nhà họ Uông có hai cô con gái, sau lại có thêm con rể vào ở rể, Uông lão gia giao hết gia nghiệp cho con rể xử lý, bây giờ quyền quyết định đang nằm trong tay vị con rể này. Bên họ Giả tuy có con trai nhưng lại là kẻ phong lưu đi3m đàng, ngày nào cũng quyến luyến chốn trăng hoa, thích gây chuyện, nên dù Giả lão gia đã cả mớ tuổi vẫn phải tự lo liệu chuyện gia nghiệp.
Còn về nguồn gốc muối lậu thì Vương Nhị không nói rõ, chỉ bảo trên họ có người khác, họ chỉ cần lấy muối về bán cho các hộ là được, còn người trên kia có muối bằng cách nào thì gã không biết. Tô Sầm cũng biết gã sợ mình không rõ lai lịch, muốn moi tin từ gã nên cũng không hỏi thêm, cho gã ít tiền rồi bảo Kỳ Lâm đưa người về.
Bữa trưa được người bên Thiên Hạ Lâu đem tới, thức ăn Dương Châu chính tông vẫn mang một hương vị rất riêng. Sau bữa trưa, Kỳ Lâm và Khúc Linh Nhi tự về phòng mình, còn Tô Sầm vùi mình trong phòng cả buổi chiều không biết suy tính chuyện gì. Đến khi sương đêm bàng bạc, Tô Sầm mới đi ra, nói với Kỳ Lâm: “Nhờ Kỳ thị vệ đi mời một người giúp ta.”
Sang hôm sau vừa ra khỏi khoang thuyền, Tô Sầm sững người.
Thuyền họ đậu ngoài cổng phía đông, bị kẹp giữa vài con thuyền lớn, tuy thuyền buôn của họ không hề nhỏ, cả đầu bếp, phục vụ trên thuyền cộng thêm họ nữa cũng phải, ba, bốn chục người, đứng dàn hàng trên thuyền vẫn còn thừa chỗ, nhưng so với những con thuyền trước mắt này thì hệt như một chiếc thuyền con.
Mấy con thuyền bên cạnh cao tới bốn, năm trượng, đình đài gác cao, màn lụa hương bay, giữa màn che trướng rủ loáng thoáng trông vài mỹ nhân đang chải chuốt sau song cửa, liếc mắt đưa tình, trêu chọc nhìn cậu.
Ông lão chủ thuyền đang chỉ huy dỡ hàng, thấy vậy bèn đi qua giải thích: “Công tử chớ trách, mấy thuyền này là thuyền hoa – cũng là thanh lâu trên nước, chắc mấy cô nương kia tưởng công tử là khách làng chơi qua đêm trên thuyền rồi, công tử cứ mặc đi là được.”
Tô Sầm cũng từng được nghe về thuyền hoa Dương Châu rồi, nhưng trăm nghe không bằng một thấy, cảnh tượng được thuyền hoa bao quanh vẫn khiến cậu chấn động. Cậu bèn hỏi chủ thuyền: “Đêm qua lúc chúng ta tới mấy thuyền hoa này đã đậu ở đây rồi sao?”
Ông lão đáp: “Mấy thuyền hoa này đều đón khách lúc chiều tà, đến đêm thì vào thành chạy dọc trên quan hà, tới sáng sớm mới về. Đêm qua lúc chúng ta tới đây thì họ vẫn chưa về nên không có động tĩnh gì, nếu bắt gặp đúng lúc còn được xem đánh đàn nhảy múa trên thuyền nữa, náo nhiệt lắm.”
Tô Sầm thấy ông lão hào hứng kể, cười bảo: “Xây thuyền hoa thế này lại hay, cũng không sợ khách chơi quỵt, đến lúc đó ra sông rồi, bốn bề là nước, chạy cũng không chạy được.”
“Chưa nghe khách làng chơi chết đuối trên thuyền hoa bao giờ, nhưng hoa khôi chết đuối thì có rồi.”
“Ồ?” Tô Sầm nhướng mày.
“Tôi cũng chỉ nghe nói thôi.” Ông lão nhíu mày nghĩ lại: “Đâu chừng đôi, ba năm trước đấy, nghe bảo là có hoa khôi nọ nổi tiếng khắp Dương Châu nhảy sông tự vẫn, hình như là vì chuyện tình cảm, cụ thể ra sao tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói sau khi chết, thi thể hoa khôi đó trôi trên sông mấy ngày liền, người thì y như đang ngủ, sắc mặt vẫn ửng hồng, xung quanh thi thể có mùi thơm lạ thu hút bươm bướm vây quanh cô nàng. Có người nói cô ta là thần hoa chuyển kiếp, cũng có người bảo là chết không nhắm mắt, trăn trối với bươm bướm, tóm lại là đồn nhau tà quái lắm, muốn nói kiểu gì cũng có.”
“Hương thơm lạ?” Tô Sầm nghiêng đầu hỏi: “Người chết bình thường đều bốc mùi hôi thối, sau lại có hương thơm lạ được?”
“Phải, thế mới lạ.” Ông lão lắc đầu, vừa thở dài vừa nói: “Còn có người biên lại chuyện này thành khúc hát nữa, hình như tên là “Vịnh Điệp Lệnh” gì đấy, gặp dịp còn được nghe người trên thuyền hoa hát nữa kìa.”
…
Đợi Kỳ Lâm và Khúc Linh Nhi thu thập hành lý xong, ba người mới từ biệt chủ thuyền rồi lên bờ, bước lên mảnh đất Dương Châu phong nguyệt khói hoa nhưng cũng âm thầm dậy sóng này.
Khác với thành Trường An phần đông nhà cửa ngay ngắn chỉnh tề, từng phố từng phường nối sát vào nhau, nhà cửa ở Giang Nam phần nhiều là tường hồng ngói than, phố sát bên sông, cầu xây san sát, liễu rủ bờ sông hãy còn ý xanh, trông có vẻ nhiều sức sống hơn thành Trường An mấy phần.
Càng vào sâu trong thành lại càng sống động hơn, tơ lụa rực rỡ phấp phới trong gió, Khúc Linh Nhi mới đến Giang Nam lần đầu, đôi mắt đào hoa đảo liên hồi, kéo tay áo Tô Sầm nhìn gì cũng thấy lạ.
Kỳ Lâm đã quen nhìn bão cát Mạc Bắc, nhưng lại là lần đầu thấy dáng vẻ dịu dàng uyển chuyển của Giang Nam, song hắn bình tĩnh hơn Khúc Linh Nhi nhiều, chỉ nói thẳng: “Thương nhân không được di chuyển bằng xe kéo, không được dùng tơ lụa vải sa, người ở đây lại chẳng bị ảnh hưởng chút nào.”
“Trời cao Hoàng đế xa mà, thành Dương Châu nhiều thương nhân, thương nhân đông hơn cả dân, ngoài thương nhân bản địa còn có cả Tấn thương, Huy thương, Hồ thương… nơi nào cũng có, vải góc gấm hoa rực rỡ trong tay lại không được mặc, khó chịu biết bao.” Tô Sầm chột dạ xoa mũi, ngày trước khi chưa đỗ đạt cậu cũng mặc tơ lụa vải sa hằng ngày, chưa kiêng dè bao giờ, giờ vào triều làm quan lại phải chú ý nhiều hơn, tính ra như vậy cũng là phạm tội bất kính rồi. Vả nhà cậu cũng làm kinh doanh, nghĩ cho danh tiếng của thương nhân, Tô Sầm giải thích: “Năm xưa Hoàng đế Thái tổ lập ra quy định như vậy, một là vì khi ấy người đánh thiên hạ cùng ngài đều xuất thân nhà nông, hai cũng là để khuyến khích nông nghiệp. Nhưng thực ra không phải thương nhân nào cũng xảo trá nham hiểm, người làm thương buôn cũng chẳng dễ dàng gì, nhân dân không thể tự cung tự cấp hết được, có giao dịch là có thương nhân, vốn cũng chỉ là hối hả ngược xuôi kiếm miếng ăn, địa vị thấp còn nặng thuế má, kiếm được tiền lại không cho tiêu, muốn ấm ức bao nhiêu thì ấm ức bấy nhiêu…”
“Tô đại nhân.” Kỳ Lâm cắt ngang: “Ta chỉ nói vậy thôi, ngài nghĩ nhiều rồi.”
Tô Sầm lập tức dừng lại, gật đầu: “…À.”
Cậu cứ cảm giác Lý Thích bảo Kỳ Lâm đi theo là để giám sát cậu, làm cậu lúc nào cũng phải chú ý lời nói hành động, chỉ sợ để lại thóp gì cho người này bắt được thì Lý Thích sẽ tính sổ với cậu.
Tô Sầm thầm thở dài, gần Vua như gần hổ, cứ thấp tha thấp thỏm thế này cũng đâu có dễ gì?
Khúc Linh Nhi thắc mắc: “Thương nhân có tiền thì không cho mua, nông dân được mua thì không có tiền, thế tơ lụa vải sa này cho ai mặc? Cho kẻ làm quan à?”
Tô Sầm nói: “Cậu nghĩ chút bổng lộc đó của quan lại làm được cái gì? Giao thiệp quan trường, ăn uống trong gia đình, tiền lương cho người làm, chức quan càng cao càng phải có hình thức phù hợp với thân phận, nào là xe ngựa, tùy tùng,… Nếu tôi chỉ trông vào chút bổng lộc đó thì còn chẳng nuôi được cậu nữa.”
Khúc Linh Nhi bĩu môi: “Thế làm quan có gì hay đâu, sao có nhiều người muốn làm quan vậy?”
“Có người thích tiền, có người thích quyền, hơn nữa quyền lực đến một mức nào đó còn có thể sinh tiền.” Tô Sầm nghiêng người nói nhỏ: “Cậu nói xem xe ngựa, bảo mã, mỹ nhân của mấy kẻ làm quan kia đều đổi bằng bổng lộc à?”
“Ý huynh là…” Khúc Linh Nhi chưa kịp nói xong đã bị Tô Sầm kéo tay áo, tức thì ngậm miệng.
Chỉ thấy một người đàn ông chui ra từ con ngõ đằng trước, vóc dáng không cao, tay xách một chiếc giỏ rau đậy kín bằng vải màu chàm, gã đi một bước ngoái đầu ba lần, xác nhận sau lưng không có ai bám theo mới vùi đầu bước vội.
Lối đi vốn không rộng, ba người Tô Sầm dàn hàng đã chiếm hơn nửa đường, người kia chỉ có thể đi nép vào tường, trong lúc bước qua hai căn nhà người nọ liếc mắt nhìn Tô Sầm, không khéo cũng đúng lúc Tô Sầm đang nhìn gã.
Ngay lúc đấy, người nọ vội vàng rời mắt, rẽ vào một ngõ nhỏ sau lưng Tô Sầm.
Tô Sầm dừng bước nhìn lại, sau đó nói với Khúc Linh Nhi: “Đi báo quan.”
Khúc Linh Nhi ngớ ra: “Hả?”
“Nói người đó là dân buôn lậu muối, chắc chắn quan phủ sẽ cho người đi bắt.” Sau đó cậu nói với Kỳ Lâm: “Đợi gã gần bị bắt thì cứu lại.”
Khúc Linh Nhi bừng tỉnh, lập tức nhận mệnh, vừa đi hai bước y đã quay lại hỏi: “Tô ca ca, lát nữa tôi đi đâu tìm huynh?”
“Nhà trọ lớn nhất thành Dương Châu.” Tô Sầm mỉm cười: “Phòng hảo hạng nhất.”
…
Thành Dương Châu chia hai phần La Thành và Tử Thành, Tử Thành nằm trên Thục Cương năm dặn phía tây bắc La Thành, là nơi đóng quân và xây dựng nha môn, La Thành thì là nơi ở của bách tính bình thường. Một con phố dài mười dặm xây ven sông, khác với thành Trường An có nơi mua bán tập trung là chợ Đông, chợ Tây, hàng quán trong thành Dương Châu lại bày ngay ven phố, nối liền với phường ở bên trong, dọc đường đi náo nhiệt vô cùng.
Nhà trọ lớn nhất trong thành là Thiên Hạ Lâu, nằm trên đoạn đường phồn hoa bậc nhất giữa phố dài mười dặm, tòa nhà cao ba tầng, tầng một là sảnh, tầng hai là phòng riêng, tầng ba mới là phòng ở. Nhà trọ được xây cực kỳ tráng lệ, quỳnh lâu ngọc vũ, trên người mà không sẵn mấy đĩnh vàng cũng chẳng dám vào trong.
Vậy còn chưa tính là gì, Thiên Hạ Lâu này sợ có khách không thích ồn ào còn dẹp hẳn ra một vùng yên tĩnh giữa phố xá náo nhiệt.
Sau tòa chính có mấy viện riêng, không cần đi vào từ sảnh mà vào từ cửa hông, trúc xanh vây quanh, dưới cầu nước chảy, yên liễu mênh mang tràn ngập ý cảnh Giang Nam.
Tô Sầm vừa vào phòng đã có một tiểu nhị qua bưng trà nước, khác với tiểu nhị ngoài sảnh mặc áo vải thô, tiểu nhị ở viện sau này đều chưa qua mười lăm, mười sáu tuổi, mặc áo gấm trắng, cử chỉ hành động nhìn là biết được huấn luyện từ nhỏ.
Tô Sầm nói mình không thích bị làm phiền, sau này không dặn gì thì không cần qua đây, tiểu nhị kia cũng biết điều, không nhiều lời mà cúi người đáp “dạ”, rồi lui xuống.
Không lâu sau ngoài cửa lại có tiếng động, Kỳ Lâm dẫn một người vào, chính là người họ gặp ban nãy.
Khúc Linh Nhi cũng đi về cùng họ, sau khi báo quan, y còn tiện thể diễn màn cứu người với Kỳ Lâm, gã đàn ông kia không biết Khúc Linh Nhi là người báo quan, còn luôn miệng nói “Đa tạ cô nương”.
Khúc Linh Nhi quan sát người trước mặt, gã đàn ông này chừng ba, bốn mươi tuổi, màu da ngăm đen, vóc dáng nhỏ con, đứng cạnh Kỳ Lâm lại càng rõ vẻ tầm thường. Một người bình thường đến vậy mà chẳng hiểu làm sao Tô Sầm lại nhận ra ngay đó là người buôn muối lậu.
Vừa rồi y đã kiểm tra cẩn thận, thứ trong giỏ đó đúng là muối.
Kỳ Lâm chỉ vào Tô Sầm, bảo: “Đây là công tử nhà ta.”
Người kia lập tức quỳ xuống trước mặt Tô Sầm: “Đa tạ công tử ra tay cứu giúp, tiểu nhân nhà có mẹ già con nhỏ, thay mặt cả nhà đa tạ công tử.”
Tô Sầm không dám nhận, vội bảo người nọ ngồi lên, nói: “Tôi cũng là thấy huynh hiền lành không giống người xấu mới bảo họ cứu huynh, nhưng tôi mong huynh có gì nói nấy, tôi không muốn cứu sai người. Huynh tên họ là gì? Nhà ở nơi đâu? Sao đám quan sai đó muốn bắt huynh?”
Người kia chần chừ một lát mới nói: “Tiểu nhân là Vương Nhị, là người thôn La Lĩnh ngoại thành Dương Châu, mấy quan binh kia muốn bắt tôi là vì… tôi buôn muối lậu.”
“Ồ?” Tô Sầm nhướng mày đầy hứng thú.
Ban đầu cậu chỉ nghĩ người này lén lút ắt có vấn đề, nhưng cũng không có bản lĩnh vừa nhìn đã biết là người buôn muối lậu, chẳng qua khi nhìn theo mép tường gã chạy mới phát hiện có vài hạt muối thô bị rơi lại.
“Huynh có biết buôn muối lậu là tội chết không, theo luật Đại Chu là bị xử chém ngay giữa phố đấy.”
Vương Nhị lập tức trượt khỏi ghế, quỳ xuống đất: “Công tử, công tử tha mạng. Tiểu nhân cũng chỉ bất đắc dĩ thôi, tiểu nhân có mẹ già tám mươi, có con nhỏ ba tuổi, cả gia đình đều đang đợi chút bạc này của ta để sống qua ngày!”
Tô Sầm phất tay: “Nếu đã cứu rồi không lý nào tôi lại đưa huynh về đó, huynh không cần sợ. Huynh nói huynh bất đắc dĩ, chẳng lẽ trong nhà không có ruộng đất gì hay sao? Sao lại phải mạo hiểm tính mạng làm việc này?”
Khúc Linh Nhi dìu Vương Nhị lên ghế, song gã cũng không dám ngồi hẳn, chỉ chực quỳ xuống bất cứ lúc nào, gã dè dặt nói: “Thấy công tử không giống người Dương Châu, e là không biết tình hình ở đây, tôi cũng không giấu công tử, nhà tôi xưa cũng có một mẫu ba phân, chẳng qua… giờ đều bị lừa cả rồi.”
Tô Sầm nhíu mày: “Sao lại như vậy?”
Vương Nhị nói: “Thôn La Lĩnh chúng ta vốn là nơi ruộng nương trù phú, nhưng năm trước đại hạn, sau đó lại thêm nạn châu chấu, khi sắp không nộp nổi thuế má nữa thì phú hào trong thành mới bảo chúng ta bán ruộng cho chúng, chúng nộp thuế ruộng cho chúng ta, sau này không cần chúng ta lo chuyện thuế má. Chúng nói chúng thuê chúng ta làm tá điền, chúng ta lo liệu ruộng vườn giúp chúng, bất kể lỗ lãi thế nào chúng đều trả công hằng tháng.”
Tô Sầm hỏi: “Họ nuốt lời sao?”
Vương Nhị thở dài, nói tiếp: “Mấy tháng đầu đúng là có trả công, thôn dân thấy có tiền đều bán đất cho chúng. Đến khi tất cả mọi người hết đất rồi chúng mới trở mặt, không trả tiền công tháng cho chúng tôi nữa, mà cũng chả trả đất luôn.”
“Không ai báo quan sao?”
Vương Nhị lắc đầu: “Sao lại không chứ? Nhưng đám phú hào đó đã bắt tay với quan phủ từ lâu, khế ruộng của chúng tôi nằm trong tay chúng, quan phủ nhắm một mắt mở một mắt, chúng tôi cũng hết cách.”
“Đúng là gian thương tham quan.” Khúc Linh Nhi tức tối giậm chân: “Quan lại với thương buôn chẳng có ai tốt hết!”
Tô Sầm khẽ ho một tiếng, nhìn Khúc Linh Nhi, làm quan với thương buôn cậu đều chiếm cả, thế chẳng phải tội ác tày trời hay sao?
Khúc Linh Nhi vội nói: “Tô… Công tử, em không nói công tử mà!”
Tô Sầm lắc đầu, hỏi tiếp: “Phú hào chiếm ruộng các huynh là ai?”
Vương Nhị nói: “Là thương buôn muối lớn nhất thành Dương Châu chúng tôi, họ Uông với họ Giả.”
Tô Sầm sửng sốt, hơi ngẩng đầu.
Đúng là chẳng mất chút sức nào đã đến.
“Vậy nên huynh bán muối lậu trả thù họ sao?”
“Phải… mà cũng không phải.” Vương Nhị buồn bã lắc đầu: “Đâu đến lượt chúng tôi trả thù chứ, chúng tôi cũng chỉ bị miếng ăn dồn tới bước này, công tử không biết chúng bán giá muối cao thế nào đâu, một cân muối năm Nguyên Thuận Nguyên niên có giá tám mươi tư văn, giờ một cân muối chúng có thể bán tận hơn hai trăm năm mươi văn kìa!”
“Hơn hai trăm năm mươi văn?!” Tô Sầm không khỏi kinh ngạc, phải biết chi tiêu một tháng của một hộ dân bình thường cũng chỉ chừng một lượng bạc, một cân muối đã chiếm hết phần tư, nói cách khác, một cân muối bây giờ có thể đổi được hai đấu gạo ngoài chợ, đủ cho một hộ bình thường ăn hai tháng.
“Vô pháp vô thiên.” Tô Sầm vỗ bàn: “Quan phủ mà lại mặc cho chúng nâng giá trên trời như vậy!”
“Đâu chỉ có vậy, quan phủ còn giúp đám buôn muối quan dẹp người buôn lậu, bắt về được thì đánh cho tơi bời, nhà ai trả được tiền chuộc thì nhặt được về cái mạng, nhỡ mà nghèo không có tiền chuộc thì chỉ có nước chết trong lao thôi.”
Khúc Linh Nhi lại định nổi nóng, Tô Sầm lại lắc đầu với y. Hiện giờ họ chỉ có thể âm thầm đối phó chuyện này, bán muối lậu vốn là phạm pháp, quan phủ làm vậy quả không có gì chê trách.
Chẳng qua cấu kết với gian thương vụ lợi thì không thể nhẫn nhịn.
“Nếu gặp Phong đại nhân còn đỡ, chỉ răn dạy chúng tôi vài câu rồi cũng âm thầm thả đi, phải người khác e là chẳng còn đường sống.”
“Phong đại nhân?” Tô Sầm ngẩng đầu: “Phong đại nhân nào?”
Vương Nhị giải thích: “Công tử không biết đấy thôi, Phong đại nhân là Trưởng sử thành Dương Châu chúng tôi, là một vị quan tốt, tiếc là lại bị phân đến Dương Châu,…”
Phong Nhất Minh… Tô Sầm híp mắt, xem ra hình tượng của Phong Nhất Minh trong lòng người dân Dương Châu cũng không tệ.
Tô Sầm hỏi thêm về tình hình muối quan và nguồn gốc muối tư, đến khi hỏi xong đã sắp giữa trưa.
Lúc này cậu đã hiểu được phần nào tình hình cơ bản ở Dương Châu. Hai hộ muối quan lớn nhất Dương Châu lần lượt là hai nhà Uông và Giả, nhà họ Uông có hai cô con gái, sau lại có thêm con rể vào ở rể, Uông lão gia giao hết gia nghiệp cho con rể xử lý, bây giờ quyền quyết định đang nằm trong tay vị con rể này. Bên họ Giả tuy có con trai nhưng lại là kẻ phong lưu đi3m đàng, ngày nào cũng quyến luyến chốn trăng hoa, thích gây chuyện, nên dù Giả lão gia đã cả mớ tuổi vẫn phải tự lo liệu chuyện gia nghiệp.
Còn về nguồn gốc muối lậu thì Vương Nhị không nói rõ, chỉ bảo trên họ có người khác, họ chỉ cần lấy muối về bán cho các hộ là được, còn người trên kia có muối bằng cách nào thì gã không biết. Tô Sầm cũng biết gã sợ mình không rõ lai lịch, muốn moi tin từ gã nên cũng không hỏi thêm, cho gã ít tiền rồi bảo Kỳ Lâm đưa người về.
Bữa trưa được người bên Thiên Hạ Lâu đem tới, thức ăn Dương Châu chính tông vẫn mang một hương vị rất riêng. Sau bữa trưa, Kỳ Lâm và Khúc Linh Nhi tự về phòng mình, còn Tô Sầm vùi mình trong phòng cả buổi chiều không biết suy tính chuyện gì. Đến khi sương đêm bàng bạc, Tô Sầm mới đi ra, nói với Kỳ Lâm: “Nhờ Kỳ thị vệ đi mời một người giúp ta.”
Bình luận truyện