Tử Thư Tây Hạ
Quyển 1 - Chương 18: Đêm đại thảm sát trong thành
1
Trầm ngâm một hồi lâu, Đường Phong thấy Đại Lạt ma ngừng đọc kinh mới rón rén phá vỡ bầu không khí im lặng này: “Vậy sau... sau đó nhánh người Đảng Hạng các ông sao đã đến đây?”
“Trước khi Tây Hạ mất nước, tổ tiên của các ông chính là một chi trong bốn nhánh người cưỡi ngựa mang theo kệ tranh ngọc thoát khỏi Hưng Khánh Phủ?” Hàn Giang nói chêm vào.
Đại Lạt ma khẽ thở dài một tiếng, đáp: “Không! Tổ tiên của chúng tôi không phải là mấy nhánh người cưỡi ngựa mà Ngôi Danh Hiển cuối cùng phái đi, tổ tiên của gia tộc chúng tôi chính là Một Tạng Ngoa Bàng mà tôi kể trước đó.”
“A! Thảo nào trên rất nhiều vò tro cốt mà chúng tôi nhìn thấy trong đại sảnh trụ cột đều viết hai chữ ‘Một Tạng’ hóa ra các ông chính là con cháu của Một Tạng Thị!” Đường Phong vô cùng ngạc nhiên trước phát hiện bất ngờ này.
“Không sai, chúng tôi đều là con cháu của gia tộc Một Tạng, sau khi Một Tạng Ngoa Bàng chết, gia tộc Một Tạng cũng liền thất thế, để tránh tai họa, người trong gia tộc Một Tạng đã di cư tới Hạ Lan Sơn và ở đó mãi cho tới những giây phút cuối cùng của vương quốc. Bao nhiêu năm qua, nhiều đời gia tộc chúng tôi đều lưu truyền một truyền thuyết thế này: khi Hưng Khánh Phủ bị đại quân Mông Cổ đánh bại, có một thiếu niên áo trắng, khoác một tay nải chạy tới thôn xóm mà gia tộc Một Tạng sinh sống. Rồi từ những gì thiếu niên này kể lại, người trong gia tộc mới biết được Hưng Khánh Phủ đã bị người Mông Cổ đánh bại, và đó là một trận đại thảm sát đẫm máu. Người Mông Cổ từ trước tới nay luôn có truyền thống giết cho bằng sạch, nhưng đối với thành trì đầu hàng, thì họ sẽ nới lỏng tay, nhưng lần này thì người Đảng Hạng không may mắn như vậy nữa. Để bách tính trong thành có thể may mắn tránh được nạn này, Ngôi Danh Hiển đã dẫn đầu đoàn người mở cửa thành, đầu hàng người Mông Cổ. Lúc này ông không biết gì về tin tức Thành Cát Tư Hãn đã chết, nên khi ông dẫn đầu đoàn người đến đại doanh trại thì mới biết tin Thành Cát Tư Hãn đã chết. Nhưng lúc đó hối hận thì đã muộn rồi, người Mông Cổ không còn giống như trước đây là tha thứ cho kẻ đầu hàng. Do Thành Cát Tư Hãn chết tại Tây Hạ, nên bất luận có phải là do người Đảng Hạng giết chết hay không, thì người Mông Cổ vẫn thề rằng phải báo thù cho Thành Cát Tư Hãn. Vì vậy người Mông Cổ giết Ngôi Danh Hiển đầu tiên, sau đó mới đại thảm sát người Đảng Hạng. Đêm hôm đó, trong Hưng Khánh Phủ máu chảy thành sông, cảnh tượng vô cùng thê thảm. Thiếu niên áo trắng phải đánh phá nhiều vòng vây mới thoát ra được.”
“Trong tay nải của thiếu niên áo trắng đựng gì vậy?” Hàn Giang truy hỏi.
“Là một tấm kệ tranh ngọc. Theo như thiếu niên áo trắng kể lại, bốn tốp người cưỡi ngựa theo lệnh Ngôi Danh Hiển mang theo kệ tranh ngọc ra khỏi thành đã bị kị binh Mông Cổ đánh cho tan tác, trong đó có một đội người cưỡi ngựa bị ép quay trở lại trong thành. Khi vỡ thành, một phụ nữ đã giao phó cho thiếu niên áo trắng này một tay nải. Khi thiếu niên áo trắng khoác tay nải chạy thoát tới Hạ Lan Sơn, lưng trúng vô số mũi tên, phía sau còn bị kị binh Mông Cổ truy đuổi. May mà thôn xóm mà gia tộc Một Tạng sinh sống ẩn nấp trong một khe núi sâu, nên kị binh Mông Cổ nhất thời không thể tìm thấy thôn xóm của gia tộc Một Tạng. Khi thiếu niên áo trắng mở tay nải ra, mọi người mới phát hiện bên trong là một kệ tranh ngọc. Đợi đến tối, kị binh Mông Cổ rút quân, tộc trưởng liền quyết định mang kệ tranh ngọc của cả dân tộc rời khỏi Hạ Lan Sơn, rời khỏi bình nguyên Tây Hạ giàu có tươi đẹp.”
“Từ đó, nhánh người Đảng Hạng các ông đã bước lên con đường trở về nhà.” Đường Phong tiếp lời.
“Không sai, về nhà! Hạ Lan Sơn, bình nguyên Tây Hạ là nhà của chúng tôi, nhưng ở đó đã không còn thuộc về chúng tôi nữa, giống như người Đảng Hạng năm nào vì sinh tồn nên đã rời khỏi nơi cố hương, di cư tới đây. Vì sinh tồn, người Đảng Hạng chúng tôi lại lần nữa bước lên con đường di cư, đây chính là số phận của dân tộc du mục. Thượng nguồn sông Hoàng Hà, nguồn sông Bạch Hà chính là cố hương ban đầu của người Đảng Hạng chúng tôi. Con đường trở về nhà xa xôi đằng đẵng, biết bao người trong gia tộc đã bỏ mạng lại chốn hoang vu. Khi vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh, lại gặp phải bão tuyết. Đúng lúc toàn bộ gia tộc sắp chết cóng thì họ đã phát hiện ra một sơn động trong thung lũng dưới dải băng, nói đúng hơn, đó là một thạch thất!”
2
“Hắc Đầu Thạch Thất!” Đường Phong và Hàn Giang đều kinh ngạc.
Đại Lạt ma hình như cũng khó mà che giấu được sự phấn khích trong lòng, ông rõ ràng đã cất cao giọng, “Hắc Đầu Thạch Thất, vùng đất tốt lành mà tổ tiên chúng tôi phát hiện ra, toàn gia tộc đều chui vào trong thạch thất đó, bên ngoài băng tuyết trắng trời, nhưng trong thạch thất lại ấm ấp như mùa xuân, thạch thất đã cứu mạng toàn bộ gia tộc. Lúc này, tộc trưởng và thiếu niên áo trắng mới nhớ ra kệ tranh ngọc, thiếu niên áo trắng lôi kệ tranh ngọc ra, mọi người tỉ mẩn quan sát thì phát hiện ra trên kệ tranh ngọc có khắc mấy câu thơ mông lung khó hiểu, mọi người trong gia tộc đều không hiểu ý nghĩa của những câu thơ này, chỉ có thiếu niên áo trắng là hiểu ra hàm ý của chúng.”
“Câu thơ đầu tiên trên kệ tranh ngọc này có phải là ‘Trường miên di dược nhân quốc tại bỉ’ không?” Đường Phong đột nhiên nhớ ra phán đoán của giáo sư La trước đây.
“Trên kệ tranh ngọc này rút cuộc khắc những câu thơ gì, tôi căn bản cũng không thể biết được. Tóm lại, thiếu niên áo trắng hiểu ra hàm ý của câu thơ trên kệ tranh ngọc nên nói: ‘Tấm kệ tranh ngọc này vốn phải cất giữ tại Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng do chúng ta tránh bão tuyết nên mới tới Hắc Đầu Thạch Thất, đây cũng là lời hiệu triệu của ông trời, ý chỉ của thần tiên. Người trong gia tộc nghe thấy vậy, cùng nhau quỳ gối tạ ơn ông trời phù hộ, kể từ đó, tấm kệ tranh ngọc này đã được cất giữ trong Hắc Đầu Thạch Thất.”
“Sau đó thì sao?” Makarov hỏi.
“Sau đó chúng tôi vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh, hướng về phía nam, quay lại đây, cũng chính là quay trở lại đại sơn trong vùng tây bắc Tứ Xuyên, mai danh ẩn tích ẩn cư ở đây. Và như vậy, qua hơn một trăm năm sau, những người trong gia tộc ẩn cư tại vùng núi này mới nghe nói về việc đã thay đổi triều chính, vương triều Nguyên Mông đã bị diệt vong từ trước đó rất lâu. Vậy là, người trong gia tộc liền lục đục kéo nhau ra khỏi vùng núi, sinh sống cùng những dân tộc khác như Khương, Hán, Tạng... Hoàng đế triều Minh còn sắc phong cho nhánh người Đảng Hạng chúng tôi là thổ ty, kéo dài mãi cho tới tận những năm đầu Dân quốc. Sau này, chiến tranh loạn lạc, cộng thêm nhân khẩu thưa thớt, chúng tôi từ bỏ Khương Trại đã điều hành nhiều năm, tất cả đều đến đây, Thất Sắc Cẩm Hải, đào nguyên ngoại thế của chúng tôi, miền đất vui sống của người Đảng Hạng cuối cùng.”
“Nếu như vậy, đối chiếu lại tất cả mọi việc, tòa Khương Trại mà chúng tôi nhìn thấy trong vùng núi chính là di tích mà các ông để lại, thảo nào vẫn bảo tồn tốt như vậy.” Đường Phong nói.
“Khương Trại? Các cậu đã đến Khương Trại đó rồi? Tòa Khương Trại đó vẫn ổn chứ? Tuổi thơ của tôi đã trải qua ở đó đấy!” Nói xong, ánh mắt Đại Lạt ma cũng bừng sáng. Đường Phong định nói tiếp nhưng đã kịp ngừng lại, anh thực lòng không nhẫn tâm nói ra tòa Khương Trại đó đã bị đám người truy sát họ phá hủy. Đại Lạt ma chắc chắn không thể chấp nhận sự thật này. Anh đành phải nói qua chuyện: “Ồ!... tòa Khương Trại đó... vẫn ổn! Chỉ có điều lâu năm rồi nên cũ kĩ thôi.” Đường Phong đột nhiên nhớ ra địa đạo trong Khương Trại, sự tò mò đã thôi thúc anh thỉnh giáo Đại Lạt ma: “Ông có còn nhớ dưới đáy Khương Trại có một địa đạo không? Bên trong địa đạo sao lại có nhiều xương người như vậy?”
“Địa đạo, xương người? Lúc còn nhỏ tôi đã từng nghe người lớn nói qua, những xương người đó là xương của kẻ địch mà chúng tôi thu thập sau khi gia tộc chúng tôi chiến thắng chúng, còn tại sao lại làm như vậy thì tôi nghĩ có lẽ là để phơi bày chiến công!” Đại Lạt ma giải thích.
“Trong địa đạo chúng tôi nhìn thấy những xương người đó chất thành núi, chặn đứng đường đi, ông có biết phía cuối địa đạo có gì không?” Đường Phong lại hỏi.
Đại Lạt ma khẽ lắc đầu, đáp: “Tôi cũng không biết, nghe tộc trưởng nói thì phía cuối địa đạo đó thông với một chiếc giếng, ngoài những điều này ra thì tôi không nghe thấy gì nữa.”
“Giếng?” Trong đầu Đường Phong lập tức hiện lên cảnh tượng khủng khiếp khi Stephen rơi xuống giếng.
Lúc này, Đại Lạt ma lại chậm rãi nói với ba người: “Những gì tôi biết đều đã nói hết với các anh rồi, các anh phải thề rằng sẽ giữ bí mật này cho chúng tôi.”
Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghe xong, cùng nhìn nhau, không ai trong số họ có thể đảm bảo. Bởi muốn đến Hắc Đầu Thạch Thất tìm kệ tranh ngọc thứ hai thì khó tránh khỏi để người ngoài, đặc biệt là những kẻ truy sát họ biết về bí mật này, không biết chừng những người đó chẳng mấy chốc sẽ tìm được họ. Lòng Đường Phong đột nhiên dâng trào một dự cảm không lành.
3
Đường Phong đang không biết phải trả lời Đại Lạt ma thế nào thì Hàn Giang lại mở miệng hỏi: “Nhưng chúng tôi vẫn còn một chuyện chưa hiểu lắm, trong hang động đá vôi chúng tôi thấy có hai bộ xương người, căn cứ vào đồ vật họ để lại mà phán đoán, hai bộ xương trắng này hình như là vào trong động những năm 40 của thế kỷ trước, rồi sau đó xảy ra tai nạn, chết trong động. Ngài có thể cung cấp cho chúng tôi một số manh mối về hai người này không?”
Đại Lạt ma nghe xong câu hỏi của Hàn Giang, ngẫm nghĩ mãi một lúc, đột nhiên hỏi: “Lẽ nào âm hồn của họ không siêu thoát?”
“Âm hồn nào không siêu thoát?” Hàn Giang truy hỏi.
Đại Lạt ma cố gắng hết sức duy trì sự bình tĩnh, chậm rãi nói: “Bao nhiêu năm qua, cũng có một số người bên ngoài lạc vào Thất Sắc Cẩm Hải, họ phần lớn là khách du lịch, hoặc là thợ săn ở gần đây. Sau khi họ thề sẽ giúp chúng tôi giữ bí mật, chúng tôi đều đưa họ ra khỏi đây an toàn, những người đó cũng đều tuân thủ theo lời thề của mình, không nói ra bí mật của chúng tôi, bởi vậy chúng tôi mới có thể sống yên bình ở đây đến ngày hôm nay. Nhưng, mấy chục năm trước, đã từng có mấy người giống như các anh, đến đây vì kệ tranh ngọc.”
“Sao cơ? Ông... ông nói là hai bộ xương đó cũng vì kệ tranh ngọc nên đến đây?” Đường Phong vô cùng kinh ngạc.
“Đúng vậy, nếu như tôi phán đoán không nhầm, xương trắng trong động chắc là họ. Nhưng họ không phải là hai người mà là bốn người, bốn người đàn ông. Bốn người khách từ phương xa tới, đến chỗ chúng tôi vào một buổi chiều chạng vạng. Bốn người họ không giống các anh thông qua hang động đến đây, mà là vượt qua núi non, trải qua bao gian khổ mới tìm được đến đây. Bốn người họ xem ra rất điềm đạm nho nhã, tác phong cẩn thận, đối với tộc trưởng và sư phụ của tôi đều rất lễ phép cung kính. Họ tự xưng là du khách, vô tình lạc tới đây, rồi đưa tặng chúng tôi da thú, nhân sâm, thuốc lá sợi... cùng rất nhiều lễ vật khác, thậm chí còn có cả hai thỏi vàng. Vậy là, chúng tôi liền giữ họ ở lại, định là qua mấy hôm sẽ đưa họ ra khỏi đây. Nhưng mấy người này lại không muốn vội đi, hàng ngày họ ăn no xong là lại đi dạo khắp nơi, còn không ngừng tìm người dân bản hỏi này hỏi nọ, dò hỏi thông tin, trong đó, họ đã nhắc đến kệ tranh ngọc...
Hành động của họ đã khiến cho người trong bộ tộc hoài nghi. Nếu như họ là du khách bất cẩn lạc đến đây thì trên người sao lại mang theo nhiều lễ vật như vậy? Hơn nữa, đó là những năm tháng loạn lạc, ai mà có tâm trạng đến nơi hoang vu hẻo lánh thế này để ngao du thưởng ngoạn non nước? Cộng hàng loạt những hành động khác thường của họ ở đây, tộc trưởng nghi ngờ nên đã gọi mấy người đó đến, hỏi họ rút cuộc là ai, rút cuộc đến đây vì cái gì? Lần này, bốn người đó cũng không giấu giếm nữa, nói thẳng vào vấn đề, họ đến đây là vì kệ tranh ngọc của vương triều Tây Hạ. Người đàn ông cao tuổi nhất trong số họ còn đưa cả giấy chứng nhận của anh ta ra cho tộc trưởng xem.”
“Giấy chứng nhận? Anh ta là ai.” Đường Phong hỏi.
“Người đàn ông lớn tuổi nhất đứng đầu bốn người, ước chừng khoảng hơn bốn mươi, chưa tới năm mươi tuổi. Trên giấy chứng nhận ghi rõ thân phận của anh ta là thượng tá cục bảo mật, ba người đàn ông còn lại, một người khoảng ngoài ba mươi tuổi, hai người kia còn rất trẻ, nhìn bề ngoài cũng chỉ ngoài hai mươi, mà một thanh niên trong đó trông rất giống người đàn ông cao tuổi. Ba người kia không đưa ra giấy chứng nhận, chúng tôi không hề biết thân phận của họ, nhưng tôi suy đoán, chắc là họ cùng hội với thượng tá cục bảo mật.”
“Thượng tá cục bảo mật? Ngài còn nhớ ông ta tên là gì không?” Mối tơ vò vốn dĩ đã được tháo gỡ giờ lại trở nên phức tạp khiến Đường Phong cảm thấy bất ngờ.
“Thời gian trôi qua lâu quá rồi, thật sự là không nhớ nổi. Sau khi vị thượng tá đó nói rõ thân phận, liền lập tức đổi giọng, không còn điềm đạm nho nhã như trước nữa mà truyền đạt thông điệp cuối cùng cho chúng tôi. Anh ta tự xưng là theo lệnh của chính phủ Quốc dân đến đây để tìm kiếm kệ tranh ngọc và yêu cầu chúng tôi giao nộp kệ tranh ngọc. Nói xong, anh ta còn đưa cho tộc trưởng xem một công hàm của chính phủ Quốc dân. Tộc trưởng bán tín bán nghi chẳng biết công hàm này là thật hay giả, nhưng trong lòng ông thì đã quyết định từ trước đó lâu rồi, bất kể công hàm là thật hay giả, trong những năm tháng loạn lạc thế này, tuyệt đối không thể giao nộp báu vật mà tổ tông truyền lại. Vậy là, tộc trưởng quyết cự tuyệt yêu cầu vô lý của họ, đồng thời phái người giam lỏng bốn người này lại.”
“Sau đó bốn người đó thế nào?” Makarov quan tâm hỏi.
“Bốn người này không hề kháng cự, ngoan ngoãn để chúng tôi giam lỏng lại. Tộc trưởng và những người đại diện cho mọi người đã bàn bạc cách xử lý bốn người này thế nào. Có người cho rằng nên đưa họ ra ngoài, có người lại bảo phải giết họ. Nếu đưa họ ra ngoài thì e rằng họ sẽ quay lại, đến lúc đó, hối hận thì đã muộn. Nếu giết họ, ngộ nhỡ họ đúng là người của chính phủ, khi cục bảo mật truy cứu ra, thì... thì cũng không an toàn. Cuối cùng, vẫn là sư phụ của tôi đưa ra chủ ý: sư phụ và tộc trưởng giả vờ đứng bên ngoài căn phòng giam lỏng bốn người đó nói chuyện, lúc nói thì cố ý để lộ ra là kệ tranh ngọc đang giấu trong hang núi cạnh hồ nước... Quả nhiên, sáng sớm hôm sau, bốn người họ đều trốn đi. Chúng tôi không biết rốt cuộc họ đã đi đâu, nhưng tóm lại, họ không bao giờ quay lại nữa.”
“Khỏi phải hỏi, bốn người đó chắc chắn đã nghe thấy những gì hai người nói chuyện và đã đến hang động đá vôi tìm kệ tranh ngọc, rồi kết quả là đã xảy ra chuyện trong hang động và mất mạng trong đó.” Đường Phong suy đoán.
“Nhưng vẫn còn hai người nữa đâu? Chúng tôi chỉ thấy hai bộ xương trắng.” Lời của Hàn Giang khiến mọi người lại chìm trong im lặng.
4
Cả buổi sáng, Đường Phong vẫn suy nghĩ về hai bộ xương trắng không xuất hiện trong hang động đá vôi, còn Hàn Giang suy đoán nói: “Khả năng hai người đó chết ở chỗ khác, chẳng qua là chúng ta không nhìn thấy; cũng có khả năng sau khi họ chạy ra ngoài đã không quay lại nữa. Những năm tháng loạn lạc đó ai mà biết được chuyện gì đã xảy ra.”
Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi, lắc lắc đầu, anh không tin sự việc lại đơn giản như vậy. Buổi trưa lúc ăn cơm, Lương Viện rút cuộc đã tỉnh lại. Hắc Vân lại cho cô ấy uống thêm bát thuốc, sắc mặt Lương Viện đã hồng hào, xem ra không khác gì người khỏe mạnh. Đường Phong vui mừng khôn xiết, vội vàng kể tóm tắt lại cho Lương Viện nghe những chuyện xảy ra mấy ngày qua. Lương Viện nghe xong vô cùng bất ngờ, thậm chí còn không thể tin được.
Ăn trưa xong, mọi người đều đi nghỉ ngơi. Đường Phong nằm trên giường trong căn nhà gỗ, nhưng không sao ngủ được. Bộ xương trắng xông vào hang động rút cuộc là ai? Bước tiếp theo nên làm thế nào? Trong đầu Đường Phong toàn dấu hỏi, trở mình lật qua lật lại mãi cũng không sao ngủ được, anh liền ngồi dậy, ra ngoài sân. Anh ngẩng đầu nhìn lên đỉnh tuyết sơn phía xa xa, đỉnh núi ban sáng còn nhìn thấy rõ mồn một, giờ đã bị mây khói đặc kín bao phủ, và cả bầu trời cũng tối sầm xuống. Lòng Đường Phong bất giác bị bóng đen bao trùm.
Đúng lúc Đường Phong đang hết sức ngạc nhiên thì Đại Lạt ma lại gọi mọi người vào trong Phật đường. Đại Lạt ma giống như vừa qua một hồi suy nghĩ thấu đáo, ông nói với mọi người: “Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi, bây giờ sẽ tiễn các anh đi.”
“Bây giờ? Sao nhanh vậy?” Đường Phong có chút ngạc nhiên.
Đại Lạt ma nói: “Thực ra, ban sáng tôi đã có ý này, nhưng thấy cô gái đó vẫn chưa tỉnh dậy, nên không... hiện giờ, sức khỏe của cô ấy đã hồi phục, nên đã đến lúc ra đi rồi, không nên ở lại đây lâu.”
“Tại sao chứ? Cháu vẫn muốn ở lại thêm vài ngày cơ!” Lương Viện nhìn cảnh đẹp ngoài cửa sổ, lưu luyến không nỡ bỏ đi.
Đại Lạt ma không trả lời Lương Viện, mà lại lầm rầm đọc một đoạn kinh văn mù mờ khó hiểu, giống như một câu thần chú gì đấy. Theo tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma, trong lòng Makarov lại trào lên một dự cảm không lành. Lúc này, Hàn Giang đã mở miệng, phá vỡ đoạn kinh tụng long trọng và nghiêm trang: “Cảm ơn sự khoản đãi của ông và việc ông kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện liên quan tới kệ tranh ngọc Tây Hạ, thế nhưng tôi vẫn có một chuyện không liên quan tới kệ tranh ngọc muốn thỉnh giáo là: tại sao ông lại phản đối chuyện hôn nhân của em gái Hắc Vân?”
Đại Lạt ma nhìn Hàn Giang một cái, sau đó khẽ thở dài, giải thích: “Đó là vì Đảng Hạng, vì sự thanh tịnh của quốc thổ. Buổi sáng tôi đã kể rồi đấy, sau khi Tây Hạ diệt vong, tây bắc Tứ Xuyên là nơi đầu tiên mà rất nhiều người Đảng Hạng chọn để thoát thân, không chỉ đơn thuần là vì tình cảm và sự trốn tránh, mà đó cũng là sự chọn lựa thực tế, vì đây là con đường nhanh gọn nhất. Bởi vậy, không chỉ có nhánh người Đảng Hạng chúng tôi đến đấy, mà còn có rất nhiều người Đảng Hạng khác chạy tới phía tây Tứ Xuyên. Có thể nói, đây là nơi cư ngụ lớn nhất của người Đảng Hạng sau khi Tây Hạ bị diệt vong. Nhưng theo dòng thời gian trôi đi, người Đảng Hạng ở phía tây Tứ Xuyên ngày càng ít đi. Khi tìm hiểu nguyên nhân, thì ngoài chiến loạn, bệnh tật, môi trường sinh tồn gian khổ ra, thì còn là vì do hôn nhân khác tộc…”
“Nhưng em gái Hắc Vân và người thanh niên đó đều là người dân tộc ông mà?” Đường Phong nói xen vào.
“Mong anh hãy đừng ngắt ngang lời tôi nói, anh nói không sai, hai người họ đều là người địa phương, huyết quản của họ đều chảy dòng máu của người Đảng Hạng chúng tôi, bởi vậy họ mới chọn cái cách kết thúc sinh mệnh oanh liệt đến như vậy. Nhưng, họ... những thanh niên ở đây đã chán ghét cuộc sống ở vùng núi này, chàng trai đó mấy năm trước đã trốn khỏi vùng núi, lần này trở về là muốn kết hôn với Bạch Vân, sau đó đưa nó đi đến với thế giới bên ngoài, bởi vậy...”
5
Đường Phong rút cuộc đã hiểu rõ nguyên nhân tại sao em gái Hắc Vân lại nhảy vực, anh không thể không có chút phẫn nộ trước sự vô tình vô lý của Đại Lạt ma: “Thảo nào ông muốn phản đối hôn nhân của họ, hơn nữa còn không để người trong tộc biết về thân thế thực sự của họ, nhưng đây lại là việc không thể nào khác, bởi theo dòng phát triển của lịch sử, rất nhiều dân tộc đã biến mất trong dòng sông dài của lịch sử. Thực ra, người Đảng Hạng vốn không bị diệt vong, mà họ đã hòa nhập vào các dân tộc Hán, Hồi, Khương, Mông... Đây là xu thế của lịch sử, không phải mình ông là có thể thay đổi được.”
Đại Lạt ma nghe xong những lời Đường Phong nói, đột nhiên trở nên kích động, hét lên với Đường Phong: “Không! Tôi không thể tha thứ cho những gì anh vừa nói, sức lực và thời gian của cả đời tôi đều dùng để duy trì sự kế tục của dân tộc Đảng Hạng. Đây cũng là điều mà ân sư của tôi cả đời theo đuổi, nên tôi không thể phụ những kỳ vọng của ông. Anh... anh không thể dựa vào mấy câu nói mà phủ nhận cả cuộc đời tôi.”
Tất cả mọi người, bao gồm cả Hắc Vân đều bị tiếng hét thất thái của Đại Lạt ma làm cho sững sờ. Đường Phong hiểu rằng, những lời anh nói ban nãy đã chọc đúng nỗi đau của Đại Lạt ma. Anh đang định xin lỗi ông thì Hàn Giang lại hiểu sai, kéo Đường Phong lại nói nhỏ vào tai: “Đừng cãi nữa, không để làm gì đâu, đừng có quên nhiệm vụ của chúng ta.”
Hàn Giang giữ Đường Phong lại, tự mình mở miệng nói với Đại Lạt ma: “Xin lỗi, chúng tôi đã vô ý can thiệp vào cuộc sống yên bình của các ông, chúng tôi xin đón nhận lời cảnh báo của ông, nhanh chóng rời khỏi đây, nhưng, tôi vẫn muốn hỏi thăm ông một số tình hình liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất.”
Đại Lạt ma đã bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói: “Liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất? Anh không cần hỏi tôi, bởi vì tôi cũng chưa từng đến Hắc Đầu Thạch Thất. Tôi đã từng nói rồi, đó chỉ là một truyền thuyết, Hắc Đầu Thạch Thất có thật sự tồn tại hay không, đó cũng là một vấn đề. Tuy người Đảng Hạng chúng tôi vô cùng tin tưởng vào điều đó, hơn nữa nhánh người Đảng Hạng chúng tôi đây còn phải gánh vác trọng trách bảo vệ Hắc Đầu Thạch Thất. Nhưng đã bao nhiêu năm qua, vẫn chưa có ai từng tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất, nên không ai biết rốt cuộc là Hắc Đầu Thạch Thất ở đâu. A Ni Mã Khanh, đó có lẽ chỉ là một truyền thuyết xa xăm.”
Đường Phong nghe xong những lời này của Đại Lạt ma, có chút thất vọng, nhưng anh đột nhiên nhớ tới tấm bản đồ da dê mà mình lấy được ở Phật điện lụp xụp tại Lang Mộc Tự hiện đang cất trong người. Biết đâu Đại Lạt ma lại biết về tấm bản đồ đó, biết đâu trên tấm bản đồ da dê đó lại đánh dấu vị trí của Hắc Đầu Thạch Thất. Nghĩ tới đây, Đường Phong liền lôi tấm bản đồ da dê ra, đưa cho Đại Lạt ma, ai ngờ, câu trả lời của Đại Lạt ma càng khiến anh thất vọng hơn. Đại Lạt ma sau khi tỉ mẩn ngắm nghía tấm bản đồ da dê liền đáp: “Tôi biết một số văn Tạng cổ, nhưng, đây chỉ là một tấm bản đồ thông thường, niên đại cũng không xa lắm, bên trên không đánh dấu Hắc Đầu Thạch Thất, cũng không có bất cứ manh mối có giá trị nào!”
Đường Phong không có được tin tức gì liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất từ Đại Lạt ma, không tránh khỏi thất vọng, anh đổi hướng suy nghĩ: đã không hỏi được gì thì thà đi sớm còn hơn. Đường Phong gật gù, hỏi Đại Lạt ma: “Vậy được, chúng tôi đón nhận sự sắp xếp của ông, bao giờ đi?”
“Ngay bây giờ!” Đại Lạt ma nói như đinh đóng cột.
“Ngay bây giờ? Tại sao không đợi tới sáng mai?” Đường Phong không hiểu.
“Bởi vì tôi cảm nhận thấy nguy hiểm.”
“Nguy hiểm ư?”
“Đúng vậy, tôi để Hắc Vân đưa các anh đi, các anh có thể yên tâm về nó.” Đại Lạt ma nói tới đây, quay lại nói với Hắc Vân đứng bên cạnh: “Hắc Vân, bây giờ chúng ta ăn cơm thôi, các con ăn cơm xong là có thể lên đường sớm hơn.”
Trong phòng lại yên ắng trở lại. Hắc Vân đảm đang chẳng mấy chốc đã chuẩn bị xong bữa cơm, nhưng mọi người hình như đều không muốn ăn. Đường Phong ép mình nuốt vài miếng xuống bụng, ngẩng đầu nhìn nhìn Đại Lạt ma, rồi lại âm thầm nhìn Hắc Vân đang ăn cơm, có lời muốn nói, nhưng lời vừa kề miệng lại bị anh nuốt lại.
Đường Phong vừa ăn cơm, vừa sắp xếp lại đồ đạc anh mang theo bên mình. Đại Lạt ma đã đặt súng của ba người lên bàn, Đường Phong cầm khẩu súng ngắn 92 của mình lên, kiểm tra một lượt, không có vấn đề gì cả, chỉ có điều: đạn trong băng đạn chỉ còn lại bốn viên. Anh lại xem súng của Hàn Giang, tốt hơn của anh một chút, bên trong có bảy viên đạn. Vẫn là Makarov kinh nghiệm phong phú, băng đạn của khẩu súng ngắn Walther P5 9mm vẫn đầy ắp, Đường Phong nhủ thầm: đúng là gừng càng già càng cay!
6
Đường Phong kiểm tra trang bị xong xuôi, nhìn Hàn Giang, rồi lại nhìn Đại Lạt ma đang trầm ngâm, đột nhiên anh hỏi: “Lẽ nào ông không muốn biết chúng tôi đã có được kệ tranh ngọc bằng cách nào?”
Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: “Không cần hỏi, lại là một trận gió tanh mưa máu.”
“Ồ! Sao ông lại biết là một trận gió tanh mưa máu?” Đường Phong vô cùng bất ngờ.
“Bởi vì huyết chú đáng sợ, mỗi kệ tranh ngọc đều kèm theo một lời huyết chú!” Lời của Đại Lạt ma khiến mọi người đều ngừng nhai thức ăn.
“Ngài cũng biết huyết chú?” Hàn Giang kinh ngạc hỏi.
“Đương nhiên, người nào biết sơ qua về kệ tranh ngọc cũng đều nghe qua huyết chú. Tương truyền lúc thái tử Ninh Lệnh Ca đâm chết Hạo Vương, đã chém một đao lên mũi Hạo Vương, Hạo Vương tuy bị thương nặng nhưng vẫn vô cùng uy nghiêm, ông trừng trừng nhìn Ninh Lệnh Ca, chất vấn anh ta vì cớ gì mà giết vua giết cha. Ninh Lệnh Ca kinh ngạc, sợ đến nỗi mất hết cả dũng khí để vung đao thêm lần nữa, chỉ biết hốt hoảng tháo chạy khỏi cung, kết quả bị Một Tạng Ngoa Bàng giết chết. Hạo Vương máu chảy không ngừng, nhưng vẫn không thể tắt thở ngay tức khắc, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, người mà ông lo lắng nhất vẫn chính là Một Tạng Thị mà ông yêu say đắm và Lượng Tộ vẫn còn bọc trong tã lót. Dĩ nhiên, càng khiến ông lo lắng hơn nữa chính là tương lai của vương quốc. Trước khi chết, ở bên ông không chỉ có Một Tạng Thị bế Lượng Tộ nằm trong lòng, mà còn có cả đại thần mà ông tín nhiệm nhất là Một Tạng Ngoa Bàng và Ngôi Danh Lãng Ngộ. Sau lúc Hạo Vương mê man, khi đã giao phó lại mọi việc, cuối cùng ông đã kìm nén đau đớn, nói ra toàn bộ bí mật liên quan tới kệ tranh ngọc cho những người có mặt ở đó. Nói xong, Hạo Vương miệng trào máu tươi, đến lúc này mới thực sự quy tiên. Nghe nói là ngụm máu cuối cùng của Vương Hạo đã bắn lên kệ tranh ngọc, nên tất cả những người biết về kệ tranh ngọc đều tin rằng trên kệ tranh ngọc đã dính máu của Hạo Vương và kèm theo lời huyết chú của ông.”
“Hóa ra còn có truyền thuyết như vậy!” Đường Phong thẫn thờ, nhưng anh lập tức lại nghĩ tới điều gì đó nên hỏi Đại Lạt ma: “Thiếu niên áo trắng mà buổi sáng ông nói đến, sau này thì thế nào?”
Đại Lạt ma giải thích: “Nghe người đời trước kể thì thiếu niên áo trắng đó không ở lại, sau này anh ta lại đi tìm kiếm những kệ tranh ngọc khác, hy vọng tới một ngày có thể tìm thấy mật thành trong sa mạc, có thể hoàn thành việc phục quốc đại sự, gây dựng lại hùng phong của Hạo Vương năm nào. Kể từ đó trở đi thì không còn tin tức gì của anh ta nữa, có thể anh ta đã chết trên đường tìm báu vật từ lâu rồi, có thể cuối cùng anh ta đã từ bỏ con đường gian nan đó, ẩn cư tại sơn lâm. Tóm lại, thiếu niên áo trắng đó đã biến mất bặt vô âm tín.”
Đại Lạt ma nói xong những điều này, hình như còn cảm thấy nặng nề hơn, ông quay lại nói với Hắc Vân bên cạnh: “Hắc Vân, ta đã nghĩ đi nghĩ lại và cảm thấy thật có lỗi với con. Ta không có gì để bù đắp cho con nên sẽ chỉ ra cho con một con đường tươi sáng vậy! Nếu như con muốn ra đi, lần này sau khi ra ngoài rồi cũng không cần quay lại nữa. Mấy người họ đều là người tốt, hãy tin ta, ta nhất định không nhìn nhầm đâu, nếu như sau khi con ra đi có gì khó khăn, họ sẽ giúp đỡ con.”
Hắc Vân mắt ngấn lệ, nghẹn ngào: “Không! Sư phụ, con không rời xa thầy đâu.”
“Ngốc ạ, con cũng nên đi xem xem thế giới bên ngoài.” Đại Lạt ma hiền từ nói.
“Nhưng... nhưng con đi rồi, ai sẽ chăm sóc thầy?” Hai hàng nước mắt long lanh chảy dài trên má Hắc Vân.
Đại Lạt ma phẩy phẩy tay: “Con không cần phải chăm sóc ta nữa, ta cảm thấy mình đã đến giới hạn rồi, người Đảng Hạng cuối cùng... từ nay trở đi, trên thế gian này sẽ không còn người Đảng Hạng nữa!”
Khi Đại Lạt ma nói ra hai câu cuối cùng, giọng nói đột nhiên cao vút lên, trở nên run rẩy, làm mọi người vô cùng kinh ngạc. Trong chính giây phút mọi người đang kinh ngạc đó thì một loạt tiếng súng nặng nề vang lên, đập vào màng nhĩ họ.
7
Tiếng súng, là tiếng súng chọc thủng màng nhĩ khiến người ta sợ hãi! Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều không nghe lầm, họ lập tức nhận thức ra: nguy hiểm thực sự đến rồi!
Pằng! Pằng! Pằng!... Một viên đạn xuyên thủng bức tường của ngôi nhà gỗ, bắn vào Phật đường, nội thất cũ kĩ trong Phật đường, đĩa trên bàn, thức ăn vẫn chưa hết đều bị làn đạn dày đặc bắn cho tung tóe. Hàn Giang và Makarov theo phản xạ nằm bò ra sàn nhà, Đường Phong cũng phản xạ rất nhanh, anh thấy Hắc Vân đang đứng ngây ra bên cạnh liền kéo cô xuống, đè lên bên cạnh người mình.
Phía đầu kia, tiếng hét hoảng hốt của Lương Viện và tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma vẫn vang vọng khắp Phật đường. Đường Phong nghe ra: kinh văn mà Đại Lạt ma đang đọc chính là đoạn kinh văn mơ hồ khó hiểu mà ông tụng sáng hôm nay. Makarov đang nhoài người trốn sàn nhìn thấy Lương Viện bên cạnh đang hoảng hốt cuống quýt, liền nhảy lên, ấn Lương Viện xuống sàn nhà.
Tiếng súng mỗi lúc càng thêm dồn dập, không có dấu hiệu gì là dừng lại. Hàn Giang quay đầu lại nhìn, Đại Lạt ma ngồi ngay ngắn trên sập, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, không hề có ý né tránh. Hàn Giang quay người lại, nhoài tới gần trước mặt Đại Lạt ma, hét lên với ông: “Ông muốn mất mạng sao! Bò xuống! Bò xuống!”
Nhưng đáp lại anh chỉ có tiếng tụng kinh càng thêm thành kính của Đại Lạt ma. Hàn Giang đang định với tay ra kéo Đại Lạt ma thì Pằng! Một viên đạn đã sượt qua lòng bàn tay Hàn Giang, cắm vào người Đại Lạt ma, ngay sau đó, Pằng! Pằng! Lại thêm hai viên đạn. Máu đã thấm ướt chiếc áo cà sa màu đỏ trên người Đại Lạt ma, Hàn Giang đã không phân biệt được đâu là màu của áo cà sa, đâu là máu của Đại Lạt ma!
Người Đại Lạt ma trúng đầy đạn nhưng vẫn không ngừng tụng kinh. Hàn Giang bó tay, anh liếc ngay thấy súng ngắn trên bàn rồi thuận tay nhặt ba khẩu súng lên, ném hai khẩu cho Đường Phong và Makarov. Anh nắm chặt khẩu súng của mình, nhoài tới trước cửa sổ gỗ của Phật đường. Lúc này, Lương Viện đã ngừng la hét, tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma cũng không còn vang vọng nữa, tiếng súng bên ngoài hình như cũng dần dần dừng lại.
Hàn Giang liếc ra ngoài cửa sổ, năm sáu tên áo đen đội mũ chụp mặt tay cầm súng, từng bước từng bước áp sát ngôi nhà gỗ. Anh lấy tay ra hiệu cho Đường Phong và Makarov, Đường Phong và Makarov lập tức hiểu ý. Hàn Giang yêu cầu họ phải chuẩn bị xong xuôi, từ từ tản ra khỏi Phật đường. Đường Phong và Makarov gật gật đầu với Hàn Giang. Makarov kéo Lương Viện, Đường Phong kéo Hắc Vân, bò ra khỏi Phật đường. Hắc Vân vẫn muốn đến kéo theo cả Đại Lạt ma đang thở thoi thóp nhưng đã bị Đường Phong ép ấn xuống. Đường Phong bịt miệng Hắc Vân, Hắc Vân ra sức giãy giụa, khóc lóc...
Đường Phong cứ thế lôi Hắc Vân ra khỏi Phật đường, Hàn Giang, Makarov và Lương Viện cũng tản ra ngoài. Hành lang bên ngoài Phật đường là một góc chết khai hỏa, mấy người đều đứng thẳng dậy, Hàn Giang khẽ nói: “Xem ra chúng ta bị bao vây rồi.” Sau đó, Hàn Giang quay lại hỏi Hắc Vân: “Ở đây còn đường thoát nào khác không?”
Hắc Vân khóc thút thít đáp: “Sân... phía dưới sân, cạnh vách núi có một đường cầu trên vách núi, người bình thường không biết được.”
Hắc Vân vẫn chưa nói hết câu, Đường Phong đã vội vàng kéo tay Hắc Vân, sợ rằng cô trong lúc kích động lại chạy quay trở lại Phật đường. Lương Viện thấy vậy, tóm ngay lấy tay Đường Phong, điệu bộ tức khí phụng phịu. Đường Phong biết: đại tiểu thư Lương Viện này lại ghen rồi.
Lúc này, Hàn Giang khẽ ra mệnh lệnh: “Xem ra chúng ta chỉ còn con đường thoát này thôi. Mọi người cứ đợi ở đây đã để tôi đi xem thử trên sân còn có kẻ thù nào không.”
Nói xong, Hàn Giang khom lưng bước nhanh tới trước cửa ngôi nhà gỗ, nhìn về phía sân ngoài cửa, trên khoảnh sân cạnh vách núi không có người. Xem ra bọn áo đen này không hề biết sự tồn tại của đường cầu trên vách núi, không tấn công từ phía sau hoặc bắn tỉa hai bên cánh. Hàn Giang vẫy vẫy tay về phía mọi người đứng sau lưng, mọi người dồn lại phía sau cánh cửa. Hàn Giang khẽ ra lệnh: “Đường Phong, cậu đưa Lương Viện và Hắc Vân tới đường cầu trên vách núi trước đi, tôi và Lão Mã sẽ yểm trợ.”
Đường Phong vẫn muốn nói gì đó, nhưng thấy Hàn Giang đã chuẩn bị xuất kích xong xuôi, nên Đường Phong lại thôi, anh một tay kéo Lương Viện, một tay dắt Hắc Vân, chỉ đợi Hàn Giang phá cửa xông ra.
Rầm! Hàn Giang đạp tung cửa, lao ra như bay, rơi xuống khoảnh sân trước cửa. Anh vừa mới rơi xuống đất, tiếng súng ầm ầm đã lại lập tức vang lên. Hàn Giang theo đà lăn một vòng, tựa vào phía sau một tảng đá, bắn trả. Cùng lúc này, Makarov lợi dụng có cánh cửa yểm hộ nên liền bắn về phía bọn áo đen, còn Đường Phong thì kéo Lương Viện và Hắc Vân, ba người khom lưng, lao nhanh ra khỏi cửa căn nhà gỗ...
8
Lại là một loạt tiếng súng dồn dập khiến Lương Viện và Hắc Vân sợ hãi đến nỗi hét toáng lên, may mà có Hàn Giang và Lão Mã yểm hộ, Đường Phong kéo Lương Viện và Hắc Vân chạy tới vách núi, nhảy xuống một tảng đá to, đạn không thể bắn tới đây, Đường Phong đứng thẳng lưng lớn tiếng hỏi Hắc Vân: “Đường cầu trên vách núi mà cô nói đâu?”
Hắc Vân rẽ một bụi rậm bên vách núi ra, một đường cầu nhỏ hẹp xuất hiện trên vách núi. Quả nhiên có đường cầu trên vách núi! Trong lòng Đường Phong rất ngạc nhiên, anh nhìn đường cầu nhỏ hẹp uốn lượn quanh co giữa vách núi, dẫn thẳng tới phía dưới khe núi. “Đường cầu trên vách núi này dẫn tới đâu vậy?” Đường Phong lại lớn tiếng hỏi.
“Dẫn xuống dưới vách núi, cạnh bờ biển, ở đó có con thuyền nhỏ, mọi người đi theo tôi.” Hắc Vân nói xong, dẫn đầu đi tới đường cầu trên vách núi đó.
Những lời của Hắc Vân đã khiến Đường Phong sáng cả mắt lên, anh quay đầu lại nhìn khoảnh sân phía trên vách núi, tiếng súng dần dần im ắng. Anh biết đạn của Hàn Giang và Lão Mã đều không còn nhiều nữa, anh định xông lên trên, nắm chặt khẩu súng trong tay, bên trong khẩu súng chỉ còn có bốn viên đạn mà thôi... Rốt cuộc, anh vẫn kìm nén được sự manh động trong lòng, theo Hắc Vân và Lương Viện nhảy lên đường cầu trên vách núi chỉ đủ cho một người đi.
Đến cuối đường cầu trên vách núi, ở đây quả nhiên có một chiếc thuyền gỗ. Hắc Vân và Lương Viện nhảy lên thuyền, còn Đường Phong lại đứng trên bờ đá, khổ sở chờ đợi Hàn Giang và Makarov xuất hiện. Đột nhiên, anh nghe thấy một loạt tiếng súng dồn dập, Đường Phong bất giác giật thót tim, lẽ nào Hàn Giang…
Tiéng súng càng lúc càng to, càng lúc càng gần, Đường Phong bỗng nhìn thấy một người chạy từ đường cầu thang trên vách núi xuống, là Hàn Giang, nhưng không thấy Makarov! Hàn Giang chạy tới phía trước, Đường Phong vội vàng hỏi: “Lão Mã đâu?”
Hàn Giang quay lại nhìn, thở hổn hển nói: “Lão... Lão Mã ban nãy còn ở đằng sau, bây giờ... tôi... tôi cũng không biết.”
Đường Phong để Hàn Giang lên thuyền trước, còn mình thì ở lại trên bờ tiếp ứng, chẳng bao lâu sau, Makarov cũng xuất hiện trên đường cầu vách núi. Makarov đã không chạy nổi nữa rồi, dù sao ông cũng đã cao tuổi. Đường Phong bước nhanh từng bước dài, chạy lên phía trước đỡ Makarov, gần như vừa kéo vừa lôi, rút cuộc cũng đưa được Makarov lên thuyền.
Năm người trên thuyền, đám người áo đen chụp mũ kín đầu màu đen cũng đã đuổi đến bờ, năm sáu nòng súng cùng lúc nhắm bắn vào chiếc thuyền nhỏ.
Đây là một chiếc thuyền nhỏ không có động cơ, tất cả đều phải dựa vào sức người để đẩy đi, bốn người Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện và Hắc Vân đều dồn hết sức lực, cuối cùng cũng dần dần chèo được thuyền xa khỏi bờ. Pằng! Pằng! Pằng!... Đạn bắn liên hồi lên mặt nước sát mạn thuyền làm nước không ngừng bắn lên tung tóe.
Lão Mã mệt đến nỗi ngồi bệt ra cũng giúp một tay chèo thuyền, mọi người bất chấp rừng súng mưa đạn, cuối cùng cũng chèo được thuyền ra giữa hồ. Tiếng súng dần im ắng, cả năm người đều mệt đến nỗi bò ra thuyền, mặc cho con thuyền chầm chậm trôi theo dòng nước chảy xuống hạ nguồn.
Không biết qua bao lâu sau, Đường Phong đang nằm bò ra thuyền bỗng nhiên lại lẩm bẩm: “Giờ thì rốt cuộc tôi cũng đã hiểu, tại sao Hắc Vân hôm đó lại mất tích trên vách núi, hóa ra là chiếc...” Đường Phong đang nói nửa chừng, đột nhiên nhớ ra điều gì đó, anh ngồi phắt dậy, hốt hoảng kêu lên: “Chết rồi!” bỗng dưng Đường Phong kêu toáng lên như vậy nên ai cũng giật bắn mình, tất cả đều nhìn Đường Phong. Đường Phong vội hỏi Hắc Vân: “Những người trong thôn thì sao? Thế này chẳng phải họ đã gặp họa rồi sao?”
Hắc Vân vừa nghe thấy Đường Phong hỏi về việc này, đã bình tĩnh hơn một chút, đáp lại: “Việc này anh không phải lo lắng, hôm qua sư phụ đã bảo mọi người trong tộc di tản hết rồi!”
Câu trả lời của Hắc Vân càng khiến mọi người kinh ngạc hơn. Đường Phong hỏi: “Hôm qua Đại Lạt ma đã tiên đoán trước được tai họa hôm nay rồi sao? Lẽ nào ông thật sự có thể đoán trước được tương lai?”
Nhắc đến sư phụ, mắt Hắc Vân lại ươn ướt, thút thít nói: “Hôm qua, sư phụ đã biết trong ba lô của các anh có kệ tranh ngọc. Ông nói với tôi và mọi người trong tộc rằng: các anh đã vì kệ tranh ngọc nên đến đây, vậy thì sự yên bình ở đây đã bị phá vỡ, huyết chú... huyết chú ắt sẽ linh nghiệm, vận đen sẽ lại lần nữa giáng xuống đầu chúng tôi. Vậy là, sư phụ bảo mọi người trong tộc hãy nhanh chóng di tản khỏi đây.”
Đường Phong gật gù lại hỏi tiếp: “Đúng rồi, Hắc Vân, tôi luôn muốn hỏi cô, đường ra khỏi núi chỗ các cô ở đây tổng cộng có mấy đường? Những người trong tộc các cô đi tản, chắc không phải qua cái hang động mà chúng tôi tới đây chứ?”
“Dĩ nhiên không phải, đường vào núi nơi chúng tôi ở có hai con đường, một đường là hang động mà các anh đến, một đường khác phải vượt qua rất nhiều núi lớn mới đi ra được, hai con đường này đều không dễ đi. Người trong tộc di tản là đi bằng đường núi, mà bất luận là đường nào đi chăng nữa thì cũng đều bắt buộc phải do người biết đường dẫn dắt mới có thể ra ngoài được, nếu không thì chỉ sai một chút thôi cũng sẽ bị lạc đường, cuối cùng không bị bầy sói tha đi thì cũng kiệt sức mà chết. Các anh có thể từ trong động đi ra đã là vô cùng may mắn rồi.”
“Nghe đã thấy sợ rồi! Vậy thì chúng ta bây giờ nên đi đường nào?” Đường Phong hỏi.
“Bây giờ thì chúng ta không thể đi đường núi đó nữa, chỉ còn mỗi đường hang động.” Hắc Vân đáp.
“Cái gì? Vẫn phải chui vào trong hang động đó?” Lương Viện hốt hoảng. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov tuy không hét lên kinh ngạc, nhưng vừa nghe thấy đi vào trong động thì đầu cũng căng như dây đàn. Cái hang động đáng sợ đó đã khiến họ khổ sở gần chết, nhưng giờ thì cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải vào trong đó lần nữa may ra còn có một con đường sống.
Trong lúc nói chuyện, con thuyền nhỏ đã trôi đến trước hang động phía hạ nguồn, nhìn cửa động tối thui, lòng mọi người bất giác thắt lại.
Trầm ngâm một hồi lâu, Đường Phong thấy Đại Lạt ma ngừng đọc kinh mới rón rén phá vỡ bầu không khí im lặng này: “Vậy sau... sau đó nhánh người Đảng Hạng các ông sao đã đến đây?”
“Trước khi Tây Hạ mất nước, tổ tiên của các ông chính là một chi trong bốn nhánh người cưỡi ngựa mang theo kệ tranh ngọc thoát khỏi Hưng Khánh Phủ?” Hàn Giang nói chêm vào.
Đại Lạt ma khẽ thở dài một tiếng, đáp: “Không! Tổ tiên của chúng tôi không phải là mấy nhánh người cưỡi ngựa mà Ngôi Danh Hiển cuối cùng phái đi, tổ tiên của gia tộc chúng tôi chính là Một Tạng Ngoa Bàng mà tôi kể trước đó.”
“A! Thảo nào trên rất nhiều vò tro cốt mà chúng tôi nhìn thấy trong đại sảnh trụ cột đều viết hai chữ ‘Một Tạng’ hóa ra các ông chính là con cháu của Một Tạng Thị!” Đường Phong vô cùng ngạc nhiên trước phát hiện bất ngờ này.
“Không sai, chúng tôi đều là con cháu của gia tộc Một Tạng, sau khi Một Tạng Ngoa Bàng chết, gia tộc Một Tạng cũng liền thất thế, để tránh tai họa, người trong gia tộc Một Tạng đã di cư tới Hạ Lan Sơn và ở đó mãi cho tới những giây phút cuối cùng của vương quốc. Bao nhiêu năm qua, nhiều đời gia tộc chúng tôi đều lưu truyền một truyền thuyết thế này: khi Hưng Khánh Phủ bị đại quân Mông Cổ đánh bại, có một thiếu niên áo trắng, khoác một tay nải chạy tới thôn xóm mà gia tộc Một Tạng sinh sống. Rồi từ những gì thiếu niên này kể lại, người trong gia tộc mới biết được Hưng Khánh Phủ đã bị người Mông Cổ đánh bại, và đó là một trận đại thảm sát đẫm máu. Người Mông Cổ từ trước tới nay luôn có truyền thống giết cho bằng sạch, nhưng đối với thành trì đầu hàng, thì họ sẽ nới lỏng tay, nhưng lần này thì người Đảng Hạng không may mắn như vậy nữa. Để bách tính trong thành có thể may mắn tránh được nạn này, Ngôi Danh Hiển đã dẫn đầu đoàn người mở cửa thành, đầu hàng người Mông Cổ. Lúc này ông không biết gì về tin tức Thành Cát Tư Hãn đã chết, nên khi ông dẫn đầu đoàn người đến đại doanh trại thì mới biết tin Thành Cát Tư Hãn đã chết. Nhưng lúc đó hối hận thì đã muộn rồi, người Mông Cổ không còn giống như trước đây là tha thứ cho kẻ đầu hàng. Do Thành Cát Tư Hãn chết tại Tây Hạ, nên bất luận có phải là do người Đảng Hạng giết chết hay không, thì người Mông Cổ vẫn thề rằng phải báo thù cho Thành Cát Tư Hãn. Vì vậy người Mông Cổ giết Ngôi Danh Hiển đầu tiên, sau đó mới đại thảm sát người Đảng Hạng. Đêm hôm đó, trong Hưng Khánh Phủ máu chảy thành sông, cảnh tượng vô cùng thê thảm. Thiếu niên áo trắng phải đánh phá nhiều vòng vây mới thoát ra được.”
“Trong tay nải của thiếu niên áo trắng đựng gì vậy?” Hàn Giang truy hỏi.
“Là một tấm kệ tranh ngọc. Theo như thiếu niên áo trắng kể lại, bốn tốp người cưỡi ngựa theo lệnh Ngôi Danh Hiển mang theo kệ tranh ngọc ra khỏi thành đã bị kị binh Mông Cổ đánh cho tan tác, trong đó có một đội người cưỡi ngựa bị ép quay trở lại trong thành. Khi vỡ thành, một phụ nữ đã giao phó cho thiếu niên áo trắng này một tay nải. Khi thiếu niên áo trắng khoác tay nải chạy thoát tới Hạ Lan Sơn, lưng trúng vô số mũi tên, phía sau còn bị kị binh Mông Cổ truy đuổi. May mà thôn xóm mà gia tộc Một Tạng sinh sống ẩn nấp trong một khe núi sâu, nên kị binh Mông Cổ nhất thời không thể tìm thấy thôn xóm của gia tộc Một Tạng. Khi thiếu niên áo trắng mở tay nải ra, mọi người mới phát hiện bên trong là một kệ tranh ngọc. Đợi đến tối, kị binh Mông Cổ rút quân, tộc trưởng liền quyết định mang kệ tranh ngọc của cả dân tộc rời khỏi Hạ Lan Sơn, rời khỏi bình nguyên Tây Hạ giàu có tươi đẹp.”
“Từ đó, nhánh người Đảng Hạng các ông đã bước lên con đường trở về nhà.” Đường Phong tiếp lời.
“Không sai, về nhà! Hạ Lan Sơn, bình nguyên Tây Hạ là nhà của chúng tôi, nhưng ở đó đã không còn thuộc về chúng tôi nữa, giống như người Đảng Hạng năm nào vì sinh tồn nên đã rời khỏi nơi cố hương, di cư tới đây. Vì sinh tồn, người Đảng Hạng chúng tôi lại lần nữa bước lên con đường di cư, đây chính là số phận của dân tộc du mục. Thượng nguồn sông Hoàng Hà, nguồn sông Bạch Hà chính là cố hương ban đầu của người Đảng Hạng chúng tôi. Con đường trở về nhà xa xôi đằng đẵng, biết bao người trong gia tộc đã bỏ mạng lại chốn hoang vu. Khi vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh, lại gặp phải bão tuyết. Đúng lúc toàn bộ gia tộc sắp chết cóng thì họ đã phát hiện ra một sơn động trong thung lũng dưới dải băng, nói đúng hơn, đó là một thạch thất!”
2
“Hắc Đầu Thạch Thất!” Đường Phong và Hàn Giang đều kinh ngạc.
Đại Lạt ma hình như cũng khó mà che giấu được sự phấn khích trong lòng, ông rõ ràng đã cất cao giọng, “Hắc Đầu Thạch Thất, vùng đất tốt lành mà tổ tiên chúng tôi phát hiện ra, toàn gia tộc đều chui vào trong thạch thất đó, bên ngoài băng tuyết trắng trời, nhưng trong thạch thất lại ấm ấp như mùa xuân, thạch thất đã cứu mạng toàn bộ gia tộc. Lúc này, tộc trưởng và thiếu niên áo trắng mới nhớ ra kệ tranh ngọc, thiếu niên áo trắng lôi kệ tranh ngọc ra, mọi người tỉ mẩn quan sát thì phát hiện ra trên kệ tranh ngọc có khắc mấy câu thơ mông lung khó hiểu, mọi người trong gia tộc đều không hiểu ý nghĩa của những câu thơ này, chỉ có thiếu niên áo trắng là hiểu ra hàm ý của chúng.”
“Câu thơ đầu tiên trên kệ tranh ngọc này có phải là ‘Trường miên di dược nhân quốc tại bỉ’ không?” Đường Phong đột nhiên nhớ ra phán đoán của giáo sư La trước đây.
“Trên kệ tranh ngọc này rút cuộc khắc những câu thơ gì, tôi căn bản cũng không thể biết được. Tóm lại, thiếu niên áo trắng hiểu ra hàm ý của câu thơ trên kệ tranh ngọc nên nói: ‘Tấm kệ tranh ngọc này vốn phải cất giữ tại Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng do chúng ta tránh bão tuyết nên mới tới Hắc Đầu Thạch Thất, đây cũng là lời hiệu triệu của ông trời, ý chỉ của thần tiên. Người trong gia tộc nghe thấy vậy, cùng nhau quỳ gối tạ ơn ông trời phù hộ, kể từ đó, tấm kệ tranh ngọc này đã được cất giữ trong Hắc Đầu Thạch Thất.”
“Sau đó thì sao?” Makarov hỏi.
“Sau đó chúng tôi vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh, hướng về phía nam, quay lại đây, cũng chính là quay trở lại đại sơn trong vùng tây bắc Tứ Xuyên, mai danh ẩn tích ẩn cư ở đây. Và như vậy, qua hơn một trăm năm sau, những người trong gia tộc ẩn cư tại vùng núi này mới nghe nói về việc đã thay đổi triều chính, vương triều Nguyên Mông đã bị diệt vong từ trước đó rất lâu. Vậy là, người trong gia tộc liền lục đục kéo nhau ra khỏi vùng núi, sinh sống cùng những dân tộc khác như Khương, Hán, Tạng... Hoàng đế triều Minh còn sắc phong cho nhánh người Đảng Hạng chúng tôi là thổ ty, kéo dài mãi cho tới tận những năm đầu Dân quốc. Sau này, chiến tranh loạn lạc, cộng thêm nhân khẩu thưa thớt, chúng tôi từ bỏ Khương Trại đã điều hành nhiều năm, tất cả đều đến đây, Thất Sắc Cẩm Hải, đào nguyên ngoại thế của chúng tôi, miền đất vui sống của người Đảng Hạng cuối cùng.”
“Nếu như vậy, đối chiếu lại tất cả mọi việc, tòa Khương Trại mà chúng tôi nhìn thấy trong vùng núi chính là di tích mà các ông để lại, thảo nào vẫn bảo tồn tốt như vậy.” Đường Phong nói.
“Khương Trại? Các cậu đã đến Khương Trại đó rồi? Tòa Khương Trại đó vẫn ổn chứ? Tuổi thơ của tôi đã trải qua ở đó đấy!” Nói xong, ánh mắt Đại Lạt ma cũng bừng sáng. Đường Phong định nói tiếp nhưng đã kịp ngừng lại, anh thực lòng không nhẫn tâm nói ra tòa Khương Trại đó đã bị đám người truy sát họ phá hủy. Đại Lạt ma chắc chắn không thể chấp nhận sự thật này. Anh đành phải nói qua chuyện: “Ồ!... tòa Khương Trại đó... vẫn ổn! Chỉ có điều lâu năm rồi nên cũ kĩ thôi.” Đường Phong đột nhiên nhớ ra địa đạo trong Khương Trại, sự tò mò đã thôi thúc anh thỉnh giáo Đại Lạt ma: “Ông có còn nhớ dưới đáy Khương Trại có một địa đạo không? Bên trong địa đạo sao lại có nhiều xương người như vậy?”
“Địa đạo, xương người? Lúc còn nhỏ tôi đã từng nghe người lớn nói qua, những xương người đó là xương của kẻ địch mà chúng tôi thu thập sau khi gia tộc chúng tôi chiến thắng chúng, còn tại sao lại làm như vậy thì tôi nghĩ có lẽ là để phơi bày chiến công!” Đại Lạt ma giải thích.
“Trong địa đạo chúng tôi nhìn thấy những xương người đó chất thành núi, chặn đứng đường đi, ông có biết phía cuối địa đạo có gì không?” Đường Phong lại hỏi.
Đại Lạt ma khẽ lắc đầu, đáp: “Tôi cũng không biết, nghe tộc trưởng nói thì phía cuối địa đạo đó thông với một chiếc giếng, ngoài những điều này ra thì tôi không nghe thấy gì nữa.”
“Giếng?” Trong đầu Đường Phong lập tức hiện lên cảnh tượng khủng khiếp khi Stephen rơi xuống giếng.
Lúc này, Đại Lạt ma lại chậm rãi nói với ba người: “Những gì tôi biết đều đã nói hết với các anh rồi, các anh phải thề rằng sẽ giữ bí mật này cho chúng tôi.”
Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghe xong, cùng nhìn nhau, không ai trong số họ có thể đảm bảo. Bởi muốn đến Hắc Đầu Thạch Thất tìm kệ tranh ngọc thứ hai thì khó tránh khỏi để người ngoài, đặc biệt là những kẻ truy sát họ biết về bí mật này, không biết chừng những người đó chẳng mấy chốc sẽ tìm được họ. Lòng Đường Phong đột nhiên dâng trào một dự cảm không lành.
3
Đường Phong đang không biết phải trả lời Đại Lạt ma thế nào thì Hàn Giang lại mở miệng hỏi: “Nhưng chúng tôi vẫn còn một chuyện chưa hiểu lắm, trong hang động đá vôi chúng tôi thấy có hai bộ xương người, căn cứ vào đồ vật họ để lại mà phán đoán, hai bộ xương trắng này hình như là vào trong động những năm 40 của thế kỷ trước, rồi sau đó xảy ra tai nạn, chết trong động. Ngài có thể cung cấp cho chúng tôi một số manh mối về hai người này không?”
Đại Lạt ma nghe xong câu hỏi của Hàn Giang, ngẫm nghĩ mãi một lúc, đột nhiên hỏi: “Lẽ nào âm hồn của họ không siêu thoát?”
“Âm hồn nào không siêu thoát?” Hàn Giang truy hỏi.
Đại Lạt ma cố gắng hết sức duy trì sự bình tĩnh, chậm rãi nói: “Bao nhiêu năm qua, cũng có một số người bên ngoài lạc vào Thất Sắc Cẩm Hải, họ phần lớn là khách du lịch, hoặc là thợ săn ở gần đây. Sau khi họ thề sẽ giúp chúng tôi giữ bí mật, chúng tôi đều đưa họ ra khỏi đây an toàn, những người đó cũng đều tuân thủ theo lời thề của mình, không nói ra bí mật của chúng tôi, bởi vậy chúng tôi mới có thể sống yên bình ở đây đến ngày hôm nay. Nhưng, mấy chục năm trước, đã từng có mấy người giống như các anh, đến đây vì kệ tranh ngọc.”
“Sao cơ? Ông... ông nói là hai bộ xương đó cũng vì kệ tranh ngọc nên đến đây?” Đường Phong vô cùng kinh ngạc.
“Đúng vậy, nếu như tôi phán đoán không nhầm, xương trắng trong động chắc là họ. Nhưng họ không phải là hai người mà là bốn người, bốn người đàn ông. Bốn người khách từ phương xa tới, đến chỗ chúng tôi vào một buổi chiều chạng vạng. Bốn người họ không giống các anh thông qua hang động đến đây, mà là vượt qua núi non, trải qua bao gian khổ mới tìm được đến đây. Bốn người họ xem ra rất điềm đạm nho nhã, tác phong cẩn thận, đối với tộc trưởng và sư phụ của tôi đều rất lễ phép cung kính. Họ tự xưng là du khách, vô tình lạc tới đây, rồi đưa tặng chúng tôi da thú, nhân sâm, thuốc lá sợi... cùng rất nhiều lễ vật khác, thậm chí còn có cả hai thỏi vàng. Vậy là, chúng tôi liền giữ họ ở lại, định là qua mấy hôm sẽ đưa họ ra khỏi đây. Nhưng mấy người này lại không muốn vội đi, hàng ngày họ ăn no xong là lại đi dạo khắp nơi, còn không ngừng tìm người dân bản hỏi này hỏi nọ, dò hỏi thông tin, trong đó, họ đã nhắc đến kệ tranh ngọc...
Hành động của họ đã khiến cho người trong bộ tộc hoài nghi. Nếu như họ là du khách bất cẩn lạc đến đây thì trên người sao lại mang theo nhiều lễ vật như vậy? Hơn nữa, đó là những năm tháng loạn lạc, ai mà có tâm trạng đến nơi hoang vu hẻo lánh thế này để ngao du thưởng ngoạn non nước? Cộng hàng loạt những hành động khác thường của họ ở đây, tộc trưởng nghi ngờ nên đã gọi mấy người đó đến, hỏi họ rút cuộc là ai, rút cuộc đến đây vì cái gì? Lần này, bốn người đó cũng không giấu giếm nữa, nói thẳng vào vấn đề, họ đến đây là vì kệ tranh ngọc của vương triều Tây Hạ. Người đàn ông cao tuổi nhất trong số họ còn đưa cả giấy chứng nhận của anh ta ra cho tộc trưởng xem.”
“Giấy chứng nhận? Anh ta là ai.” Đường Phong hỏi.
“Người đàn ông lớn tuổi nhất đứng đầu bốn người, ước chừng khoảng hơn bốn mươi, chưa tới năm mươi tuổi. Trên giấy chứng nhận ghi rõ thân phận của anh ta là thượng tá cục bảo mật, ba người đàn ông còn lại, một người khoảng ngoài ba mươi tuổi, hai người kia còn rất trẻ, nhìn bề ngoài cũng chỉ ngoài hai mươi, mà một thanh niên trong đó trông rất giống người đàn ông cao tuổi. Ba người kia không đưa ra giấy chứng nhận, chúng tôi không hề biết thân phận của họ, nhưng tôi suy đoán, chắc là họ cùng hội với thượng tá cục bảo mật.”
“Thượng tá cục bảo mật? Ngài còn nhớ ông ta tên là gì không?” Mối tơ vò vốn dĩ đã được tháo gỡ giờ lại trở nên phức tạp khiến Đường Phong cảm thấy bất ngờ.
“Thời gian trôi qua lâu quá rồi, thật sự là không nhớ nổi. Sau khi vị thượng tá đó nói rõ thân phận, liền lập tức đổi giọng, không còn điềm đạm nho nhã như trước nữa mà truyền đạt thông điệp cuối cùng cho chúng tôi. Anh ta tự xưng là theo lệnh của chính phủ Quốc dân đến đây để tìm kiếm kệ tranh ngọc và yêu cầu chúng tôi giao nộp kệ tranh ngọc. Nói xong, anh ta còn đưa cho tộc trưởng xem một công hàm của chính phủ Quốc dân. Tộc trưởng bán tín bán nghi chẳng biết công hàm này là thật hay giả, nhưng trong lòng ông thì đã quyết định từ trước đó lâu rồi, bất kể công hàm là thật hay giả, trong những năm tháng loạn lạc thế này, tuyệt đối không thể giao nộp báu vật mà tổ tông truyền lại. Vậy là, tộc trưởng quyết cự tuyệt yêu cầu vô lý của họ, đồng thời phái người giam lỏng bốn người này lại.”
“Sau đó bốn người đó thế nào?” Makarov quan tâm hỏi.
“Bốn người này không hề kháng cự, ngoan ngoãn để chúng tôi giam lỏng lại. Tộc trưởng và những người đại diện cho mọi người đã bàn bạc cách xử lý bốn người này thế nào. Có người cho rằng nên đưa họ ra ngoài, có người lại bảo phải giết họ. Nếu đưa họ ra ngoài thì e rằng họ sẽ quay lại, đến lúc đó, hối hận thì đã muộn. Nếu giết họ, ngộ nhỡ họ đúng là người của chính phủ, khi cục bảo mật truy cứu ra, thì... thì cũng không an toàn. Cuối cùng, vẫn là sư phụ của tôi đưa ra chủ ý: sư phụ và tộc trưởng giả vờ đứng bên ngoài căn phòng giam lỏng bốn người đó nói chuyện, lúc nói thì cố ý để lộ ra là kệ tranh ngọc đang giấu trong hang núi cạnh hồ nước... Quả nhiên, sáng sớm hôm sau, bốn người họ đều trốn đi. Chúng tôi không biết rốt cuộc họ đã đi đâu, nhưng tóm lại, họ không bao giờ quay lại nữa.”
“Khỏi phải hỏi, bốn người đó chắc chắn đã nghe thấy những gì hai người nói chuyện và đã đến hang động đá vôi tìm kệ tranh ngọc, rồi kết quả là đã xảy ra chuyện trong hang động và mất mạng trong đó.” Đường Phong suy đoán.
“Nhưng vẫn còn hai người nữa đâu? Chúng tôi chỉ thấy hai bộ xương trắng.” Lời của Hàn Giang khiến mọi người lại chìm trong im lặng.
4
Cả buổi sáng, Đường Phong vẫn suy nghĩ về hai bộ xương trắng không xuất hiện trong hang động đá vôi, còn Hàn Giang suy đoán nói: “Khả năng hai người đó chết ở chỗ khác, chẳng qua là chúng ta không nhìn thấy; cũng có khả năng sau khi họ chạy ra ngoài đã không quay lại nữa. Những năm tháng loạn lạc đó ai mà biết được chuyện gì đã xảy ra.”
Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi, lắc lắc đầu, anh không tin sự việc lại đơn giản như vậy. Buổi trưa lúc ăn cơm, Lương Viện rút cuộc đã tỉnh lại. Hắc Vân lại cho cô ấy uống thêm bát thuốc, sắc mặt Lương Viện đã hồng hào, xem ra không khác gì người khỏe mạnh. Đường Phong vui mừng khôn xiết, vội vàng kể tóm tắt lại cho Lương Viện nghe những chuyện xảy ra mấy ngày qua. Lương Viện nghe xong vô cùng bất ngờ, thậm chí còn không thể tin được.
Ăn trưa xong, mọi người đều đi nghỉ ngơi. Đường Phong nằm trên giường trong căn nhà gỗ, nhưng không sao ngủ được. Bộ xương trắng xông vào hang động rút cuộc là ai? Bước tiếp theo nên làm thế nào? Trong đầu Đường Phong toàn dấu hỏi, trở mình lật qua lật lại mãi cũng không sao ngủ được, anh liền ngồi dậy, ra ngoài sân. Anh ngẩng đầu nhìn lên đỉnh tuyết sơn phía xa xa, đỉnh núi ban sáng còn nhìn thấy rõ mồn một, giờ đã bị mây khói đặc kín bao phủ, và cả bầu trời cũng tối sầm xuống. Lòng Đường Phong bất giác bị bóng đen bao trùm.
Đúng lúc Đường Phong đang hết sức ngạc nhiên thì Đại Lạt ma lại gọi mọi người vào trong Phật đường. Đại Lạt ma giống như vừa qua một hồi suy nghĩ thấu đáo, ông nói với mọi người: “Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi, bây giờ sẽ tiễn các anh đi.”
“Bây giờ? Sao nhanh vậy?” Đường Phong có chút ngạc nhiên.
Đại Lạt ma nói: “Thực ra, ban sáng tôi đã có ý này, nhưng thấy cô gái đó vẫn chưa tỉnh dậy, nên không... hiện giờ, sức khỏe của cô ấy đã hồi phục, nên đã đến lúc ra đi rồi, không nên ở lại đây lâu.”
“Tại sao chứ? Cháu vẫn muốn ở lại thêm vài ngày cơ!” Lương Viện nhìn cảnh đẹp ngoài cửa sổ, lưu luyến không nỡ bỏ đi.
Đại Lạt ma không trả lời Lương Viện, mà lại lầm rầm đọc một đoạn kinh văn mù mờ khó hiểu, giống như một câu thần chú gì đấy. Theo tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma, trong lòng Makarov lại trào lên một dự cảm không lành. Lúc này, Hàn Giang đã mở miệng, phá vỡ đoạn kinh tụng long trọng và nghiêm trang: “Cảm ơn sự khoản đãi của ông và việc ông kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện liên quan tới kệ tranh ngọc Tây Hạ, thế nhưng tôi vẫn có một chuyện không liên quan tới kệ tranh ngọc muốn thỉnh giáo là: tại sao ông lại phản đối chuyện hôn nhân của em gái Hắc Vân?”
Đại Lạt ma nhìn Hàn Giang một cái, sau đó khẽ thở dài, giải thích: “Đó là vì Đảng Hạng, vì sự thanh tịnh của quốc thổ. Buổi sáng tôi đã kể rồi đấy, sau khi Tây Hạ diệt vong, tây bắc Tứ Xuyên là nơi đầu tiên mà rất nhiều người Đảng Hạng chọn để thoát thân, không chỉ đơn thuần là vì tình cảm và sự trốn tránh, mà đó cũng là sự chọn lựa thực tế, vì đây là con đường nhanh gọn nhất. Bởi vậy, không chỉ có nhánh người Đảng Hạng chúng tôi đến đấy, mà còn có rất nhiều người Đảng Hạng khác chạy tới phía tây Tứ Xuyên. Có thể nói, đây là nơi cư ngụ lớn nhất của người Đảng Hạng sau khi Tây Hạ bị diệt vong. Nhưng theo dòng thời gian trôi đi, người Đảng Hạng ở phía tây Tứ Xuyên ngày càng ít đi. Khi tìm hiểu nguyên nhân, thì ngoài chiến loạn, bệnh tật, môi trường sinh tồn gian khổ ra, thì còn là vì do hôn nhân khác tộc…”
“Nhưng em gái Hắc Vân và người thanh niên đó đều là người dân tộc ông mà?” Đường Phong nói xen vào.
“Mong anh hãy đừng ngắt ngang lời tôi nói, anh nói không sai, hai người họ đều là người địa phương, huyết quản của họ đều chảy dòng máu của người Đảng Hạng chúng tôi, bởi vậy họ mới chọn cái cách kết thúc sinh mệnh oanh liệt đến như vậy. Nhưng, họ... những thanh niên ở đây đã chán ghét cuộc sống ở vùng núi này, chàng trai đó mấy năm trước đã trốn khỏi vùng núi, lần này trở về là muốn kết hôn với Bạch Vân, sau đó đưa nó đi đến với thế giới bên ngoài, bởi vậy...”
5
Đường Phong rút cuộc đã hiểu rõ nguyên nhân tại sao em gái Hắc Vân lại nhảy vực, anh không thể không có chút phẫn nộ trước sự vô tình vô lý của Đại Lạt ma: “Thảo nào ông muốn phản đối hôn nhân của họ, hơn nữa còn không để người trong tộc biết về thân thế thực sự của họ, nhưng đây lại là việc không thể nào khác, bởi theo dòng phát triển của lịch sử, rất nhiều dân tộc đã biến mất trong dòng sông dài của lịch sử. Thực ra, người Đảng Hạng vốn không bị diệt vong, mà họ đã hòa nhập vào các dân tộc Hán, Hồi, Khương, Mông... Đây là xu thế của lịch sử, không phải mình ông là có thể thay đổi được.”
Đại Lạt ma nghe xong những lời Đường Phong nói, đột nhiên trở nên kích động, hét lên với Đường Phong: “Không! Tôi không thể tha thứ cho những gì anh vừa nói, sức lực và thời gian của cả đời tôi đều dùng để duy trì sự kế tục của dân tộc Đảng Hạng. Đây cũng là điều mà ân sư của tôi cả đời theo đuổi, nên tôi không thể phụ những kỳ vọng của ông. Anh... anh không thể dựa vào mấy câu nói mà phủ nhận cả cuộc đời tôi.”
Tất cả mọi người, bao gồm cả Hắc Vân đều bị tiếng hét thất thái của Đại Lạt ma làm cho sững sờ. Đường Phong hiểu rằng, những lời anh nói ban nãy đã chọc đúng nỗi đau của Đại Lạt ma. Anh đang định xin lỗi ông thì Hàn Giang lại hiểu sai, kéo Đường Phong lại nói nhỏ vào tai: “Đừng cãi nữa, không để làm gì đâu, đừng có quên nhiệm vụ của chúng ta.”
Hàn Giang giữ Đường Phong lại, tự mình mở miệng nói với Đại Lạt ma: “Xin lỗi, chúng tôi đã vô ý can thiệp vào cuộc sống yên bình của các ông, chúng tôi xin đón nhận lời cảnh báo của ông, nhanh chóng rời khỏi đây, nhưng, tôi vẫn muốn hỏi thăm ông một số tình hình liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất.”
Đại Lạt ma đã bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói: “Liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất? Anh không cần hỏi tôi, bởi vì tôi cũng chưa từng đến Hắc Đầu Thạch Thất. Tôi đã từng nói rồi, đó chỉ là một truyền thuyết, Hắc Đầu Thạch Thất có thật sự tồn tại hay không, đó cũng là một vấn đề. Tuy người Đảng Hạng chúng tôi vô cùng tin tưởng vào điều đó, hơn nữa nhánh người Đảng Hạng chúng tôi đây còn phải gánh vác trọng trách bảo vệ Hắc Đầu Thạch Thất. Nhưng đã bao nhiêu năm qua, vẫn chưa có ai từng tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất, nên không ai biết rốt cuộc là Hắc Đầu Thạch Thất ở đâu. A Ni Mã Khanh, đó có lẽ chỉ là một truyền thuyết xa xăm.”
Đường Phong nghe xong những lời này của Đại Lạt ma, có chút thất vọng, nhưng anh đột nhiên nhớ tới tấm bản đồ da dê mà mình lấy được ở Phật điện lụp xụp tại Lang Mộc Tự hiện đang cất trong người. Biết đâu Đại Lạt ma lại biết về tấm bản đồ đó, biết đâu trên tấm bản đồ da dê đó lại đánh dấu vị trí của Hắc Đầu Thạch Thất. Nghĩ tới đây, Đường Phong liền lôi tấm bản đồ da dê ra, đưa cho Đại Lạt ma, ai ngờ, câu trả lời của Đại Lạt ma càng khiến anh thất vọng hơn. Đại Lạt ma sau khi tỉ mẩn ngắm nghía tấm bản đồ da dê liền đáp: “Tôi biết một số văn Tạng cổ, nhưng, đây chỉ là một tấm bản đồ thông thường, niên đại cũng không xa lắm, bên trên không đánh dấu Hắc Đầu Thạch Thất, cũng không có bất cứ manh mối có giá trị nào!”
Đường Phong không có được tin tức gì liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất từ Đại Lạt ma, không tránh khỏi thất vọng, anh đổi hướng suy nghĩ: đã không hỏi được gì thì thà đi sớm còn hơn. Đường Phong gật gù, hỏi Đại Lạt ma: “Vậy được, chúng tôi đón nhận sự sắp xếp của ông, bao giờ đi?”
“Ngay bây giờ!” Đại Lạt ma nói như đinh đóng cột.
“Ngay bây giờ? Tại sao không đợi tới sáng mai?” Đường Phong không hiểu.
“Bởi vì tôi cảm nhận thấy nguy hiểm.”
“Nguy hiểm ư?”
“Đúng vậy, tôi để Hắc Vân đưa các anh đi, các anh có thể yên tâm về nó.” Đại Lạt ma nói tới đây, quay lại nói với Hắc Vân đứng bên cạnh: “Hắc Vân, bây giờ chúng ta ăn cơm thôi, các con ăn cơm xong là có thể lên đường sớm hơn.”
Trong phòng lại yên ắng trở lại. Hắc Vân đảm đang chẳng mấy chốc đã chuẩn bị xong bữa cơm, nhưng mọi người hình như đều không muốn ăn. Đường Phong ép mình nuốt vài miếng xuống bụng, ngẩng đầu nhìn nhìn Đại Lạt ma, rồi lại âm thầm nhìn Hắc Vân đang ăn cơm, có lời muốn nói, nhưng lời vừa kề miệng lại bị anh nuốt lại.
Đường Phong vừa ăn cơm, vừa sắp xếp lại đồ đạc anh mang theo bên mình. Đại Lạt ma đã đặt súng của ba người lên bàn, Đường Phong cầm khẩu súng ngắn 92 của mình lên, kiểm tra một lượt, không có vấn đề gì cả, chỉ có điều: đạn trong băng đạn chỉ còn lại bốn viên. Anh lại xem súng của Hàn Giang, tốt hơn của anh một chút, bên trong có bảy viên đạn. Vẫn là Makarov kinh nghiệm phong phú, băng đạn của khẩu súng ngắn Walther P5 9mm vẫn đầy ắp, Đường Phong nhủ thầm: đúng là gừng càng già càng cay!
6
Đường Phong kiểm tra trang bị xong xuôi, nhìn Hàn Giang, rồi lại nhìn Đại Lạt ma đang trầm ngâm, đột nhiên anh hỏi: “Lẽ nào ông không muốn biết chúng tôi đã có được kệ tranh ngọc bằng cách nào?”
Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: “Không cần hỏi, lại là một trận gió tanh mưa máu.”
“Ồ! Sao ông lại biết là một trận gió tanh mưa máu?” Đường Phong vô cùng bất ngờ.
“Bởi vì huyết chú đáng sợ, mỗi kệ tranh ngọc đều kèm theo một lời huyết chú!” Lời của Đại Lạt ma khiến mọi người đều ngừng nhai thức ăn.
“Ngài cũng biết huyết chú?” Hàn Giang kinh ngạc hỏi.
“Đương nhiên, người nào biết sơ qua về kệ tranh ngọc cũng đều nghe qua huyết chú. Tương truyền lúc thái tử Ninh Lệnh Ca đâm chết Hạo Vương, đã chém một đao lên mũi Hạo Vương, Hạo Vương tuy bị thương nặng nhưng vẫn vô cùng uy nghiêm, ông trừng trừng nhìn Ninh Lệnh Ca, chất vấn anh ta vì cớ gì mà giết vua giết cha. Ninh Lệnh Ca kinh ngạc, sợ đến nỗi mất hết cả dũng khí để vung đao thêm lần nữa, chỉ biết hốt hoảng tháo chạy khỏi cung, kết quả bị Một Tạng Ngoa Bàng giết chết. Hạo Vương máu chảy không ngừng, nhưng vẫn không thể tắt thở ngay tức khắc, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, người mà ông lo lắng nhất vẫn chính là Một Tạng Thị mà ông yêu say đắm và Lượng Tộ vẫn còn bọc trong tã lót. Dĩ nhiên, càng khiến ông lo lắng hơn nữa chính là tương lai của vương quốc. Trước khi chết, ở bên ông không chỉ có Một Tạng Thị bế Lượng Tộ nằm trong lòng, mà còn có cả đại thần mà ông tín nhiệm nhất là Một Tạng Ngoa Bàng và Ngôi Danh Lãng Ngộ. Sau lúc Hạo Vương mê man, khi đã giao phó lại mọi việc, cuối cùng ông đã kìm nén đau đớn, nói ra toàn bộ bí mật liên quan tới kệ tranh ngọc cho những người có mặt ở đó. Nói xong, Hạo Vương miệng trào máu tươi, đến lúc này mới thực sự quy tiên. Nghe nói là ngụm máu cuối cùng của Vương Hạo đã bắn lên kệ tranh ngọc, nên tất cả những người biết về kệ tranh ngọc đều tin rằng trên kệ tranh ngọc đã dính máu của Hạo Vương và kèm theo lời huyết chú của ông.”
“Hóa ra còn có truyền thuyết như vậy!” Đường Phong thẫn thờ, nhưng anh lập tức lại nghĩ tới điều gì đó nên hỏi Đại Lạt ma: “Thiếu niên áo trắng mà buổi sáng ông nói đến, sau này thì thế nào?”
Đại Lạt ma giải thích: “Nghe người đời trước kể thì thiếu niên áo trắng đó không ở lại, sau này anh ta lại đi tìm kiếm những kệ tranh ngọc khác, hy vọng tới một ngày có thể tìm thấy mật thành trong sa mạc, có thể hoàn thành việc phục quốc đại sự, gây dựng lại hùng phong của Hạo Vương năm nào. Kể từ đó trở đi thì không còn tin tức gì của anh ta nữa, có thể anh ta đã chết trên đường tìm báu vật từ lâu rồi, có thể cuối cùng anh ta đã từ bỏ con đường gian nan đó, ẩn cư tại sơn lâm. Tóm lại, thiếu niên áo trắng đó đã biến mất bặt vô âm tín.”
Đại Lạt ma nói xong những điều này, hình như còn cảm thấy nặng nề hơn, ông quay lại nói với Hắc Vân bên cạnh: “Hắc Vân, ta đã nghĩ đi nghĩ lại và cảm thấy thật có lỗi với con. Ta không có gì để bù đắp cho con nên sẽ chỉ ra cho con một con đường tươi sáng vậy! Nếu như con muốn ra đi, lần này sau khi ra ngoài rồi cũng không cần quay lại nữa. Mấy người họ đều là người tốt, hãy tin ta, ta nhất định không nhìn nhầm đâu, nếu như sau khi con ra đi có gì khó khăn, họ sẽ giúp đỡ con.”
Hắc Vân mắt ngấn lệ, nghẹn ngào: “Không! Sư phụ, con không rời xa thầy đâu.”
“Ngốc ạ, con cũng nên đi xem xem thế giới bên ngoài.” Đại Lạt ma hiền từ nói.
“Nhưng... nhưng con đi rồi, ai sẽ chăm sóc thầy?” Hai hàng nước mắt long lanh chảy dài trên má Hắc Vân.
Đại Lạt ma phẩy phẩy tay: “Con không cần phải chăm sóc ta nữa, ta cảm thấy mình đã đến giới hạn rồi, người Đảng Hạng cuối cùng... từ nay trở đi, trên thế gian này sẽ không còn người Đảng Hạng nữa!”
Khi Đại Lạt ma nói ra hai câu cuối cùng, giọng nói đột nhiên cao vút lên, trở nên run rẩy, làm mọi người vô cùng kinh ngạc. Trong chính giây phút mọi người đang kinh ngạc đó thì một loạt tiếng súng nặng nề vang lên, đập vào màng nhĩ họ.
7
Tiếng súng, là tiếng súng chọc thủng màng nhĩ khiến người ta sợ hãi! Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều không nghe lầm, họ lập tức nhận thức ra: nguy hiểm thực sự đến rồi!
Pằng! Pằng! Pằng!... Một viên đạn xuyên thủng bức tường của ngôi nhà gỗ, bắn vào Phật đường, nội thất cũ kĩ trong Phật đường, đĩa trên bàn, thức ăn vẫn chưa hết đều bị làn đạn dày đặc bắn cho tung tóe. Hàn Giang và Makarov theo phản xạ nằm bò ra sàn nhà, Đường Phong cũng phản xạ rất nhanh, anh thấy Hắc Vân đang đứng ngây ra bên cạnh liền kéo cô xuống, đè lên bên cạnh người mình.
Phía đầu kia, tiếng hét hoảng hốt của Lương Viện và tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma vẫn vang vọng khắp Phật đường. Đường Phong nghe ra: kinh văn mà Đại Lạt ma đang đọc chính là đoạn kinh văn mơ hồ khó hiểu mà ông tụng sáng hôm nay. Makarov đang nhoài người trốn sàn nhìn thấy Lương Viện bên cạnh đang hoảng hốt cuống quýt, liền nhảy lên, ấn Lương Viện xuống sàn nhà.
Tiếng súng mỗi lúc càng thêm dồn dập, không có dấu hiệu gì là dừng lại. Hàn Giang quay đầu lại nhìn, Đại Lạt ma ngồi ngay ngắn trên sập, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, không hề có ý né tránh. Hàn Giang quay người lại, nhoài tới gần trước mặt Đại Lạt ma, hét lên với ông: “Ông muốn mất mạng sao! Bò xuống! Bò xuống!”
Nhưng đáp lại anh chỉ có tiếng tụng kinh càng thêm thành kính của Đại Lạt ma. Hàn Giang đang định với tay ra kéo Đại Lạt ma thì Pằng! Một viên đạn đã sượt qua lòng bàn tay Hàn Giang, cắm vào người Đại Lạt ma, ngay sau đó, Pằng! Pằng! Lại thêm hai viên đạn. Máu đã thấm ướt chiếc áo cà sa màu đỏ trên người Đại Lạt ma, Hàn Giang đã không phân biệt được đâu là màu của áo cà sa, đâu là máu của Đại Lạt ma!
Người Đại Lạt ma trúng đầy đạn nhưng vẫn không ngừng tụng kinh. Hàn Giang bó tay, anh liếc ngay thấy súng ngắn trên bàn rồi thuận tay nhặt ba khẩu súng lên, ném hai khẩu cho Đường Phong và Makarov. Anh nắm chặt khẩu súng của mình, nhoài tới trước cửa sổ gỗ của Phật đường. Lúc này, Lương Viện đã ngừng la hét, tiếng tụng kinh của Đại Lạt ma cũng không còn vang vọng nữa, tiếng súng bên ngoài hình như cũng dần dần dừng lại.
Hàn Giang liếc ra ngoài cửa sổ, năm sáu tên áo đen đội mũ chụp mặt tay cầm súng, từng bước từng bước áp sát ngôi nhà gỗ. Anh lấy tay ra hiệu cho Đường Phong và Makarov, Đường Phong và Makarov lập tức hiểu ý. Hàn Giang yêu cầu họ phải chuẩn bị xong xuôi, từ từ tản ra khỏi Phật đường. Đường Phong và Makarov gật gật đầu với Hàn Giang. Makarov kéo Lương Viện, Đường Phong kéo Hắc Vân, bò ra khỏi Phật đường. Hắc Vân vẫn muốn đến kéo theo cả Đại Lạt ma đang thở thoi thóp nhưng đã bị Đường Phong ép ấn xuống. Đường Phong bịt miệng Hắc Vân, Hắc Vân ra sức giãy giụa, khóc lóc...
Đường Phong cứ thế lôi Hắc Vân ra khỏi Phật đường, Hàn Giang, Makarov và Lương Viện cũng tản ra ngoài. Hành lang bên ngoài Phật đường là một góc chết khai hỏa, mấy người đều đứng thẳng dậy, Hàn Giang khẽ nói: “Xem ra chúng ta bị bao vây rồi.” Sau đó, Hàn Giang quay lại hỏi Hắc Vân: “Ở đây còn đường thoát nào khác không?”
Hắc Vân khóc thút thít đáp: “Sân... phía dưới sân, cạnh vách núi có một đường cầu trên vách núi, người bình thường không biết được.”
Hắc Vân vẫn chưa nói hết câu, Đường Phong đã vội vàng kéo tay Hắc Vân, sợ rằng cô trong lúc kích động lại chạy quay trở lại Phật đường. Lương Viện thấy vậy, tóm ngay lấy tay Đường Phong, điệu bộ tức khí phụng phịu. Đường Phong biết: đại tiểu thư Lương Viện này lại ghen rồi.
Lúc này, Hàn Giang khẽ ra mệnh lệnh: “Xem ra chúng ta chỉ còn con đường thoát này thôi. Mọi người cứ đợi ở đây đã để tôi đi xem thử trên sân còn có kẻ thù nào không.”
Nói xong, Hàn Giang khom lưng bước nhanh tới trước cửa ngôi nhà gỗ, nhìn về phía sân ngoài cửa, trên khoảnh sân cạnh vách núi không có người. Xem ra bọn áo đen này không hề biết sự tồn tại của đường cầu trên vách núi, không tấn công từ phía sau hoặc bắn tỉa hai bên cánh. Hàn Giang vẫy vẫy tay về phía mọi người đứng sau lưng, mọi người dồn lại phía sau cánh cửa. Hàn Giang khẽ ra lệnh: “Đường Phong, cậu đưa Lương Viện và Hắc Vân tới đường cầu trên vách núi trước đi, tôi và Lão Mã sẽ yểm trợ.”
Đường Phong vẫn muốn nói gì đó, nhưng thấy Hàn Giang đã chuẩn bị xuất kích xong xuôi, nên Đường Phong lại thôi, anh một tay kéo Lương Viện, một tay dắt Hắc Vân, chỉ đợi Hàn Giang phá cửa xông ra.
Rầm! Hàn Giang đạp tung cửa, lao ra như bay, rơi xuống khoảnh sân trước cửa. Anh vừa mới rơi xuống đất, tiếng súng ầm ầm đã lại lập tức vang lên. Hàn Giang theo đà lăn một vòng, tựa vào phía sau một tảng đá, bắn trả. Cùng lúc này, Makarov lợi dụng có cánh cửa yểm hộ nên liền bắn về phía bọn áo đen, còn Đường Phong thì kéo Lương Viện và Hắc Vân, ba người khom lưng, lao nhanh ra khỏi cửa căn nhà gỗ...
8
Lại là một loạt tiếng súng dồn dập khiến Lương Viện và Hắc Vân sợ hãi đến nỗi hét toáng lên, may mà có Hàn Giang và Lão Mã yểm hộ, Đường Phong kéo Lương Viện và Hắc Vân chạy tới vách núi, nhảy xuống một tảng đá to, đạn không thể bắn tới đây, Đường Phong đứng thẳng lưng lớn tiếng hỏi Hắc Vân: “Đường cầu trên vách núi mà cô nói đâu?”
Hắc Vân rẽ một bụi rậm bên vách núi ra, một đường cầu nhỏ hẹp xuất hiện trên vách núi. Quả nhiên có đường cầu trên vách núi! Trong lòng Đường Phong rất ngạc nhiên, anh nhìn đường cầu nhỏ hẹp uốn lượn quanh co giữa vách núi, dẫn thẳng tới phía dưới khe núi. “Đường cầu trên vách núi này dẫn tới đâu vậy?” Đường Phong lại lớn tiếng hỏi.
“Dẫn xuống dưới vách núi, cạnh bờ biển, ở đó có con thuyền nhỏ, mọi người đi theo tôi.” Hắc Vân nói xong, dẫn đầu đi tới đường cầu trên vách núi đó.
Những lời của Hắc Vân đã khiến Đường Phong sáng cả mắt lên, anh quay đầu lại nhìn khoảnh sân phía trên vách núi, tiếng súng dần dần im ắng. Anh biết đạn của Hàn Giang và Lão Mã đều không còn nhiều nữa, anh định xông lên trên, nắm chặt khẩu súng trong tay, bên trong khẩu súng chỉ còn có bốn viên đạn mà thôi... Rốt cuộc, anh vẫn kìm nén được sự manh động trong lòng, theo Hắc Vân và Lương Viện nhảy lên đường cầu trên vách núi chỉ đủ cho một người đi.
Đến cuối đường cầu trên vách núi, ở đây quả nhiên có một chiếc thuyền gỗ. Hắc Vân và Lương Viện nhảy lên thuyền, còn Đường Phong lại đứng trên bờ đá, khổ sở chờ đợi Hàn Giang và Makarov xuất hiện. Đột nhiên, anh nghe thấy một loạt tiếng súng dồn dập, Đường Phong bất giác giật thót tim, lẽ nào Hàn Giang…
Tiéng súng càng lúc càng to, càng lúc càng gần, Đường Phong bỗng nhìn thấy một người chạy từ đường cầu thang trên vách núi xuống, là Hàn Giang, nhưng không thấy Makarov! Hàn Giang chạy tới phía trước, Đường Phong vội vàng hỏi: “Lão Mã đâu?”
Hàn Giang quay lại nhìn, thở hổn hển nói: “Lão... Lão Mã ban nãy còn ở đằng sau, bây giờ... tôi... tôi cũng không biết.”
Đường Phong để Hàn Giang lên thuyền trước, còn mình thì ở lại trên bờ tiếp ứng, chẳng bao lâu sau, Makarov cũng xuất hiện trên đường cầu vách núi. Makarov đã không chạy nổi nữa rồi, dù sao ông cũng đã cao tuổi. Đường Phong bước nhanh từng bước dài, chạy lên phía trước đỡ Makarov, gần như vừa kéo vừa lôi, rút cuộc cũng đưa được Makarov lên thuyền.
Năm người trên thuyền, đám người áo đen chụp mũ kín đầu màu đen cũng đã đuổi đến bờ, năm sáu nòng súng cùng lúc nhắm bắn vào chiếc thuyền nhỏ.
Đây là một chiếc thuyền nhỏ không có động cơ, tất cả đều phải dựa vào sức người để đẩy đi, bốn người Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện và Hắc Vân đều dồn hết sức lực, cuối cùng cũng dần dần chèo được thuyền xa khỏi bờ. Pằng! Pằng! Pằng!... Đạn bắn liên hồi lên mặt nước sát mạn thuyền làm nước không ngừng bắn lên tung tóe.
Lão Mã mệt đến nỗi ngồi bệt ra cũng giúp một tay chèo thuyền, mọi người bất chấp rừng súng mưa đạn, cuối cùng cũng chèo được thuyền ra giữa hồ. Tiếng súng dần im ắng, cả năm người đều mệt đến nỗi bò ra thuyền, mặc cho con thuyền chầm chậm trôi theo dòng nước chảy xuống hạ nguồn.
Không biết qua bao lâu sau, Đường Phong đang nằm bò ra thuyền bỗng nhiên lại lẩm bẩm: “Giờ thì rốt cuộc tôi cũng đã hiểu, tại sao Hắc Vân hôm đó lại mất tích trên vách núi, hóa ra là chiếc...” Đường Phong đang nói nửa chừng, đột nhiên nhớ ra điều gì đó, anh ngồi phắt dậy, hốt hoảng kêu lên: “Chết rồi!” bỗng dưng Đường Phong kêu toáng lên như vậy nên ai cũng giật bắn mình, tất cả đều nhìn Đường Phong. Đường Phong vội hỏi Hắc Vân: “Những người trong thôn thì sao? Thế này chẳng phải họ đã gặp họa rồi sao?”
Hắc Vân vừa nghe thấy Đường Phong hỏi về việc này, đã bình tĩnh hơn một chút, đáp lại: “Việc này anh không phải lo lắng, hôm qua sư phụ đã bảo mọi người trong tộc di tản hết rồi!”
Câu trả lời của Hắc Vân càng khiến mọi người kinh ngạc hơn. Đường Phong hỏi: “Hôm qua Đại Lạt ma đã tiên đoán trước được tai họa hôm nay rồi sao? Lẽ nào ông thật sự có thể đoán trước được tương lai?”
Nhắc đến sư phụ, mắt Hắc Vân lại ươn ướt, thút thít nói: “Hôm qua, sư phụ đã biết trong ba lô của các anh có kệ tranh ngọc. Ông nói với tôi và mọi người trong tộc rằng: các anh đã vì kệ tranh ngọc nên đến đây, vậy thì sự yên bình ở đây đã bị phá vỡ, huyết chú... huyết chú ắt sẽ linh nghiệm, vận đen sẽ lại lần nữa giáng xuống đầu chúng tôi. Vậy là, sư phụ bảo mọi người trong tộc hãy nhanh chóng di tản khỏi đây.”
Đường Phong gật gù lại hỏi tiếp: “Đúng rồi, Hắc Vân, tôi luôn muốn hỏi cô, đường ra khỏi núi chỗ các cô ở đây tổng cộng có mấy đường? Những người trong tộc các cô đi tản, chắc không phải qua cái hang động mà chúng tôi tới đây chứ?”
“Dĩ nhiên không phải, đường vào núi nơi chúng tôi ở có hai con đường, một đường là hang động mà các anh đến, một đường khác phải vượt qua rất nhiều núi lớn mới đi ra được, hai con đường này đều không dễ đi. Người trong tộc di tản là đi bằng đường núi, mà bất luận là đường nào đi chăng nữa thì cũng đều bắt buộc phải do người biết đường dẫn dắt mới có thể ra ngoài được, nếu không thì chỉ sai một chút thôi cũng sẽ bị lạc đường, cuối cùng không bị bầy sói tha đi thì cũng kiệt sức mà chết. Các anh có thể từ trong động đi ra đã là vô cùng may mắn rồi.”
“Nghe đã thấy sợ rồi! Vậy thì chúng ta bây giờ nên đi đường nào?” Đường Phong hỏi.
“Bây giờ thì chúng ta không thể đi đường núi đó nữa, chỉ còn mỗi đường hang động.” Hắc Vân đáp.
“Cái gì? Vẫn phải chui vào trong hang động đó?” Lương Viện hốt hoảng. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov tuy không hét lên kinh ngạc, nhưng vừa nghe thấy đi vào trong động thì đầu cũng căng như dây đàn. Cái hang động đáng sợ đó đã khiến họ khổ sở gần chết, nhưng giờ thì cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải vào trong đó lần nữa may ra còn có một con đường sống.
Trong lúc nói chuyện, con thuyền nhỏ đã trôi đến trước hang động phía hạ nguồn, nhìn cửa động tối thui, lòng mọi người bất giác thắt lại.
Bình luận truyện