Truy Tìm Bức Tranh Thánh
Chương 15
Chiều hôm ấy khi Adam quay lại khách sạn nước Pháp có lẽ không mấy ai nhận ra người đàn ông rón rén bước vào khách sạn một giờ trước đó.
Anh mặc áo sơ mi mới, quần mới, cà vạt và áo gió đúng mốt nhất nước Anh ít nhất là trong một năm nữa. Thậm chí chiếc áo khoác đi mưa cũng bị thải vì bức tranh Thánh đã nằm gọn trong túi trong của chiếc áo gió. Hình như tiệm quần áo đổi tiền cho tấm séc du lịch của anh với giá khá rẻ mạt nhưng điều đó không làm anh bận tâm mấy.
Adam đặt một phòng đơn cho mình theo tên của Dudley Hulme, mấy phút sau anh đã ở trong thang máy để đi lên tầng ba.
Thậm chí điện thoại réo chưa đến tiếng chuông thứ hai Lawrence đã nhấc máy.
Adam nói:
-Tớ đây.
Lawrence hỏi ngay:
-Cậu đang ở đâu?
Adam nói:
-Tớ phải hỏi cậu trước.
Lawrence nói:
-Tớ hiểu cậu nghĩ gì, nhưng...
-Không nhưng gì cả. Bây giờ cậu phải hiểu rằng có kẻ nào đó trong số những người cậu gọi là nhóm công tác ấy có liên hệ trực tiếp với Romanov, bởi vì chính Romanov và đồng bọn của hắn là người đứng đón tớ ở khách sạn đó chứ không phải là người của cậu.
-Hiện nay chúng tớ đã biết điều đó.
Adam:
-Chúng tớ ư? "Chúng tớ"đó là những ai? Bởi vì lúc này tớ đang khó mà hiểu nổi ai đang đứng vềphía mình.
-Cậu đừng tin rằng...
-Bao giờ cậu nhìn thấy bạn gái mình bị giết, bao giờ cậu bị một kẻ giết người chuyên nghiệp săn đuổi khắp châu Âu, bị bắn và bị...
-Bị bắn?
-Phải, hôm nay anh bạn Romanov của cậu đã nã đạn vào tớ. Lần sau tớ sẽ quay người kiểu khác để đạn không trúng vào vai.
Lawrence nói:
-Không thể có lần sau nữa. Bởi vì chỉ cần cậu cho tớ biết cậu đang ở đâu tớ sẽ đưa cậu về an toàn.
Trong óc anh bỗng vang lên những lời của Robin "Anh cần phải cân nhắc xem nên cho anh ta biết đến đâu", khiến Adam khựng lại không nói cho Lawrence biết đích xác mình đang ở đâu.
-Adam, vì Chúa, tùy cậu thôi. Nếu không tin tớ thì cậu sẽ tin ai? Tớ thừa nhận là mọi việc có vẻ như bọn tớ bỏ rơi cậu. Nhưng chuyện đó sẽ không lặp lại nữa.
Một hồi lâu im lặng, sau đó Adam nói:
-Tớ đang ở Dijon.
-Sao lại ở Dijon?
-Bởi vì người duy nhất cho tớ đi nhờ lại đang đi dự một hội nghị về mù tạt ởDijon.
Lawrence không khỏi mỉm cười:
-Hãy cho tớ điện thoại, tớ sẽ gọi lại cậu trong vòng một giờ.
Adam nói:
-Không, tớ sẽ gọi lại cho cậu sau một giờ.
-Adam, cậu cần phải tỏ ra tin tớ một tý chứ.
-Không phải bây giờ tớ mới biết cậu đang cần cái gì. Tớ không thể tin bất cứ ai cả.
Adam đặt ống nghe xuống và nhìn vào bức tranh Thánh mở dưới sàn. Điều anh lo lắng không phải chữ ký của Stoeckle hay Seward. Điều sinh tử chính là ngày tháng ghi trên đó - 20 Tháng Sáu năm 1966.
Khi viên công chức cao cấp rời Century House, người gác cổng hỏi:
-Tam biệt, thưa người. Lại một đêm nữa làm việc tận đến khuya ư?
Lão nhận câu chào của người gác cổng bằng cách giơchiếc dùlên cao hơn một tý.Đúng là lại một đêm nữa làm việc đến tận khuya, nhưng ít nhất lão cũng đã lần lại được dấu vết Scott. Lão bắt đầu thật sự kính phục anh ta. Nhưng tại sao người ta lại không tóm được Scott ở Geneva vẫn là điều phải lý giải nhiều hơn so với những thông tin được Lawrence cung cấp chiều nay.
Lão đứng trên thềm gạch về phía đường Old Kent, nổi bật trong chiếc áo khoác đen và chiếc quần kẻ sọc, sốt ruột gõ cán dùcho đến khi vẫy được một chiếc taxi.
-Hiệu sách Dillon, phố Mallet.
Lão nói với người lái xe trước khi chui vào ghế sau. Đã bảy rưỡi nhưng vẫn chưa muộn quá và mấy phút nữa cũng chẳng khiến mọi chuyện khác đi nhiều lắm. Pemberton đã đồng ý ngồi trực ở bàn cho đến khi nào chắp nối được những đầu mối bị lỏng lẻo và chắc chắn lần này sẽ không còn gì sai sót nữa. Lão tự cho phép mình nhăn nhúm mỉm cười khi nghĩ lại chuyện tất cả đã chấp nhận phương án lão đưa ra... Thật là lợi cả đôi đường vì đảm bảo sẽ đủ giờ để bố trí những người giỏi nhất vào vị trí và trong khi đó vẫn giấu kín được Scott khỏi mọi con mắt. Hy vọng đây là lần cuối cùng họ sẽ chờ đợi lão tiến hành đúng như phương án nguyên thủy đã đề xuất.
Người lái xe cho xe đỗ trước cửa nhà Dillon và nói:
-Tám shilling, thưa sếp.
Lão đưa tiền cho anh ta và cho thêm một đồng sáu penny rồi đứng nhìn lên cửa sổ của hiệu sách trường đại học, chờ cho chiếc taxi chạy đi. Lúc chiếc taxi đã rẽ sang đường Cower lão mới bắt đầu bước đi. Mấy giây sau đến một đường phố nhánh lão mới rẽ sang đó. Ridgmount Gardens là một phố nhỏ mà ngay đến các tay lái xe taxi ở London cũng phải nghĩ một lúc mới ra. Lão đi tiếp mấy mét nữa rồi biến mất vào cầu thang dẫn xuống một tầng hầm. Lão tra chìa khóa vào một chiếc ổ khóa hiệu Yale quay một vòng rồi bước vào đóng cửa lại.
Trong hai mươi phút sau đó lão gọi hai cú điện thoại, một quốc tế và một nội địa. Sau đó tắm một cái. Không đầy hai giờ sau lão đã bước ra khỏi phố Ridgmount Gardens trong bộ comple màu nâu, tóc rẽ ngôi ngược lại lúc nãy. Lão đi bộ quay lại nhà Dillon và vẫy một chiếc taxi khác.
Vừa trèo vào taxi lão vừa bảo người lái xe:
-Bảo tàng Bristish.
Lão nhìn đồng hồ. Gần tám giờ mười. Lúc này ắt Scott đã chuẩn bị sẵn sàng mặc dầu người của lão cũng đã trên đường trở lại Dijon bởi vì kế hoạch là cho phép chậm lại hai giờ.
Chiếc taxi đỗ lại trước bảo tàng Bristish. Lão trả tiền rồi bước mười hai bậc lên thềm nhà Bảo tàng, chiêm ngưỡng kiến trúc Byzantine như tuần nào lão cũng làm trước khi bước xuống và gọi một chiếc taxi khác.
-Bệnh viện.
Chiếc taxi quay một vòng cua chữ U rồi chạy về hướng tây.
Thằng con hoang khốn kiếp. Nếu như Scott đừng có mở cái phong bì ấy ra thì bức tranh Thánh đã trở về với bàn tay người chủ chính đáng của nó.
Người lái xe hỏi"
-Tôi cho xe lên cửa chính chứ?
-Phải.
Mấy giây sau lão đã sải bước đi thẳng vào bệnh viện rồi đứng nhìn tấm bảng trên tường làm như đang tìm vào khoa nào đó. Bao giờ lão cũng chỉ mất ba phút để đi từ Bệnh viện Middlesex đến phố Charlotte. Tới nói lão đứng ngoài cửa và bấm nút máy đàm thoại nội bộ.
Một giọng vang lên nghi ngờ:
-Ông có phải thành viên không?
-Phải.
Trong lúc đó Adam gọi điện và cẩn thận lắng nghe từng lời của Lawrence.
Adam nói:
-Tớ sẽ liều một lần nữa. Nhưng nếu lần này lại là Romanov thì tớ sẽ đưa bức tranh Thánh cho hắn với danh nghĩa cá nhân, cùng với nó sẽ là một mẩu giấy về đất đai mà người Mỹ có trả bao nhiêu tiền cũng không mua lại được.
Khi Adam đặt ống nghe xuống Lawrence cùng với Sir Morris tua đi tua lại đoạn băng để nghe.
Sir Morris nói:
-Tôi cho rằng chìa khóa là ở chữ"giấy tờ về đất đai".
Lawrence nói:
-Tôi tán thành điều đó. Nhưng đất đai nào có thể có giá trị đến thế đối với cả Mỹ lẫn Nga?
Sir Morris bắt đầu chậm rãi quay quả địa cầu bên cạnh bàn làm việc.
Romanov hỏi:
-Tiếng vo vo ấy có nghĩa là gì? Không lại hết nhiên liệu lần nữa?
Người lái xe nói:
-Không, đó là thiết bị gọi kiểu mới. Điều đó có nghĩa là họ chờ tôi về cất xe.
Romanov khẽ nói:
-Quay lại chỗ trạm xăng vừa đi qua cách đây vài dặm.
Romanov lại bắt đầu sốt ruột nhìn bảng đồng hồ mong nhìn thấy cái trạm xăng hiện ra phía chân trời. Mặt trời đang lặn rất nhanh, hắn sợ rằng chỉ một tiếng nữa thôi trời sẽ tối sập xuống. Họ đã đi qua Dijon khoảng chín mươi kilomet, suốt dọc đường cả hắn lẫn Valcheck đều không thấy bóng dáng chiếc Citroen màu vàng đâu.
Vừa thấy trạm xăng, Romanov nói với người lái xe:
-Đổ xăng cho đầy, trong khi tôi gọi cho Geneva.
Hắn chạy đến trạm điện thoại trong khi Valcheck vẫn kiểm tra mọi chiếc xe đi ngang qua.
Điện thoại được nối:
-Chúng tôi vừa nhận được một cú điện thoại nữa của Mentor. Thiếu tá cách Dijon bao xa?
Các thành viên câu lạc bộ ngồi túm tụm trong căn phòng tối mờ mờ, lão bước qua căn phòng tới chiếc bàn không có ai ngồi kê sát cột nhà trong góc. Lão ngồi xuống chiếc ghế da bên cạnh bàn rồi hốt hoảng nhìn quanh, bao giờ lão làm cũng như vậy trong khi người ta bưng đến cho lão ly whisky malt như thường lệ. Khi ly rượu đã được bưng đến đặt trước mặt, lão nhấm nháp và nhìn quanh xem có khuôn mặt lạ nào trong căn phòng tối om này không. Không dễ chút nào vì lão không muốn lấy kính ra đeo lên. Cuối cùng mắt lão đã quen với thứ ánh sáng mờ mờ hắt ra từ ngọn đèn fluo đỏ treo trên quầy bar. Và lão chỉ nhận ra toàn khuôn mặt quen thuộc đang nhìn mình đầy hy vọng. Nhưng lão chờ đợi một cái gì đó mới mẻ hơn kia.
Ông chủ quán tiến đến gần và thì thào:
-Có một tay khá ngon lành cho ông.
-Ai vậy?
Lão ngẩng lên nhìn những khuôn mặt trong quán rượu một lần nữa.
Ông chủ quán nói:
-Đang cúi xuống chiếc máy hát tự động trong góc đàng kia kìa.
Lão nhìn về phía cái máy hát. Một khuôn mặt tươi cười đang mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười đáp lại.
Người chủ quán hỏi:
-Tôi làm như vậy có đúng không?
Lão chỉ hỏi gọn lỏn:
-Có an toàn không đấy?
-Không vấn đề gì đâu. Một anh chàng trung lưu, vừa mới tốt nghiệp đại học. Hắn chỉ muốn kiếm ít tiền bỏ túi thôi.
Lão nhấp một ngụm whisky.
Ông chủ quán đi về phía cái máy hát. Lão nhìn ông ta nói chuyện với chàng thanh niên. Anh ta uống cạn cốc của mình, lưỡng lự một tí rồi đi thẳng qua căn phòng đông đúc để đến chỗ lão.
Chàng thanh niên nói:
-Tôi tên là Piers.
Lão đáp:
-Còn tôi là Jeremy.
Piers nói:
-Một cái tên hay.Bao giờ tôi cũng rất thích cái tên Jeremy.
-Uống chút gì chứ?
Piers nói:
-Vâng, cho tôi xin một Martini nguyên chất.
Lão gọi một ly Martini nguyên chất và một Whisky malt nữa. Người bồi bàn vội vã quay đi. Lão nói:
-Tôi chưa nhìn thấy anh ở đây bao giờ.
-Không, đây mới là lần thứ hai tôi đến đây. Tôi đã từng làm việc ở Soho nhưng sau đó mọi sự thô thiển quá. Không bao giờ biết được là mình sẽ gặp ai.
Bồi bàn đem rượu đến và viên công chức cao cấp nhấp một ngụm lớn.
Piers hỏi:
-Ngài cómuốn nhảy một chút không?
Giọng nóiở đàng kia đầu dây:
-Việc này rất khẩn cấp. Anh cóghi âm không đấy?
-Tôi vẫn đang nghe đây.
-Nam cực hiện đang ởDijon vàhắnđã phát hiện ra trong bức trang Thánh có cái gì.
-Hắn có cho bọn họ manh mối nào không?
-Không. Hắn chỉ nói với Pemberton làhắnđang giữmột mẩu giấy tờ về đất đai vô cùng quan trọng mà dùcho chúng ta cótrảđến bao nhiêu tiền cũng không thể mua lại được.
Giọng kia nói:
-Quả thật là vậy.
Người gọi nói:
-Người Anh nghĩ rằng chìa khóa là ở chữ "giấy tờ về đất đai".
Giọng nói ở đầu kia đáp:
-Họ nhầm rồi. Quan trọng là chữ "mua lại"kia.
-Sao anh lại chắc chắn như vậy?
-Bởi vìĐại Sứ Nga ởWashington đã yêu cầuđược gặp tổng thống vào ngày hai mươi tháng Bảy vàông ta sẽđem đến mộtđống vàng trịgiábảy trăm triệu đô la vàng.
-Vậy chúng ta đang đứng ởchỗnào?
-Đang trênđường đến Dijon, nhưvậy chúng ta sẽcóthể đặt tay lên bức tranh Thánh đó trước cả người Nga lẫn người Anh. Rõ ràng là người Nga cảm thấy tự tin là chẳng mấy lúc sẽ chiếm được bức tranh, vì thế tôi cuộc là lúc này họ cũng đang trên đường đến Dijon.
-Nhưng tôiđã đồng ýlàm theo kếhoạch của người Anh.
-Trung tá, chớquên làông đang làm việc cho bên nào.
-Vâng, thưa ngài. Nhưng chúng ta sẽxửlýnhưthếnào với Nam Cực một khi đã chiếmđược bức tranh Thánh.
-Chúng ta chỉđeo đuổi bức tranh Thánh thôi. Một khi nóđã làcủa chúng ta thìNam cực cóthểcho qua cũng được.
Adam nhìnđồng hồ: Bảy giờhơn mấy phút.
Đãđến lúc phải đi, bởi vì anh đã quyết định không làm theo những lời chỉ dẫn của Lawrence định sẽ chờ chúng đến, không như kế hoạch của Lawrence. Anh khóa cửa buồng ngủ và quay lại bàn lễ tân trả tiền phòng và tiền điện thoại.
-Cámơn.
Anh nói với côlễ tân vàđịnh quay đi.
-Chào anh.
Adam lạnh toát cả người.
Tiếng nói lại cất lên oang oang:
-Dudley. Gần nhưkhông thểnào nhận ra anh được nữa. Đã thay đổi ý định rồiư?
Một bạn tay đập mạnh lên vai Adam -ít nhất thìcũng không phải là vai trái. Adam tròn mắt nhận ra Jim Hardcastle.
Adam nói, lòng thầm ước mình cótài biến báo nhưcha của Robin.
-Không. Tôi nghĩlà ởthành phốnày người ta đã nhận ra tôi cho nên tôi chỉthay đổi quầnáo vànáu kín trong mấy giờthôi.
Jim nói:
-Vậy thìtại sao lại không đến dựtiệc với những nhàlàm mù tạt chúng tôi? Ởđó sẽkhông ai tìm thấy anh.
Adam nói:
-Ước gìtôi có thểlàm nhưvậy. Nhưng tôi không dám chậm trễ thêm chút nào nữa.
Jim tỏvẻthông cảm:
-Tôi cóthểlàm gìcho anh không?
-Không, tôi phảiđến... Tôi cómột cái hẹn ngay ởngoạiôthành phốnày vàtôi phảiđến đó trong vòng một giờnữa.
Jim nói:
-Giánhưtôi có thểtựmình đưa anh tớiđóđược. Tôi muốn làm tất cảnhững gìcóthể đượcđể giúp một người lính, nhưng hôm nay thì kẹt thật sự- cólẽsuốtđêm mất.
-Jim, đừng bận tâm làm gì. Sẽổn cảthôi.
Linda đã từlâu đến đứng cạnh bốvàlắng nghe chăm chú:
-Bố, con cóthể đưa anh ấyđiđược.
Cảhai quay phắt lại nhìn Linda. Cômặc một chiếcáo dài bằng lụa màuđen bóchặt lấy người, cổtrễ hết mức vàngắn hết mức, mái tóc vừa gội đổ xuống vai. Côbéngước mắt lênđầy hy vọng.
-Con vừa mới lấy được bằng lái xe xong, đừng cókhùng thế.
Côbéđáp ngay:
-Cóbao giờcó một việc gìđấy đáng làm làbốlại coi con nhưtrẻcon.
Jim lưỡng lự:
-Chỗhẹn của anh cóxa không?
Adam nói:
-Chỉnăm phút đi xe. Cólẽnăm sáu dặm gìđấy. Nhưng không sao đâu, tôi cóthểđi taxi rất dễmà.
-Con gái nóiđúng đấy -Jim nói vàlấy chìa khóa xe trong túi áo ra, quay lại Linda dặn thêm: -Nhưng nếu con mànói với mẹthìbốsẽgiếtđấy.
Jim bắt tay Adam và lắc thật mạnh.
-Nhưng không sao đâu mà...
-Anh bạn, tôi không muốn nghe nhưthếđâu.Chớbao giờquên rằng chúng ta cùng chiến tuyến. Chúc may mắn nhé.
Adam miễn cưỡng đáp:
-Cámơnông rất nhiều.
Jim giục:
-Con gái, tốt nhất là con hãyđi trước khi mẹcon quay lại.
Linda sung sướng nắm tay Adam vàkéo anh ra bãiđỗ xe.
Khi hai người đã ngồi trong xe côhỏi:
-Đi hướng nàoạ?
Adam nhìn xuống mẩu giấy ghi những lời chỉdẫn cảu Lawrence:
-Đường Auxerre.
Linda cho xe chạy chậm chậm, hình nhưthoạt tiên không tin chắc vào chiếc xe lắm, nhưng khi ra đến ngoạiôAdam bảo cô nênđi nhanh lên một chút. Côgáiđặt tay lênđầu gối Adam vànói:
-Em hồi hộp quá.
Adam vội vắt chéo hai chân:
-Quảvậy, tôi nhận thấy côđang hồi hộp. Nhớrẽsang trái -anh nhắc khi nhìn thấy tấm biển chỉrẽ sang trái.
Linda cho xe rời khỏi đường cáiđể rẽvào mộtđường làng nhỏhơn khi Adam chăm chútìm ngôi nhà nhưLawrence đã tả. Họphải chạy tiếp hai dặm nữa mới thấy ngôi nhàhiện ra.
Adam nói:
-Cho xe tránh sang bên đường. Vàtắtđèn đi.
Linda phanh xe lại và khấp khởi nói:
-Cuối cùng thìcũng...
Adam nói vànắm tay nắm cửa:
-Cảmơn côrất nhiều.
Linda hỏi:
-Em liều mình chỉ để thếthôi sao?
-Tôi không muốn cô đi dựtiệc quátrễ.
-Bữa tiệcấy sẽ chỉvui đến nhưmột cuộc khiêu vũcủa những thanh niênĐảng Bảo Thủlàcùng thôi mà.
-Nhưng mẹcô sẽlo lắng đấy.
-Dudley, anh thật quá nghiêm chỉnh đấy.
-Hiện nay tôiđang ởvào một hoàn cảnh không bình thường, nhưng nếu côởlạiđây lâu hơn nữa thìsẽ nguy hiểm cho côđấy.
Mặt Linda xám ngoét:
-Anh không nóiđùa đấy chứ?
Adam nói:
-Ước gìtôi không nóiđùa. Côcần phải quay lại, vềkhách sạn ngay vàkhông bao giờđượcđể lộ câu chuyện này với bất cứai, đặc biệt là mẹcô.
Linda nói, lầnđầu tiên tỏra hoảng hốt thật sự:
-Vâng. Em sẽlàm như vậy.
Adam nói:
-Côlàmột cô gái kỳdiệu.
Anh quành tay ôm và tặng co một cái hôn dài nhất, nồng nàn nhất màcô chưa từng biết. Sau đó Adam ròi khỏi xe nhìn côlóng ngóng mãi mới quay được xe rồi chạy vềphía Dijon.
Adam nhìnđồng hồ: vẫn còn một tiếng rưỡi nữa mớiđến giờ hẹn vàlúcđó chắc chắn trờiđã tối mịt. Anh loạng choạng đi vềphía sân bay vànhìn những ngôi nhàcháy xém dọc hai bênđường. Dường như đây là một thành phố ma và Adam tin chắc chưa có một ai ở đấy bởi vì họ chưa thể đủ thì giờ triển khai kế hoạch của Lawrence.
Nhìn sang bên kia đường băng Adam phát hiện ra một chỗlýtưởng để trốn trong khi chờđợi để xem cai nào trong hai kế hoạch anh đã chuẩn bịsẽtrởthành cần thiết.
Trung úy phi công Alan Banks tạơn Chúa vìđêm hômđó trăng sáng vằng vặc. Anh đã từng hạcánh chiếc Beaver nhỏtrở đầy lính chiến trong những điều kiện xấu hơn thế này, nhiều khi màđường băng chỉđược soi sáng mờmờnhưmặt biển Hắc hải.
Banks lượn vòng theo chu vi sân bay vànghiên cứu cẩn thận hai đường băng. Đã lâu lắm sân bay này không hoạtđộng, do đó không hềcómột dịch vụdẫnđường nào kểcảbảnđồ chi tiết mặtđất.
Viên trung úy phi công phá vỡmọiđiều luật học trong sách giáo khoa, kể cảviệc tìm cách hạxuống một sân bay vô danh trong khi đã báo với người Pháp làsẽđỗ xuống Paris. Chẳng dễgìmàgiải thích được việc bay chệch khỏi một sân bay đến hàng trăm dặm.
Banks quay lại nói với viênđại úyđang ngồi xổmđằng sau cùng với năm người nữa:
-Nếu hạxuống đường băng phíađông nam thìdễdàng hơn. Ông muốn đến gần hangar ởđâu -anh chỉtay ra ngoài cửa sổ.
Viênđại úy đáp:
-Đỗ chỗnào thật dễnhìn, ít nhất làcách hai trăm mét. Chưa biết được cái gìsẽchờđón chúng ta.
Cảsáu lính cơ động (SAS) tiếp tục nhìn kỹphía ngoài cửa sổ. Họchỉnhậnđược mệnh lệnh ngắn gọn làđón một người Anh đơn độc cótên là Scott hiệnđang chờởđây sau đó cất cánh thật nhanh. Điềuđó nghe cóvẻthật dễ dàng, nhưng chắc chắn làchẳng hềdễdàng nhưvậy, nếu không họđã chẳng đượcđiều đến.
Viên phi công cho chiếc Bearver vòng sang hướng nam vàbắtđầu chúc mũi xuống đất. Anh mỉm cười nhận ra một chiếc Spitfire cháy xém bịbỏlại bênđường băng. Giống hệt nhưchiếc máy bay của cha anh vẫn dùng hồi chiến tranh thếgiới thứhai, nhưng rõràng làcái này chẳng bao giờvềđược tới nhà. Anh hạ độ cao một cách vững vàng vàkhi cái máy bay nhỏ chạmđất nónảy bật lên, không phải vì phi công thiếu kinh nghiệm màlàvìmặt đất lòi lõm một cách khủng khiếp.
Trung úy phi công Banks cho máy bay dừng lại cách hangar khoảng hai trăm mét sau đó quay hẳn một vòng để viênđại úy cóthể quan sátđược thật nhanh bốn phía. Anh nhấn nút tắt động cơ cánh quạt và tắt đèn. Tiếng cánh quạt vù vù nhỏ dần thành chỉ còn tiếng vo ve nho nhỏ. Họ đến sớm bốn mươi phút.
Cách đó bốn trăm mét, nấp trong buồng lái của chiếc Spitfire, Adam nghi ngờ nhìn những kẻmớiđến. Anh không thểchạy tới chiếc máy bay trên mặtđất trơtrụi dưới ánh trăng quásáng thếnày. Mắt anh dán chặt vào chiếc máy bay không dấu hiệu vàchờxem trên đó cónhững ai. Phảiít nhất mười lăm phút nữa mặt trăng mới cóthểbịđám mây che khuất. Mấy phút nữa trôi qua, Adam nhìn thấy sáu người nhảy ra khỏi cửa thân máy bay vànằm bẹp trên mặt đường bêtông. Họmặcđúng những bộ quầnáo lính cơđộng nhưng Adam chưa thể tin được vìanh vẫn còn nhớrành rành hình ảnh Romanov trong bộquầnáo lái xe. Cảsáu người lính nằm im không nhúc nhích. Adam cũng nằm yên như vậy trong khi chưa xácđịnh đó làngười của bên nào.
Cảsáu người lính nằm trên mặtđất đều ghétánh sáng trăng cũng nhưmặtđất trống trải. Viênđại úy nhìn đồng hồ: còn ba mươi sáu phút nữa. Anh ta giơhiệu vàhọbắtđầu bòvềphía hangar, nơi Pemberton nói làScot sẽchờởđó. Họsẽphải bòkhoảng hai mươi phút mới qua được quãng cách này, mỗi lúc càng tin chắc rằng lời cảnh cáo của Pemberton về một kẻ thù rình rập đâu đó là không đúng.
Cuối cùng mộtđám mây lớn che khuất mặt trăng khiến cảvùng sân bay tối sầm. Viênđại úy lính cơđộng nhìn đồng hồ: năm phút nữa thìđến giờhẹn. Anh ta làngười đầu tiên chạm tay vào cửa hangar đẩy ra vàoằnngười há hốc miệng. Viên đạn ghim đúng giữa trán trước cả khi anh ta kịp sờ vào khẩu súng.
Người thứhai hét lên ra lệnh:
-Chạyđi.
Bốn người kia bật dậy trong chớp mắt, lia súng quét thành một vòng cung phía trước vàchạyđến ẩn vào ngôi nhà.
Vừa nghe thấy tiếng hét Adam bèn nhảy ra khỏi buồng lái của chiếc Spitfire và lao qua quãng đường bêtông vềphía chiếc máy bay nhỏđã khởiđộng sẵn cánh quạt chờ cất cánh. Anh nhảy lên cánh vàleo vào bên cạnh viên phi công đang kinh ngạc, anh hét lên:
-Tôi làAdam Scott, người các anh cầnđón.
Người phi công chìa tay ra bắt:
-Tôi làtrung úy phi công Alan Banks, anh bạn.
Adam nhận ra mọi sự thật kinh hãi vàthầm nghĩ: chỉmột sĩquan Anh mới bắt tay nổi trong một tình huống nhưthế này.
Cảhai quay lại nhìn trận chiến.
Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi ngay thôi. Tôiđược lệnh đem anh vềAnh nguyên vẹn.
-Không thểvề được, một khi chưa chắc chắn làsẽkhông ai trởvềnữa.
-Xin lỗi, anh bạn. Tôi được lệnh làcứu anh. Còn những người kia được lệnh tựlo lấy cho mình.
Adam nói:
-Chờhọmột phút nữa thôi.
Họtiếp tục chờ cho đến khi cánh quạt quay títđạt tốcđộ cực đại. Đột nhiên tiếng súng ngừng bặt. Adam nghe rõ cảtiếng tim mình đập thùm thụp trong lồng ngực. Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi thôi.
Adam đáp:
-Tôi biết. Nhưng tôi cần phải biết thêm mộtđiều nữađã.
Nhưng cơn ác mộng kinh hoàng khiến cho Adam phát hiện ra hắn trước khi viên phi công nhìn thấy. Anh nói:
-Đi thôi.
Viên phi công hỏi:
-Gìcơ?
-Đi thôi.
Anh ta đẩy cần lái về phía trước, chiếc máy bay bắtđầu chậm chạp chạy dọcđường băng mấp mô.
Đột nhiên một bóng đen chạy theo xả súng bắn vào họ.Viên phi công quay lại nhìn và chỉ thấy bóng một người rất cao với mái tóc bạch kim sáng lên trong ánh trăng.
Adam nói:
-Nhanh lên, ông bạn. Nhanh lên.
Viên phi công nói:
-Hết cỡrồi.
Đạn nhả xối xả, lần này những viên đạn ghim vào bụng máy bay. Một tiếng nổ thứ ba phát ra, nhưng lúc này máy bay đã chạy nhanh hơn người kia. Adam thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng chiếc máy bay rời khỏi mặt đất.
Anh quay nhìn lại và thấy Romanov đang xảsúng bắn vào một người nào đó không mặc quầnáo lính SAS.
Trung úy phi công Banks nói:
-Bây giờhọa chúng cóbazoka mới bắn trúng được chúng ta.
Adam quay lại:
-Cừlắm. Cừ lắm.
Viên phi công cười vang:
-Vàcứnghĩ đến vợtôiđang chờtôi vềnhà tối nay đểđi xem phim.
Adam hỏi:
-Vậy anh sẽxem phim gì?
-Người đàn bà kiều diễm của tôi.
Trung úy phi công Alan Banks nhìn ra ngoài khuôn cửa sổnhỏhẹp trong khi chiếc máy bay bay lên một cách vững vàng.
Adam hỏi, cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập khắp người:
-Bây giờchúng ta điđâu?
-Tôiđã hy vọng là chúng ta cóthểvềđến Anh, nhưng lúc này e rằng chỉcóthểcốbay càng xa càng tốt màthôi.
Adam lo lắng hỏi:
-Anh nói thếnghĩa làthếnào?
Alan Banks trỏngón tay vào cây kim nhỏmàu trắng đang chỉgần điểm báo hết nhiên liệu.
-Chúng ta cònđủ xăng để vềđến Northolt nếu những viênđạn này không chọc thủng bình xăng.
Trong khi Adam nhìn thì chiếc kim nhỏmàu trắng tiếp tục xuống dần đến vạch đỏ nằm ngang vàchỉtrong nháy mắt cánh quạt bên tráiđã bắtđầu ngừng quay.
-Tôi sắp phải hạ cánh xuống một cánh đồng chứkhông dám mạo hiểm bay tiếpđểđỗ xuống một sân bay nàođó ởgầnđây. Còn may làđêm nay trăng thật sáng.
Không hềbáo trươc chiếc máy bay đầu nghiêng chúc mũi xuống. Viên trung úy phi công nói:
-Tôi sẽcốbay đến cánh đồng đằng kia.
Giọng anh vẻhờ hững lạlùng, anh chỉtay vềphía một đám đất phía tây. Anh hét to:
-Giữcho chặt.
Chiếc máy bay bắt đầu lượn vòng xoáyốc lao xuống. Mảnh đất đột nhiên trông nhỏlạlùng trong khi chiếc máy bay lao đến mỗi lúc một gần.
Adam nắm chặt tay ghế vànghiến răng.Viên phi công nói:
-Yên tâm. Chiếc Beavers nàyđã từng hạcánh ởnhững chỗtồi tệhơn thếnày nhiều.
Khi những bánh xe của máy bay chạm vào mặtđất màu nâu anh nói tiếp:
-Cáiđồ bùn chết tiệt. Tôiđãđoán mà.
Anh chửi thềtrong khi máy bay trượt trong đất nhão, chiếc máy bay đột nhiên chúi mũi vềphía trước. Mất mấy giây Adam mới nhận ra làmình còn sống nhưng đang chới với lộn ngược đầu trong ghế. Anh hỏi:
-Làm thếnào bây giờ?
Không cótiếng trả lời.
Adam cốgượng cựa quậy tới lui cho đến khi chạmđược vào thành máy bay, chânđạp lên cần lái.Vừa bámđược vào thành máy bay, anh liền cởi thắt lưng an toàn vàngã vật lên nóc máy bay.
Anh cóđứng lên và nhẹngười vìkhông thấy gãy xương chỗnào. Anh vội vãnhìn xung quanh nhưng vẫn không thấy bóng dáng người phi công đâu. Adam bòra khỏi máy bay, một khi đặt chân xuống đến đất anh mới thấy vui mừng vì mặt đất an toàn. Quờ quạng hồi lâu anh mới tìm thấy Alan Banks cách đấy khoảng ba mươi mét, nằm ngửa bất động.
Adam hỏi:
-Anh cósao không?
-Tôi không sao. Chắc là tôi bịbắn khỏi máy bay. Anh bạn, xin lỗi vì cúhạcánh này. Phải thừa nhận làcẩu thả. Cần phải tập nhiều lần nữa mớiđược.
Adam phálên cười trong khi người phi công chậm chạp ngồi dậy.
Banks hỏi:
-Sau đây làm gìbây giờ?
-Anh cóđiđược không?
Alan loạng choạng đứng dậy, nói:
-Tôi nghĩlàđược. Mẹkiếp. Chỉcóđiều mắt cábị trẹo nhấtđịnh sẽlàm tôiđi chậm hơn nhiều. Tốt hơn làanh đi trước điđừng chờ tôi.Cái bọnđầy súng ống đó chỉcách chúng ta khoảng ba mươi dặm làcùng
-Nhưng anh sẽlàm thếnào?
-Cha tôiđã hạ cánh xuống một trong những cánh đồng đẫm máu trong chiến tranh thếgiới thứhai màvẫn mòđược vềđến Anh màkhông bịbọnĐức tóm được. Adam, tôi nợanh một món nọlớnđấy, bởi vìnếu nhưcóthểquay lại thì tôi sẽcóthểbắt hắn câm miệng lại.
Adam bất giác sờ vào bức tranh Thánh vàyên tâm thấy nóvẫn nằm yên trong túiáo. Những lời của người phi công chỉ làm anh thêm quyết tâm trởvềAnh.
Adam hỏi:
-Điđường nào bây giờ?
Banks ngước nhìn chòm Đại Hùng tinh:
-Tôi sẽđi về phíađông, cóvẻtiện hơn. Vậy anh nên đi vềphía tây, anh bạnạ.Rất hay làđược làm quen với anh.
Nói xong anh ta trườn đi.
-Thưa thiếu tá, không biết tôi cóthểchịuđựng được bao lâu nữa.
Romanov nói:
-Phải cốgắng chịu đựng, Valcheck. Quan trọng làphải cốgắng. Lúc này không thểdừng lạiđược. Chắc chắn là chiếc máy bay rơi cách đây không xa. Tôi thấy nórơi ởđằng kia mà.
-Tôi tin anh. Nhưng ít nhất hãy nói cho tôi chết bình yên bên vệđường còn hơn làphải chịuđựng đau đớn trong cái xe này.
Romanov nhìn người đồng đội bịthương ởbụng.Tay Valcheck đầy máu. Áo sơmi vàquần của anh đãướt đẫm, tay anh luônôm lấy bụng giống nhưmộtđứa trẻlàm vẻốm. Người lái xe cũng trúng đạn, nhưng phátđạn găm vào lưng trong khi anh ta định bỏ chạy. Nếu nhưanh ta không chết ngay thìhẳn Romanov đã phải tựmình bắn thêm một phát nữa vào giữa hai vai anh ta. Nhưng Valcheck làchuyện khác. Không ai có thểnghi ngờvềlòng dũng cảm của anh. Valcheck chính làngười đầu tiên nãđạn vào giữa bụng bọn người Anh, thếrồi bọn người Mỹnhảy vào. NhờcóMentor màRomanov biết chắc rằng hắn vàđồng đội sẽcómặt trước tiên. Nhưng bây giờnhấtđịnh phải cảnh cáo cho Mentor biết rằng còn cómột kẻnữađã báo cho bọn Mỹbiết. Dùsao thìRomanov cũng phần nào thỏa mãn vìđã lừađược bọn Mỹbắn vào bọn Anh trong khi hắn vàValcheck chờđể bắt lấy kẻsống sót. Kẻsống sót cuối cùng là một người Mỹđã liên tục bắn vào Valcheck trong khi hai người đang tìmđường chạy thoát.
Romanov tính toán thấy hắn cókhoảng một giờtrước khi người Pháp, người Anh vàngười Mỹcóthểđến để thu dọn các xác chết trên một sân bay bỏhoang. Ýnghĩcủa Romanov quay vềthực tại khi tiếng rên của Valcheck đập vào tai. Anh ta van xin:
-Hãy ra khỏi cách rừng nàyđi. Bây giờtôi không còn hy vọng sống được bao nhiêu nữađâu.
Romanov nhắc lại:
-Cốchịuđựng, cốchịuđựng. Chúng ta không Scott lắm nữa đâu.
Valcheck nói:
-Hãy mặc cho tôi chết yên lành.
Romanov nhìn sang và nhận ra rằng chỉmấy phút nữa làcóthể hắnđã phải kẹtởđây với một cái xác chết. Mặc mọi cốgắng của Valcheck, lúc này máu bắtđầu chảy nhưsuối xuống sàn xe.
Romanov nhận thấy quãng trống giữa những bụi cây phía trước. Hắn bậtđèn pha vàcho xe rời khỏiđường rẽvào một con đường gồghềlầy lội. Hắn lái xe thật sâu vào rừng cho đến khi cây cối trởnên dày đặc rồi mới dừng lại, tắtđèn vàchạy vòng qua đằng trước để mởcửa xe.
Valcheck chỉđi được cóhai ba bước đã ngãkhuỵu xuống đất, tay vẫnôm chặt bụng. Romanov cúi xuống giúp anh dựa vào một thân cây to.
-Hãyđể mặc tôi chết, thiếu tá.Đừng vìtôi màđể phí chút thìgiờnào nữa.
Romanov nhăn mặt hỏi:
-Cậu muốn chết như thếnào? Từtừvàđau đớn, hay nhanh chóng vàyênả?
-Cứ mặc tôi. Cứ để tôi chết từ từ. Nhưng anh nênđi ngay trong khi còn có thể theo hút được Scott.
-Nhưng nếu bọn Mỹ tìm được cậu, có thể chúng sẽ buộc cậu phải nói.
-Thiếu tá biết rõ tôi mà.
Romanov nhận lời trách cứ, hắnđứng dậy và sau một thoáng suy nghĩ bèn chạy ra xe.
Valcheck bắtđầu cầu nguyện may ra cóai đó sẽ tìm được anh. Anh chưa bao giờ muốn nhận nhiệm vụnày, nhưng Yuri cần đặt thêm một đôi mắt bên cạnh Romanov vàYuri làmột người không thể qua mặt được, Valcheck sẽ không khai, nhưng anh vẫn còn muốn sống.
Viênđạn từ khẩu Makarow chín ly xuyên thẳng từ thái dương qua đầu Valcheck. Anh ngã gục trên mặt đất và trong nhiều giây sau đó, xác anh vẫn run lên bần bật và quằn quại trên nền đất nâu thẫm.
Sáng hôm sau khi thức dậy lão lại cảm thấy cảm giác tội lỗi quen thuộc. Một lần nữa lão thề rằng đây là lần cuối cùng. Điều đó chẳng bao giờ thích thú như lão nghĩ và nỗi hối hận dai dẳng đeo theo lão trong nhiều giờ sau đó.
Chi phícắt cổ cho việc giữmột căn hộ sang trọng, tiền taxi và hóa đơn cho câu lạc bộ gần nhưcó thể ngăn cản lão. Nhưng lão luôn luôn trở lại như một con cá hồi trở về tổ của nó dưới đấy biển.
Lão ngâm mình trong bọt xà phòng và nghĩ đến Scott. Lão biết lẽ ra lão phải cảm thấy tội lỗi vì cái chết của anh ta. Cái chết đó, cũng giống như bao nhiêu cái chết trước đó.
Nhưng Mentor không bao giờ quên tên gãsĩquan trẻtuổiđã bỗng nhiên ngồiởphía cuối giường khi lão tỉnh dậy sáng hôm sau vàcái nhìnđầy khinh miệt mà gãđã chiếu vào lão.
Anh mặc áo sơ mi mới, quần mới, cà vạt và áo gió đúng mốt nhất nước Anh ít nhất là trong một năm nữa. Thậm chí chiếc áo khoác đi mưa cũng bị thải vì bức tranh Thánh đã nằm gọn trong túi trong của chiếc áo gió. Hình như tiệm quần áo đổi tiền cho tấm séc du lịch của anh với giá khá rẻ mạt nhưng điều đó không làm anh bận tâm mấy.
Adam đặt một phòng đơn cho mình theo tên của Dudley Hulme, mấy phút sau anh đã ở trong thang máy để đi lên tầng ba.
Thậm chí điện thoại réo chưa đến tiếng chuông thứ hai Lawrence đã nhấc máy.
Adam nói:
-Tớ đây.
Lawrence hỏi ngay:
-Cậu đang ở đâu?
Adam nói:
-Tớ phải hỏi cậu trước.
Lawrence nói:
-Tớ hiểu cậu nghĩ gì, nhưng...
-Không nhưng gì cả. Bây giờ cậu phải hiểu rằng có kẻ nào đó trong số những người cậu gọi là nhóm công tác ấy có liên hệ trực tiếp với Romanov, bởi vì chính Romanov và đồng bọn của hắn là người đứng đón tớ ở khách sạn đó chứ không phải là người của cậu.
-Hiện nay chúng tớ đã biết điều đó.
Adam:
-Chúng tớ ư? "Chúng tớ"đó là những ai? Bởi vì lúc này tớ đang khó mà hiểu nổi ai đang đứng vềphía mình.
-Cậu đừng tin rằng...
-Bao giờ cậu nhìn thấy bạn gái mình bị giết, bao giờ cậu bị một kẻ giết người chuyên nghiệp săn đuổi khắp châu Âu, bị bắn và bị...
-Bị bắn?
-Phải, hôm nay anh bạn Romanov của cậu đã nã đạn vào tớ. Lần sau tớ sẽ quay người kiểu khác để đạn không trúng vào vai.
Lawrence nói:
-Không thể có lần sau nữa. Bởi vì chỉ cần cậu cho tớ biết cậu đang ở đâu tớ sẽ đưa cậu về an toàn.
Trong óc anh bỗng vang lên những lời của Robin "Anh cần phải cân nhắc xem nên cho anh ta biết đến đâu", khiến Adam khựng lại không nói cho Lawrence biết đích xác mình đang ở đâu.
-Adam, vì Chúa, tùy cậu thôi. Nếu không tin tớ thì cậu sẽ tin ai? Tớ thừa nhận là mọi việc có vẻ như bọn tớ bỏ rơi cậu. Nhưng chuyện đó sẽ không lặp lại nữa.
Một hồi lâu im lặng, sau đó Adam nói:
-Tớ đang ở Dijon.
-Sao lại ở Dijon?
-Bởi vì người duy nhất cho tớ đi nhờ lại đang đi dự một hội nghị về mù tạt ởDijon.
Lawrence không khỏi mỉm cười:
-Hãy cho tớ điện thoại, tớ sẽ gọi lại cậu trong vòng một giờ.
Adam nói:
-Không, tớ sẽ gọi lại cho cậu sau một giờ.
-Adam, cậu cần phải tỏ ra tin tớ một tý chứ.
-Không phải bây giờ tớ mới biết cậu đang cần cái gì. Tớ không thể tin bất cứ ai cả.
Adam đặt ống nghe xuống và nhìn vào bức tranh Thánh mở dưới sàn. Điều anh lo lắng không phải chữ ký của Stoeckle hay Seward. Điều sinh tử chính là ngày tháng ghi trên đó - 20 Tháng Sáu năm 1966.
Khi viên công chức cao cấp rời Century House, người gác cổng hỏi:
-Tam biệt, thưa người. Lại một đêm nữa làm việc tận đến khuya ư?
Lão nhận câu chào của người gác cổng bằng cách giơchiếc dùlên cao hơn một tý.Đúng là lại một đêm nữa làm việc đến tận khuya, nhưng ít nhất lão cũng đã lần lại được dấu vết Scott. Lão bắt đầu thật sự kính phục anh ta. Nhưng tại sao người ta lại không tóm được Scott ở Geneva vẫn là điều phải lý giải nhiều hơn so với những thông tin được Lawrence cung cấp chiều nay.
Lão đứng trên thềm gạch về phía đường Old Kent, nổi bật trong chiếc áo khoác đen và chiếc quần kẻ sọc, sốt ruột gõ cán dùcho đến khi vẫy được một chiếc taxi.
-Hiệu sách Dillon, phố Mallet.
Lão nói với người lái xe trước khi chui vào ghế sau. Đã bảy rưỡi nhưng vẫn chưa muộn quá và mấy phút nữa cũng chẳng khiến mọi chuyện khác đi nhiều lắm. Pemberton đã đồng ý ngồi trực ở bàn cho đến khi nào chắp nối được những đầu mối bị lỏng lẻo và chắc chắn lần này sẽ không còn gì sai sót nữa. Lão tự cho phép mình nhăn nhúm mỉm cười khi nghĩ lại chuyện tất cả đã chấp nhận phương án lão đưa ra... Thật là lợi cả đôi đường vì đảm bảo sẽ đủ giờ để bố trí những người giỏi nhất vào vị trí và trong khi đó vẫn giấu kín được Scott khỏi mọi con mắt. Hy vọng đây là lần cuối cùng họ sẽ chờ đợi lão tiến hành đúng như phương án nguyên thủy đã đề xuất.
Người lái xe cho xe đỗ trước cửa nhà Dillon và nói:
-Tám shilling, thưa sếp.
Lão đưa tiền cho anh ta và cho thêm một đồng sáu penny rồi đứng nhìn lên cửa sổ của hiệu sách trường đại học, chờ cho chiếc taxi chạy đi. Lúc chiếc taxi đã rẽ sang đường Cower lão mới bắt đầu bước đi. Mấy giây sau đến một đường phố nhánh lão mới rẽ sang đó. Ridgmount Gardens là một phố nhỏ mà ngay đến các tay lái xe taxi ở London cũng phải nghĩ một lúc mới ra. Lão đi tiếp mấy mét nữa rồi biến mất vào cầu thang dẫn xuống một tầng hầm. Lão tra chìa khóa vào một chiếc ổ khóa hiệu Yale quay một vòng rồi bước vào đóng cửa lại.
Trong hai mươi phút sau đó lão gọi hai cú điện thoại, một quốc tế và một nội địa. Sau đó tắm một cái. Không đầy hai giờ sau lão đã bước ra khỏi phố Ridgmount Gardens trong bộ comple màu nâu, tóc rẽ ngôi ngược lại lúc nãy. Lão đi bộ quay lại nhà Dillon và vẫy một chiếc taxi khác.
Vừa trèo vào taxi lão vừa bảo người lái xe:
-Bảo tàng Bristish.
Lão nhìn đồng hồ. Gần tám giờ mười. Lúc này ắt Scott đã chuẩn bị sẵn sàng mặc dầu người của lão cũng đã trên đường trở lại Dijon bởi vì kế hoạch là cho phép chậm lại hai giờ.
Chiếc taxi đỗ lại trước bảo tàng Bristish. Lão trả tiền rồi bước mười hai bậc lên thềm nhà Bảo tàng, chiêm ngưỡng kiến trúc Byzantine như tuần nào lão cũng làm trước khi bước xuống và gọi một chiếc taxi khác.
-Bệnh viện.
Chiếc taxi quay một vòng cua chữ U rồi chạy về hướng tây.
Thằng con hoang khốn kiếp. Nếu như Scott đừng có mở cái phong bì ấy ra thì bức tranh Thánh đã trở về với bàn tay người chủ chính đáng của nó.
Người lái xe hỏi"
-Tôi cho xe lên cửa chính chứ?
-Phải.
Mấy giây sau lão đã sải bước đi thẳng vào bệnh viện rồi đứng nhìn tấm bảng trên tường làm như đang tìm vào khoa nào đó. Bao giờ lão cũng chỉ mất ba phút để đi từ Bệnh viện Middlesex đến phố Charlotte. Tới nói lão đứng ngoài cửa và bấm nút máy đàm thoại nội bộ.
Một giọng vang lên nghi ngờ:
-Ông có phải thành viên không?
-Phải.
Trong lúc đó Adam gọi điện và cẩn thận lắng nghe từng lời của Lawrence.
Adam nói:
-Tớ sẽ liều một lần nữa. Nhưng nếu lần này lại là Romanov thì tớ sẽ đưa bức tranh Thánh cho hắn với danh nghĩa cá nhân, cùng với nó sẽ là một mẩu giấy về đất đai mà người Mỹ có trả bao nhiêu tiền cũng không mua lại được.
Khi Adam đặt ống nghe xuống Lawrence cùng với Sir Morris tua đi tua lại đoạn băng để nghe.
Sir Morris nói:
-Tôi cho rằng chìa khóa là ở chữ"giấy tờ về đất đai".
Lawrence nói:
-Tôi tán thành điều đó. Nhưng đất đai nào có thể có giá trị đến thế đối với cả Mỹ lẫn Nga?
Sir Morris bắt đầu chậm rãi quay quả địa cầu bên cạnh bàn làm việc.
Romanov hỏi:
-Tiếng vo vo ấy có nghĩa là gì? Không lại hết nhiên liệu lần nữa?
Người lái xe nói:
-Không, đó là thiết bị gọi kiểu mới. Điều đó có nghĩa là họ chờ tôi về cất xe.
Romanov khẽ nói:
-Quay lại chỗ trạm xăng vừa đi qua cách đây vài dặm.
Romanov lại bắt đầu sốt ruột nhìn bảng đồng hồ mong nhìn thấy cái trạm xăng hiện ra phía chân trời. Mặt trời đang lặn rất nhanh, hắn sợ rằng chỉ một tiếng nữa thôi trời sẽ tối sập xuống. Họ đã đi qua Dijon khoảng chín mươi kilomet, suốt dọc đường cả hắn lẫn Valcheck đều không thấy bóng dáng chiếc Citroen màu vàng đâu.
Vừa thấy trạm xăng, Romanov nói với người lái xe:
-Đổ xăng cho đầy, trong khi tôi gọi cho Geneva.
Hắn chạy đến trạm điện thoại trong khi Valcheck vẫn kiểm tra mọi chiếc xe đi ngang qua.
Điện thoại được nối:
-Chúng tôi vừa nhận được một cú điện thoại nữa của Mentor. Thiếu tá cách Dijon bao xa?
Các thành viên câu lạc bộ ngồi túm tụm trong căn phòng tối mờ mờ, lão bước qua căn phòng tới chiếc bàn không có ai ngồi kê sát cột nhà trong góc. Lão ngồi xuống chiếc ghế da bên cạnh bàn rồi hốt hoảng nhìn quanh, bao giờ lão làm cũng như vậy trong khi người ta bưng đến cho lão ly whisky malt như thường lệ. Khi ly rượu đã được bưng đến đặt trước mặt, lão nhấm nháp và nhìn quanh xem có khuôn mặt lạ nào trong căn phòng tối om này không. Không dễ chút nào vì lão không muốn lấy kính ra đeo lên. Cuối cùng mắt lão đã quen với thứ ánh sáng mờ mờ hắt ra từ ngọn đèn fluo đỏ treo trên quầy bar. Và lão chỉ nhận ra toàn khuôn mặt quen thuộc đang nhìn mình đầy hy vọng. Nhưng lão chờ đợi một cái gì đó mới mẻ hơn kia.
Ông chủ quán tiến đến gần và thì thào:
-Có một tay khá ngon lành cho ông.
-Ai vậy?
Lão ngẩng lên nhìn những khuôn mặt trong quán rượu một lần nữa.
Ông chủ quán nói:
-Đang cúi xuống chiếc máy hát tự động trong góc đàng kia kìa.
Lão nhìn về phía cái máy hát. Một khuôn mặt tươi cười đang mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười với lão. Lão hồi hộp mỉm cười đáp lại.
Người chủ quán hỏi:
-Tôi làm như vậy có đúng không?
Lão chỉ hỏi gọn lỏn:
-Có an toàn không đấy?
-Không vấn đề gì đâu. Một anh chàng trung lưu, vừa mới tốt nghiệp đại học. Hắn chỉ muốn kiếm ít tiền bỏ túi thôi.
Lão nhấp một ngụm whisky.
Ông chủ quán đi về phía cái máy hát. Lão nhìn ông ta nói chuyện với chàng thanh niên. Anh ta uống cạn cốc của mình, lưỡng lự một tí rồi đi thẳng qua căn phòng đông đúc để đến chỗ lão.
Chàng thanh niên nói:
-Tôi tên là Piers.
Lão đáp:
-Còn tôi là Jeremy.
Piers nói:
-Một cái tên hay.Bao giờ tôi cũng rất thích cái tên Jeremy.
-Uống chút gì chứ?
Piers nói:
-Vâng, cho tôi xin một Martini nguyên chất.
Lão gọi một ly Martini nguyên chất và một Whisky malt nữa. Người bồi bàn vội vã quay đi. Lão nói:
-Tôi chưa nhìn thấy anh ở đây bao giờ.
-Không, đây mới là lần thứ hai tôi đến đây. Tôi đã từng làm việc ở Soho nhưng sau đó mọi sự thô thiển quá. Không bao giờ biết được là mình sẽ gặp ai.
Bồi bàn đem rượu đến và viên công chức cao cấp nhấp một ngụm lớn.
Piers hỏi:
-Ngài cómuốn nhảy một chút không?
Giọng nóiở đàng kia đầu dây:
-Việc này rất khẩn cấp. Anh cóghi âm không đấy?
-Tôi vẫn đang nghe đây.
-Nam cực hiện đang ởDijon vàhắnđã phát hiện ra trong bức trang Thánh có cái gì.
-Hắn có cho bọn họ manh mối nào không?
-Không. Hắn chỉ nói với Pemberton làhắnđang giữmột mẩu giấy tờ về đất đai vô cùng quan trọng mà dùcho chúng ta cótrảđến bao nhiêu tiền cũng không thể mua lại được.
Giọng kia nói:
-Quả thật là vậy.
Người gọi nói:
-Người Anh nghĩ rằng chìa khóa là ở chữ "giấy tờ về đất đai".
Giọng nói ở đầu kia đáp:
-Họ nhầm rồi. Quan trọng là chữ "mua lại"kia.
-Sao anh lại chắc chắn như vậy?
-Bởi vìĐại Sứ Nga ởWashington đã yêu cầuđược gặp tổng thống vào ngày hai mươi tháng Bảy vàông ta sẽđem đến mộtđống vàng trịgiábảy trăm triệu đô la vàng.
-Vậy chúng ta đang đứng ởchỗnào?
-Đang trênđường đến Dijon, nhưvậy chúng ta sẽcóthể đặt tay lên bức tranh Thánh đó trước cả người Nga lẫn người Anh. Rõ ràng là người Nga cảm thấy tự tin là chẳng mấy lúc sẽ chiếm được bức tranh, vì thế tôi cuộc là lúc này họ cũng đang trên đường đến Dijon.
-Nhưng tôiđã đồng ýlàm theo kếhoạch của người Anh.
-Trung tá, chớquên làông đang làm việc cho bên nào.
-Vâng, thưa ngài. Nhưng chúng ta sẽxửlýnhưthếnào với Nam Cực một khi đã chiếmđược bức tranh Thánh.
-Chúng ta chỉđeo đuổi bức tranh Thánh thôi. Một khi nóđã làcủa chúng ta thìNam cực cóthểcho qua cũng được.
Adam nhìnđồng hồ: Bảy giờhơn mấy phút.
Đãđến lúc phải đi, bởi vì anh đã quyết định không làm theo những lời chỉ dẫn của Lawrence định sẽ chờ chúng đến, không như kế hoạch của Lawrence. Anh khóa cửa buồng ngủ và quay lại bàn lễ tân trả tiền phòng và tiền điện thoại.
-Cámơn.
Anh nói với côlễ tân vàđịnh quay đi.
-Chào anh.
Adam lạnh toát cả người.
Tiếng nói lại cất lên oang oang:
-Dudley. Gần nhưkhông thểnào nhận ra anh được nữa. Đã thay đổi ý định rồiư?
Một bạn tay đập mạnh lên vai Adam -ít nhất thìcũng không phải là vai trái. Adam tròn mắt nhận ra Jim Hardcastle.
Adam nói, lòng thầm ước mình cótài biến báo nhưcha của Robin.
-Không. Tôi nghĩlà ởthành phốnày người ta đã nhận ra tôi cho nên tôi chỉthay đổi quầnáo vànáu kín trong mấy giờthôi.
Jim nói:
-Vậy thìtại sao lại không đến dựtiệc với những nhàlàm mù tạt chúng tôi? Ởđó sẽkhông ai tìm thấy anh.
Adam nói:
-Ước gìtôi có thểlàm nhưvậy. Nhưng tôi không dám chậm trễ thêm chút nào nữa.
Jim tỏvẻthông cảm:
-Tôi cóthểlàm gìcho anh không?
-Không, tôi phảiđến... Tôi cómột cái hẹn ngay ởngoạiôthành phốnày vàtôi phảiđến đó trong vòng một giờnữa.
Jim nói:
-Giánhưtôi có thểtựmình đưa anh tớiđóđược. Tôi muốn làm tất cảnhững gìcóthể đượcđể giúp một người lính, nhưng hôm nay thì kẹt thật sự- cólẽsuốtđêm mất.
-Jim, đừng bận tâm làm gì. Sẽổn cảthôi.
Linda đã từlâu đến đứng cạnh bốvàlắng nghe chăm chú:
-Bố, con cóthể đưa anh ấyđiđược.
Cảhai quay phắt lại nhìn Linda. Cômặc một chiếcáo dài bằng lụa màuđen bóchặt lấy người, cổtrễ hết mức vàngắn hết mức, mái tóc vừa gội đổ xuống vai. Côbéngước mắt lênđầy hy vọng.
-Con vừa mới lấy được bằng lái xe xong, đừng cókhùng thế.
Côbéđáp ngay:
-Cóbao giờcó một việc gìđấy đáng làm làbốlại coi con nhưtrẻcon.
Jim lưỡng lự:
-Chỗhẹn của anh cóxa không?
Adam nói:
-Chỉnăm phút đi xe. Cólẽnăm sáu dặm gìđấy. Nhưng không sao đâu, tôi cóthểđi taxi rất dễmà.
-Con gái nóiđúng đấy -Jim nói vàlấy chìa khóa xe trong túi áo ra, quay lại Linda dặn thêm: -Nhưng nếu con mànói với mẹthìbốsẽgiếtđấy.
Jim bắt tay Adam và lắc thật mạnh.
-Nhưng không sao đâu mà...
-Anh bạn, tôi không muốn nghe nhưthếđâu.Chớbao giờquên rằng chúng ta cùng chiến tuyến. Chúc may mắn nhé.
Adam miễn cưỡng đáp:
-Cámơnông rất nhiều.
Jim giục:
-Con gái, tốt nhất là con hãyđi trước khi mẹcon quay lại.
Linda sung sướng nắm tay Adam vàkéo anh ra bãiđỗ xe.
Khi hai người đã ngồi trong xe côhỏi:
-Đi hướng nàoạ?
Adam nhìn xuống mẩu giấy ghi những lời chỉdẫn cảu Lawrence:
-Đường Auxerre.
Linda cho xe chạy chậm chậm, hình nhưthoạt tiên không tin chắc vào chiếc xe lắm, nhưng khi ra đến ngoạiôAdam bảo cô nênđi nhanh lên một chút. Côgáiđặt tay lênđầu gối Adam vànói:
-Em hồi hộp quá.
Adam vội vắt chéo hai chân:
-Quảvậy, tôi nhận thấy côđang hồi hộp. Nhớrẽsang trái -anh nhắc khi nhìn thấy tấm biển chỉrẽ sang trái.
Linda cho xe rời khỏi đường cáiđể rẽvào mộtđường làng nhỏhơn khi Adam chăm chútìm ngôi nhà nhưLawrence đã tả. Họphải chạy tiếp hai dặm nữa mới thấy ngôi nhàhiện ra.
Adam nói:
-Cho xe tránh sang bên đường. Vàtắtđèn đi.
Linda phanh xe lại và khấp khởi nói:
-Cuối cùng thìcũng...
Adam nói vànắm tay nắm cửa:
-Cảmơn côrất nhiều.
Linda hỏi:
-Em liều mình chỉ để thếthôi sao?
-Tôi không muốn cô đi dựtiệc quátrễ.
-Bữa tiệcấy sẽ chỉvui đến nhưmột cuộc khiêu vũcủa những thanh niênĐảng Bảo Thủlàcùng thôi mà.
-Nhưng mẹcô sẽlo lắng đấy.
-Dudley, anh thật quá nghiêm chỉnh đấy.
-Hiện nay tôiđang ởvào một hoàn cảnh không bình thường, nhưng nếu côởlạiđây lâu hơn nữa thìsẽ nguy hiểm cho côđấy.
Mặt Linda xám ngoét:
-Anh không nóiđùa đấy chứ?
Adam nói:
-Ước gìtôi không nóiđùa. Côcần phải quay lại, vềkhách sạn ngay vàkhông bao giờđượcđể lộ câu chuyện này với bất cứai, đặc biệt là mẹcô.
Linda nói, lầnđầu tiên tỏra hoảng hốt thật sự:
-Vâng. Em sẽlàm như vậy.
Adam nói:
-Côlàmột cô gái kỳdiệu.
Anh quành tay ôm và tặng co một cái hôn dài nhất, nồng nàn nhất màcô chưa từng biết. Sau đó Adam ròi khỏi xe nhìn côlóng ngóng mãi mới quay được xe rồi chạy vềphía Dijon.
Adam nhìnđồng hồ: vẫn còn một tiếng rưỡi nữa mớiđến giờ hẹn vàlúcđó chắc chắn trờiđã tối mịt. Anh loạng choạng đi vềphía sân bay vànhìn những ngôi nhàcháy xém dọc hai bênđường. Dường như đây là một thành phố ma và Adam tin chắc chưa có một ai ở đấy bởi vì họ chưa thể đủ thì giờ triển khai kế hoạch của Lawrence.
Nhìn sang bên kia đường băng Adam phát hiện ra một chỗlýtưởng để trốn trong khi chờđợi để xem cai nào trong hai kế hoạch anh đã chuẩn bịsẽtrởthành cần thiết.
Trung úy phi công Alan Banks tạơn Chúa vìđêm hômđó trăng sáng vằng vặc. Anh đã từng hạcánh chiếc Beaver nhỏtrở đầy lính chiến trong những điều kiện xấu hơn thế này, nhiều khi màđường băng chỉđược soi sáng mờmờnhưmặt biển Hắc hải.
Banks lượn vòng theo chu vi sân bay vànghiên cứu cẩn thận hai đường băng. Đã lâu lắm sân bay này không hoạtđộng, do đó không hềcómột dịch vụdẫnđường nào kểcảbảnđồ chi tiết mặtđất.
Viên trung úy phi công phá vỡmọiđiều luật học trong sách giáo khoa, kể cảviệc tìm cách hạxuống một sân bay vô danh trong khi đã báo với người Pháp làsẽđỗ xuống Paris. Chẳng dễgìmàgiải thích được việc bay chệch khỏi một sân bay đến hàng trăm dặm.
Banks quay lại nói với viênđại úyđang ngồi xổmđằng sau cùng với năm người nữa:
-Nếu hạxuống đường băng phíađông nam thìdễdàng hơn. Ông muốn đến gần hangar ởđâu -anh chỉtay ra ngoài cửa sổ.
Viênđại úy đáp:
-Đỗ chỗnào thật dễnhìn, ít nhất làcách hai trăm mét. Chưa biết được cái gìsẽchờđón chúng ta.
Cảsáu lính cơ động (SAS) tiếp tục nhìn kỹphía ngoài cửa sổ. Họchỉnhậnđược mệnh lệnh ngắn gọn làđón một người Anh đơn độc cótên là Scott hiệnđang chờởđây sau đó cất cánh thật nhanh. Điềuđó nghe cóvẻthật dễ dàng, nhưng chắc chắn làchẳng hềdễdàng nhưvậy, nếu không họđã chẳng đượcđiều đến.
Viên phi công cho chiếc Bearver vòng sang hướng nam vàbắtđầu chúc mũi xuống đất. Anh mỉm cười nhận ra một chiếc Spitfire cháy xém bịbỏlại bênđường băng. Giống hệt nhưchiếc máy bay của cha anh vẫn dùng hồi chiến tranh thếgiới thứhai, nhưng rõràng làcái này chẳng bao giờvềđược tới nhà. Anh hạ độ cao một cách vững vàng vàkhi cái máy bay nhỏ chạmđất nónảy bật lên, không phải vì phi công thiếu kinh nghiệm màlàvìmặt đất lòi lõm một cách khủng khiếp.
Trung úy phi công Banks cho máy bay dừng lại cách hangar khoảng hai trăm mét sau đó quay hẳn một vòng để viênđại úy cóthể quan sátđược thật nhanh bốn phía. Anh nhấn nút tắt động cơ cánh quạt và tắt đèn. Tiếng cánh quạt vù vù nhỏ dần thành chỉ còn tiếng vo ve nho nhỏ. Họ đến sớm bốn mươi phút.
Cách đó bốn trăm mét, nấp trong buồng lái của chiếc Spitfire, Adam nghi ngờ nhìn những kẻmớiđến. Anh không thểchạy tới chiếc máy bay trên mặtđất trơtrụi dưới ánh trăng quásáng thếnày. Mắt anh dán chặt vào chiếc máy bay không dấu hiệu vàchờxem trên đó cónhững ai. Phảiít nhất mười lăm phút nữa mặt trăng mới cóthểbịđám mây che khuất. Mấy phút nữa trôi qua, Adam nhìn thấy sáu người nhảy ra khỏi cửa thân máy bay vànằm bẹp trên mặt đường bêtông. Họmặcđúng những bộ quầnáo lính cơđộng nhưng Adam chưa thể tin được vìanh vẫn còn nhớrành rành hình ảnh Romanov trong bộquầnáo lái xe. Cảsáu người lính nằm im không nhúc nhích. Adam cũng nằm yên như vậy trong khi chưa xácđịnh đó làngười của bên nào.
Cảsáu người lính nằm trên mặtđất đều ghétánh sáng trăng cũng nhưmặtđất trống trải. Viênđại úy nhìn đồng hồ: còn ba mươi sáu phút nữa. Anh ta giơhiệu vàhọbắtđầu bòvềphía hangar, nơi Pemberton nói làScot sẽchờởđó. Họsẽphải bòkhoảng hai mươi phút mới qua được quãng cách này, mỗi lúc càng tin chắc rằng lời cảnh cáo của Pemberton về một kẻ thù rình rập đâu đó là không đúng.
Cuối cùng mộtđám mây lớn che khuất mặt trăng khiến cảvùng sân bay tối sầm. Viênđại úy lính cơđộng nhìn đồng hồ: năm phút nữa thìđến giờhẹn. Anh ta làngười đầu tiên chạm tay vào cửa hangar đẩy ra vàoằnngười há hốc miệng. Viên đạn ghim đúng giữa trán trước cả khi anh ta kịp sờ vào khẩu súng.
Người thứhai hét lên ra lệnh:
-Chạyđi.
Bốn người kia bật dậy trong chớp mắt, lia súng quét thành một vòng cung phía trước vàchạyđến ẩn vào ngôi nhà.
Vừa nghe thấy tiếng hét Adam bèn nhảy ra khỏi buồng lái của chiếc Spitfire và lao qua quãng đường bêtông vềphía chiếc máy bay nhỏđã khởiđộng sẵn cánh quạt chờ cất cánh. Anh nhảy lên cánh vàleo vào bên cạnh viên phi công đang kinh ngạc, anh hét lên:
-Tôi làAdam Scott, người các anh cầnđón.
Người phi công chìa tay ra bắt:
-Tôi làtrung úy phi công Alan Banks, anh bạn.
Adam nhận ra mọi sự thật kinh hãi vàthầm nghĩ: chỉmột sĩquan Anh mới bắt tay nổi trong một tình huống nhưthế này.
Cảhai quay lại nhìn trận chiến.
Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi ngay thôi. Tôiđược lệnh đem anh vềAnh nguyên vẹn.
-Không thểvề được, một khi chưa chắc chắn làsẽkhông ai trởvềnữa.
-Xin lỗi, anh bạn. Tôi được lệnh làcứu anh. Còn những người kia được lệnh tựlo lấy cho mình.
Adam nói:
-Chờhọmột phút nữa thôi.
Họtiếp tục chờ cho đến khi cánh quạt quay títđạt tốcđộ cực đại. Đột nhiên tiếng súng ngừng bặt. Adam nghe rõ cảtiếng tim mình đập thùm thụp trong lồng ngực. Người phi công nói:
-Chúng ta nênđi thôi.
Adam đáp:
-Tôi biết. Nhưng tôi cần phải biết thêm mộtđiều nữađã.
Nhưng cơn ác mộng kinh hoàng khiến cho Adam phát hiện ra hắn trước khi viên phi công nhìn thấy. Anh nói:
-Đi thôi.
Viên phi công hỏi:
-Gìcơ?
-Đi thôi.
Anh ta đẩy cần lái về phía trước, chiếc máy bay bắtđầu chậm chạp chạy dọcđường băng mấp mô.
Đột nhiên một bóng đen chạy theo xả súng bắn vào họ.Viên phi công quay lại nhìn và chỉ thấy bóng một người rất cao với mái tóc bạch kim sáng lên trong ánh trăng.
Adam nói:
-Nhanh lên, ông bạn. Nhanh lên.
Viên phi công nói:
-Hết cỡrồi.
Đạn nhả xối xả, lần này những viên đạn ghim vào bụng máy bay. Một tiếng nổ thứ ba phát ra, nhưng lúc này máy bay đã chạy nhanh hơn người kia. Adam thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng chiếc máy bay rời khỏi mặt đất.
Anh quay nhìn lại và thấy Romanov đang xảsúng bắn vào một người nào đó không mặc quầnáo lính SAS.
Trung úy phi công Banks nói:
-Bây giờhọa chúng cóbazoka mới bắn trúng được chúng ta.
Adam quay lại:
-Cừlắm. Cừ lắm.
Viên phi công cười vang:
-Vàcứnghĩ đến vợtôiđang chờtôi vềnhà tối nay đểđi xem phim.
Adam hỏi:
-Vậy anh sẽxem phim gì?
-Người đàn bà kiều diễm của tôi.
Trung úy phi công Alan Banks nhìn ra ngoài khuôn cửa sổnhỏhẹp trong khi chiếc máy bay bay lên một cách vững vàng.
Adam hỏi, cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập khắp người:
-Bây giờchúng ta điđâu?
-Tôiđã hy vọng là chúng ta cóthểvềđến Anh, nhưng lúc này e rằng chỉcóthểcốbay càng xa càng tốt màthôi.
Adam lo lắng hỏi:
-Anh nói thếnghĩa làthếnào?
Alan Banks trỏngón tay vào cây kim nhỏmàu trắng đang chỉgần điểm báo hết nhiên liệu.
-Chúng ta cònđủ xăng để vềđến Northolt nếu những viênđạn này không chọc thủng bình xăng.
Trong khi Adam nhìn thì chiếc kim nhỏmàu trắng tiếp tục xuống dần đến vạch đỏ nằm ngang vàchỉtrong nháy mắt cánh quạt bên tráiđã bắtđầu ngừng quay.
-Tôi sắp phải hạ cánh xuống một cánh đồng chứkhông dám mạo hiểm bay tiếpđểđỗ xuống một sân bay nàođó ởgầnđây. Còn may làđêm nay trăng thật sáng.
Không hềbáo trươc chiếc máy bay đầu nghiêng chúc mũi xuống. Viên trung úy phi công nói:
-Tôi sẽcốbay đến cánh đồng đằng kia.
Giọng anh vẻhờ hững lạlùng, anh chỉtay vềphía một đám đất phía tây. Anh hét to:
-Giữcho chặt.
Chiếc máy bay bắt đầu lượn vòng xoáyốc lao xuống. Mảnh đất đột nhiên trông nhỏlạlùng trong khi chiếc máy bay lao đến mỗi lúc một gần.
Adam nắm chặt tay ghế vànghiến răng.Viên phi công nói:
-Yên tâm. Chiếc Beavers nàyđã từng hạcánh ởnhững chỗtồi tệhơn thếnày nhiều.
Khi những bánh xe của máy bay chạm vào mặtđất màu nâu anh nói tiếp:
-Cáiđồ bùn chết tiệt. Tôiđãđoán mà.
Anh chửi thềtrong khi máy bay trượt trong đất nhão, chiếc máy bay đột nhiên chúi mũi vềphía trước. Mất mấy giây Adam mới nhận ra làmình còn sống nhưng đang chới với lộn ngược đầu trong ghế. Anh hỏi:
-Làm thếnào bây giờ?
Không cótiếng trả lời.
Adam cốgượng cựa quậy tới lui cho đến khi chạmđược vào thành máy bay, chânđạp lên cần lái.Vừa bámđược vào thành máy bay, anh liền cởi thắt lưng an toàn vàngã vật lên nóc máy bay.
Anh cóđứng lên và nhẹngười vìkhông thấy gãy xương chỗnào. Anh vội vãnhìn xung quanh nhưng vẫn không thấy bóng dáng người phi công đâu. Adam bòra khỏi máy bay, một khi đặt chân xuống đến đất anh mới thấy vui mừng vì mặt đất an toàn. Quờ quạng hồi lâu anh mới tìm thấy Alan Banks cách đấy khoảng ba mươi mét, nằm ngửa bất động.
Adam hỏi:
-Anh cósao không?
-Tôi không sao. Chắc là tôi bịbắn khỏi máy bay. Anh bạn, xin lỗi vì cúhạcánh này. Phải thừa nhận làcẩu thả. Cần phải tập nhiều lần nữa mớiđược.
Adam phálên cười trong khi người phi công chậm chạp ngồi dậy.
Banks hỏi:
-Sau đây làm gìbây giờ?
-Anh cóđiđược không?
Alan loạng choạng đứng dậy, nói:
-Tôi nghĩlàđược. Mẹkiếp. Chỉcóđiều mắt cábị trẹo nhấtđịnh sẽlàm tôiđi chậm hơn nhiều. Tốt hơn làanh đi trước điđừng chờ tôi.Cái bọnđầy súng ống đó chỉcách chúng ta khoảng ba mươi dặm làcùng
-Nhưng anh sẽlàm thếnào?
-Cha tôiđã hạ cánh xuống một trong những cánh đồng đẫm máu trong chiến tranh thếgiới thứhai màvẫn mòđược vềđến Anh màkhông bịbọnĐức tóm được. Adam, tôi nợanh một món nọlớnđấy, bởi vìnếu nhưcóthểquay lại thì tôi sẽcóthểbắt hắn câm miệng lại.
Adam bất giác sờ vào bức tranh Thánh vàyên tâm thấy nóvẫn nằm yên trong túiáo. Những lời của người phi công chỉ làm anh thêm quyết tâm trởvềAnh.
Adam hỏi:
-Điđường nào bây giờ?
Banks ngước nhìn chòm Đại Hùng tinh:
-Tôi sẽđi về phíađông, cóvẻtiện hơn. Vậy anh nên đi vềphía tây, anh bạnạ.Rất hay làđược làm quen với anh.
Nói xong anh ta trườn đi.
-Thưa thiếu tá, không biết tôi cóthểchịuđựng được bao lâu nữa.
Romanov nói:
-Phải cốgắng chịu đựng, Valcheck. Quan trọng làphải cốgắng. Lúc này không thểdừng lạiđược. Chắc chắn là chiếc máy bay rơi cách đây không xa. Tôi thấy nórơi ởđằng kia mà.
-Tôi tin anh. Nhưng ít nhất hãy nói cho tôi chết bình yên bên vệđường còn hơn làphải chịuđựng đau đớn trong cái xe này.
Romanov nhìn người đồng đội bịthương ởbụng.Tay Valcheck đầy máu. Áo sơmi vàquần của anh đãướt đẫm, tay anh luônôm lấy bụng giống nhưmộtđứa trẻlàm vẻốm. Người lái xe cũng trúng đạn, nhưng phátđạn găm vào lưng trong khi anh ta định bỏ chạy. Nếu nhưanh ta không chết ngay thìhẳn Romanov đã phải tựmình bắn thêm một phát nữa vào giữa hai vai anh ta. Nhưng Valcheck làchuyện khác. Không ai có thểnghi ngờvềlòng dũng cảm của anh. Valcheck chính làngười đầu tiên nãđạn vào giữa bụng bọn người Anh, thếrồi bọn người Mỹnhảy vào. NhờcóMentor màRomanov biết chắc rằng hắn vàđồng đội sẽcómặt trước tiên. Nhưng bây giờnhấtđịnh phải cảnh cáo cho Mentor biết rằng còn cómột kẻnữađã báo cho bọn Mỹbiết. Dùsao thìRomanov cũng phần nào thỏa mãn vìđã lừađược bọn Mỹbắn vào bọn Anh trong khi hắn vàValcheck chờđể bắt lấy kẻsống sót. Kẻsống sót cuối cùng là một người Mỹđã liên tục bắn vào Valcheck trong khi hai người đang tìmđường chạy thoát.
Romanov tính toán thấy hắn cókhoảng một giờtrước khi người Pháp, người Anh vàngười Mỹcóthểđến để thu dọn các xác chết trên một sân bay bỏhoang. Ýnghĩcủa Romanov quay vềthực tại khi tiếng rên của Valcheck đập vào tai. Anh ta van xin:
-Hãy ra khỏi cách rừng nàyđi. Bây giờtôi không còn hy vọng sống được bao nhiêu nữađâu.
Romanov nhắc lại:
-Cốchịuđựng, cốchịuđựng. Chúng ta không Scott lắm nữa đâu.
Valcheck nói:
-Hãy mặc cho tôi chết yên lành.
Romanov nhìn sang và nhận ra rằng chỉmấy phút nữa làcóthể hắnđã phải kẹtởđây với một cái xác chết. Mặc mọi cốgắng của Valcheck, lúc này máu bắtđầu chảy nhưsuối xuống sàn xe.
Romanov nhận thấy quãng trống giữa những bụi cây phía trước. Hắn bậtđèn pha vàcho xe rời khỏiđường rẽvào một con đường gồghềlầy lội. Hắn lái xe thật sâu vào rừng cho đến khi cây cối trởnên dày đặc rồi mới dừng lại, tắtđèn vàchạy vòng qua đằng trước để mởcửa xe.
Valcheck chỉđi được cóhai ba bước đã ngãkhuỵu xuống đất, tay vẫnôm chặt bụng. Romanov cúi xuống giúp anh dựa vào một thân cây to.
-Hãyđể mặc tôi chết, thiếu tá.Đừng vìtôi màđể phí chút thìgiờnào nữa.
Romanov nhăn mặt hỏi:
-Cậu muốn chết như thếnào? Từtừvàđau đớn, hay nhanh chóng vàyênả?
-Cứ mặc tôi. Cứ để tôi chết từ từ. Nhưng anh nênđi ngay trong khi còn có thể theo hút được Scott.
-Nhưng nếu bọn Mỹ tìm được cậu, có thể chúng sẽ buộc cậu phải nói.
-Thiếu tá biết rõ tôi mà.
Romanov nhận lời trách cứ, hắnđứng dậy và sau một thoáng suy nghĩ bèn chạy ra xe.
Valcheck bắtđầu cầu nguyện may ra cóai đó sẽ tìm được anh. Anh chưa bao giờ muốn nhận nhiệm vụnày, nhưng Yuri cần đặt thêm một đôi mắt bên cạnh Romanov vàYuri làmột người không thể qua mặt được, Valcheck sẽ không khai, nhưng anh vẫn còn muốn sống.
Viênđạn từ khẩu Makarow chín ly xuyên thẳng từ thái dương qua đầu Valcheck. Anh ngã gục trên mặt đất và trong nhiều giây sau đó, xác anh vẫn run lên bần bật và quằn quại trên nền đất nâu thẫm.
Sáng hôm sau khi thức dậy lão lại cảm thấy cảm giác tội lỗi quen thuộc. Một lần nữa lão thề rằng đây là lần cuối cùng. Điều đó chẳng bao giờ thích thú như lão nghĩ và nỗi hối hận dai dẳng đeo theo lão trong nhiều giờ sau đó.
Chi phícắt cổ cho việc giữmột căn hộ sang trọng, tiền taxi và hóa đơn cho câu lạc bộ gần nhưcó thể ngăn cản lão. Nhưng lão luôn luôn trở lại như một con cá hồi trở về tổ của nó dưới đấy biển.
Lão ngâm mình trong bọt xà phòng và nghĩ đến Scott. Lão biết lẽ ra lão phải cảm thấy tội lỗi vì cái chết của anh ta. Cái chết đó, cũng giống như bao nhiêu cái chết trước đó.
Nhưng Mentor không bao giờ quên tên gãsĩquan trẻtuổiđã bỗng nhiên ngồiởphía cuối giường khi lão tỉnh dậy sáng hôm sau vàcái nhìnđầy khinh miệt mà gãđã chiếu vào lão.
Bình luận truyện