Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt
Chương 5
Qua lời bán tán thì rõ ràng là Sở khá tự hào về việc họ không có chuyên gia về tội phạm giết người hàng loạt nào. Thực ra, đó là vấn đề về lòng tự hòa dân tộc, rằng họ không cần đến một người như vậy. Nhưng trên mặt họ vẫn còn có sự khao khát nhất định khi biết rằng một người Mỹ sẽ sắp bước vào phòng để giảng hòa vài điều mà chỉ người Mỹ mới biết. Và họ sẽ, lịch sự hơn bao giờ hết (Ibrahim có thể thấy bọn họ lên kế hoạch khôn khéo đến thế nào), trách móc nước Mỹ vì việc đã mang bạo lực đến một quốc gia trong sáng như thế này, một quốc gia tuy không phải là miễn dịch với bạo lực, nhưng chắc chắn không bao giờ lại đẻ ra một thứ Hannibal Lecter (1) cả. (Ông chắc rằng có nhiều người trong căn phòng này không biết rằng Lecter chỉ là một nhân vật hư cấu). Còn có cả sự háo hức nữa, nó nói lên rằng Rất tốt, chúng tôi có thể sinh ra Osama bin Laden, nhưng các ông đã tạo ra một loại vi – rút Jeffrey Dahmen (2) lây truyền khắp thế giới, và đó là tại sao chỉ có các ông mới có vác- xin.
(1) Nhân vật bác sĩ giết người hàng loạt trong series tiểu thuyết của Thomas Harris, nổi tiếng nhất với bộ phim chuyển thể Sự im lặng của bầy cừu.
(2) Jeffrey Dahmen là tên sát thủ hàng loạt đã giết và ăn thịt 17 người. Hắn bị giết trong tù 1994.
Ibrahim tình cờ nghe được ai đó thì thào: “Anh có nghĩ ông ta sẽ nói về Ed Bundy không?”.
“Ted Bundy (3)!” Daher vừa lớn tiếng chữa lại, vừa đập vào gáy tay sĩ quan kia.
(3) Ted Bundy là tên sát nhân hàng loạt nổi tiếng đã bị tử hình năm 1989. Hắn được coi là đã sát hại ít nhất 100 phụ nữ.
Đó là khoảng thời gian cuối tuần dài dằng dặc. Ibrahim lúc nào cũng lo nghĩ về Sabria, nhưng hiện giờ, khi nhìn thấy cả phòng hợp đông kín người, ông cố gắn cất giữ hình ảnh của cô trong tâm trí mình tập trung vào vụ án.
Một số sĩ quan không có mặt, và một nửa số nhân viên pháp y vẫn còn ở ngoài hiện trường. Bọn họ phải hoàn tất công việc di dời các thi thể để đưa đi khám bệnh, nhưng trong hai mươi tư giờ vừa qua, các nhân viên pháp y đã khám phá thêm một điều: hung thủ đã chôn một bàn tay bị chặt ngay gần thi thể của chính bàn tay đó. Điều này đã gợi ý cho các nhân viên pháp y và đội khai quật hiện trường mở rộng phạm vi ra xung quanh các thi thể để tìm thêm bằng chứng. Bọn họ tìm thấy hai bàn tay nữa được chôn gần một cái xác khác, nhưng chỉ có vậy.
Ibrahim ngạc nhiên rằng ông vẫn là người chịu trách nhiệm về vụ án này. Riyadh chuyển ông ra khu vực sa mạc vì ông đã điều tra ra vụ trọng án mười năm nay rồi. Giờ thì đột nhiên ông thấy mình nắm vị trí cao nhất của một vụ án có thể được gọi là nghiêm trọng nhất trong mười năm trở lại đây. Phía cuối phòng, mấy tay thám tử mới vào nghề của Sở tụ tập thành một nhóm: Osama, Abu-Haitham, chàng kều cục mịch Yasser Mu’tazz, cùng hai người nữa mà ông không thể nhớ tên.
Ngay khi viên cảnh sát người Mỹ xuất hiện, tất cả sự mong đợi đều sụp đổ. Ibrahim gần như có thể nghe thấy tiếng Chết tiệt! đồng thanh vang lên như một dàn hợp xướng trong tâm tưởng, được nổi tiếp bởi một tiếng hít vào thật sâu khi Tiến sĩ Charlie Becker bước vào phòng. Cô có gương mặt trắn sứ mịn màng, chiếc áo sơ-mi cài cúc trễ như một sự chế nhạo lòng can đảm của đàn ông Ả Rập Xê-út: trắng muốt và lỏng lẻo, nhưng bám sát người rất đúng chỗ. Cô thậm chí chẳng đeo khăn trùm đầu, và mái tóc dài mềm mại màu đỏ nâu bồng bềnh đến mức mỗi cử động đều khiến nó dường như sinh động hẳn.
Cô có vẻ bối rối giây lát, như thế bước vào nhầm phòng, tại một đất nước xa lạ nào khác. Cô quay lại nhìn người hướng dẫn của mình, Chánh Thanh tra Riyadh, người đang sải bước lên trước, gật gật đầu với cô trước khi tại vị ngay phía trên đám lính của mình với vẻ cương nghị cẩn trọng.
“Thưa quý vị, tôi xin được giới thiệu tới quý vị chuyên gia FBI của chúng ta về lĩnh vực giết người hàng loạt, Tiến sĩ Charlie Becker, người đã vui lòng bay tới đây từ một hội nghị ở Dubai.” Qua giọng Riyadh, rõ ràng là ông cũng không hề biết Tiến sĩ Becker lại là phụ nữ cho đến khi cô xuất hiện. “Tiến sĩ Becker không nói tiếng Ả Rập, nhưng Sĩ quan Kazaz đã được đề nghị sẽ phiên dịch.” Mọi ánh mắt đều dồn về phía Kazaz như thể anh ta vừa được xức dầu phong vua.
Ibrahim để ý thấy người ông của nhóm Murrah là Talib al-Shafi, người chịu trách nhiệm phần lớn các công việc dò tìm dấu vết tại hiện trường. Ông đứng bên cửa ra vào, gày gò với mái tóc xám dày được tết lại và vấn lên dưới khăn đội đầu. Khi Charlie bước vào phòng, ông soi xét kỹ cách đi của cô, nhìn đôi bàn chân cô, như thể thấy chúng là chấp nhận được, sau đó quay bước bỏ đi.
“Cảm ơn quý vị đã chào đón tôi.” Charlie lên tiếng khiến mọi người ngạc nhiên. Chắc cô không hiểu được âm điệu cao và sặc nét trong giọng cô đã dội vào các bức vách mà từ lâu lắm rồi không được biết đến thanh âm phụ nữ. Cô nhận ra hiệu ứng những lời nói của mình trên nét mặt những người đàn ông và hơi đỏ mặt trước khi tiếp tục. “Tôi được đào tạo thành chuyên gia về tâm thần học nhưng tham gia FBI với tư cách một chuyên gia về hành vi lệch lạc, còn hiện tại tôi đang chuyên tâm đặc biệt vào những tên giết người hàng loạt. Tôi được biết các anh đang có một vụ như vậy.”
Một số gật gật đầu, nhưng toàn bộ số còn lại thì chết lặng bởi cử chỉ của cô, vừa yếu đuổi lại vừa tự tin, nhất là khi mái tóc của cô lấp loáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Hầu hết mọi người trong phòng có khả năng nghe tốt để hiểu cô đang nói gì. Việc dịch nói chỉ là hỗ trợ thêm. Ibrahim bước lên trước.
“Tiến sĩ Becker,” ông nói, “cảm ơn cô đã nhận lời đến đây. Tôi là Thanh tra Ibrahim Zahrani và là người phụ trách vụ án này. Đúng là chúng tôi có vẻ đang có một vụ giết người hàng loạt và chúng tôi đánh giá cao bất cứ điều gì cô có thể cho biết.”
“Tôi nên hiểu là các anh chưa từng gặp vụ giết người hàng loạt nào trước đây chăng?”
Khi câu hỏi được chuyển ngữ xong nó đã làm nổ ra một cuộc tranh luận. “Tất nhiên là chúng tôi đã từng gặp những vụ giết người hàng loạt.” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập. “Cô ta nghĩ chúng ta hoàn toàn chậm tiến hay sao vậy?”
“Nói cho cô ta biết về vụ Yanbu đi.” Ai đó lên tiếng.
“Cô ấy đã biết vụ đó rồi.” Người phiên dịch trả lời. “Cô ấy đang muốn hỏi cụ thể trường hợp của Sở ta kìa. Có ai trong phòng này trước đây đã xử lý một vụ giết người hàng loạt không?”
“Có.” Từ phía cuối phòng Osama lên tiếng. “Tên sát thủ ở nhà chứa.”
Kazaz chuyển ngữ câu trả lời đó.
“Đó là kiểu giết người rải rác.” Charlie lên tiếng, ngay lập tức chấm dứt việc bàn luận. “Giết người rải rác là một loại khác biệt. Kẻ sát nhân thường bị cám dỗ bởi bản tính khát máu. Một tên giết người hàng loạt thì tỉ mỉ hơn thế rất nhiều và thường chúng sẽ cẩn trọng hơn.”
Ibrahim thấy Katya Hijazi lẻn vào phòng. Cô đứng ngay sát cửa và cố tỏ ra như thể mình cũng là một phần của đám đông ở đây. Charlie cũng nhận thấy sự có mặt của Katya, liền mỉm cười với cô, và ngập ngừng điều đang nói khiến mọi người trong phòng quay sang nhìn Katya chằm chằm. Cuối cùng thì Charile lên tiếng: “Xin chào” với vẻ mặt có phần lấy làm tiếc về việc đó. Katya trông như chỉ muốn tát cho Charlie một cái.
“Dù sao thì,” Charlie nói tiếp, “bước quan trọng nhất trong việc điều tra vụ án kiểu này là xác định được vấn đề các anh đang phải đối mặt là gì. Và các anh đã đi được nửa đường rồi. Các anh đã biết được hắn là một tên giết người hàng loạt. Cho đến khi nhận diện được một số nạn nhân, không ai có thể nói một cách cụ thể về tên sát nhân này được – thí dụ như hắn có thể gặp gỡ những phụ nữ này ở đâu, hắn ta sống ở khu dân cư như thế nào, hắn có thể làm nghề gì, gia đình ra sao, hay các mối quan hệ xã hội của hắn như thế nào. Chính vì vậy tôi sẽ nói với các anh những gì chúng tôi biết về tội phạm giết người hàng loạt, sau đó tôi sẽ nói khái quát về vụ án các anh đang có, giả sử là chúng ta đã biết quy luật giết người của hắn.”
Khi người phiên dịch nói xong, trong phòng chỉ nghe thấy tiếng ro ro của không khí lưu chuyển qua lỗ thông hơi của hệ thống điều hòa nhiệt độ.
“Đối với hầu hết những tên giết người hàng loạt, khởi nguyên đều từ sự mộng tưởng.” Charlie nói. Có người đưa mời cô một chai nước, cô mở nó và nhấp một ngụm. “Ai cũng có mộng tưởng của mình, phải không ạ? Có người mộng tưởng được làm sếp, có người lại mong muốn vợ mình yêu mình hơn bất kỳ ai trên thế giới này. Dù đó là điều gì đi nữa, thì hắn cũng là điều bình thường.”
Ibrahim nghe tiếng ai đó bên cạnh thì thào nói khẽ “Ayyyyyyywa” Đúngggggggg. Ông ngờ rằng đó là Daher.
“Hầu hết những tên sát nhân đều có động cơ rõ ràng và dễ hiểu- sự tham lam, sự giận dữ, sự trả thù – nhưng đối với những tên giết người hàng loạt, động cơ chính lại mang tính cá nhân, tính nội tâm, và khó có thể nắm bắt được hoàn toàn. Nó giống như sự cưỡng bách. Những vụ án mạng do chúng gây ra nhằm thỏa mãn nhu cầu nội tại, biến những mộng tưởng mà chúng nuôi dưỡng, thường trong một thời gian dài, trở thành hiện thực. Có khi là từ thời thơ ấu, sự mộng tưởng của chúng rất tàn bạo. Chúng thường liên quan đến những hành vi ác dâm và làm biến dạng cơ thể con người. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự biến dạng cơ thể trong vụ án của các anh.” Cô đưa mắt nhìn tấm bảng trắng với những bức hình của mười chín khuôn mặt đã bị biến dạng được treo ngay ngắn theo hàng. “Nhưng điều quan trọng cần biết về những mộng tưởng đó là chúng giống như sự nghiện ngập. Tôi hiểu các anh không có những tệ nạn như đánh bạc hay rượu chè hoặc thậm chí là ma túy ở đây. Nhưng hẳn các anh đều biết về chúng, và chắc đã được thấy chúng.”
“Điển hình nhất, rượu thường đi liền với một vấn đề hoặc một nỗi đau nào đó, và mộng tưởng cũng vậy. Chính vì thế mà kẻ giết người thường bám vào mộng tưởng của hắn để cảm thấy thoải mái hơn. Hắn sẽ nuôi dưỡng nó trong nhiều năm, và giống như chứng nghiệm ngập vậy, nó lớn đến mức mà hắn cần phải mộng tưởng nhiều hơn để duy trì sự hưng phấn. Một vại bia không thể khiến người ta say, nên một kẻ nghiện rượu sẽ phải bắt đầu với mười bại, hoặc có thể là hai mươi. Đối với kẻ sát nhân, hắn đạt đến độ mà hắn cần để biến mộng tưởng của hắn thành hiện thực.”
Charlie đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Lúc này cô đã tự tin hơn, không còn vẻ ngượng ngùng nữa. Cô nhận thấy có điều gì đó trên nét mặt Daher, và lên tiếng: “Anh có câu hỏi gì chăng?”
Anh ta lắc đầu.
“Không sao, xin cứ tự nhiên.” Cô nói. “Anh…?”
“Daher.” Anh ta hắng going. “Waseem Daher.” Thật buồn cười khi thấy anh ta tỏ ra không thoải mãi lắm. “Tôi chỉ đang băn khoăn… Hắn điên dại, phải vậy không? Hắn cho rằng chuyện là bình thường khi giết người để thỏa mãn mộng tưởng bệnh hoạn của mình. Tại sao lại như vậy?”
“Câu hỏi rất hay. Các chuyên gia tâm thần học gọi những người này là bệnh nhân tâm thần hay kẻ bệnh thái nhân cách, tùy vào một số yếu tố nhất định. Tuy nhiên ngày nay người ta thường gọi chúng là những kẻ mắc chứng rối lại nhân cách chống xã hội, nói tắt là ASPD (4). Tóm lại, nó có nghĩa là chúng không có lương tri như anh hay tôi. Chúng thường không có khả năng yêu thương, tức là không phát triển các mối quan hệ lâu dài trừ phi có động cơ rõ ràng cho mối quan hệ đó, như tình dục hoặc tiền bạc chẳng hạn. Chúng bốc đồng và hung hăng. Nhưng khía cạnh rõ nét nhất đó là chúng hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi.”
(4) ASPD: Antisocial personality disorder.
“Vì vậy nên chúng không hiểu cách hành xử với con người?”
“Thực - ra- là,” Charlie nói, “chúng không cảm nhận được những gì mà người bình thường cảm thấy, nhưng chúng hiểu con người ở một mức độ đáng kinh ngạc. Chúng có khả năng lừa gạt những người thân thiết nhất của mình – như thành viên trong gia đình, đồng nghiệp – và chúng có thể thực hiện điều đó một cách hoàn hảo bởi chúng hiểu những người này. Những đối tượng đó thường là những kẻ nói dối khôn ngoan. Và cực kỳ thông minh.”
Daher gật gật đầu với vẻ không thỏa mãn cho lắm.
“Liệu chúng tôi có nên tra cứu hồ sơ tội phạm để tìm ra tên giết người không?” Ibrahim hỏi.
“Được chứ.” Charlie đáp. “Các anh hoàn toàn có thể kiểm tra, nhưng có khả năng các anh sẽ không tìm được gì. Một số vụ án cho thấy những kẻ giết người hàng loạt có tiền sử về tội bạo hành, nhưng thật ra chúng thường rất, rất giỏi trong việc không để bị bắt. Còn nếu anh định tra cứu hồ sơ tội phạm, hãy tìm những đối tượng mắc chứng cuồng phóng và những kẻ xâm phạm đời tư cá nhân. Đó là những hành vi phạm tội phổ biến nhất trong giai đoạn của loại hình tội phạm này.”
Ibrahim gật đầu.
Các chuyên gia thường đề cập đến sáu giai đoạn của việc giết người.” Charlie nói tiếp. “Đây là các giai đoạn phân theo tâm thần học được xác định vào những năm tám mươi mà hầu hết các tên sát nhân đều trải qua. Tên sát thủ khởi đầu với mộng tưởng của hắn. Đây là giai đoạn một. Hắn thu mình trong thế giới nội tâm và nuôi dưỡng mộng tưởng đó. Giai đoạn hai sẽ là khi hắn bắt đầu tích cực đi tìm nạn nhân cho mình. Hầu hết những tên giết người đều bắt đầu ở một nơi quen thuộc, nơi nào đó mà chúng thấy thực sự thoải mãi. Có thể là con phố chúng hay qua lại hay quán cà phê gần nhà. Giai đoạn này có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Nạn nhân của chúng phải đáp ứng được những đặc điểm như trong mộng tưởng.”
“Những giai đoạn tiếp sau có thể diễn biễn rất nhanh. Giai đoạn ba là khi kẻ giết người cố chiếm được lòng tin của nạn nhân. Giai đoạn bốn, hắn bắt giữ nạn nhân và tiết lộ hắn là ai. Năm, hắn giết người đó. Sáu, hắn suy sụp từ cực đỉnh của việc hiện thực hóa mộng tưởng của hắn. Giờ thì chúng ta hãy thử đưa ra một số ví dụ: tên sát nhân ngồi kế bên một phụ nữ trong quán bar.”
Daher nhăn trán lắc lắc đầu.
“Ồ, đúng vậy,” Charlie nói, “không phải quán bar. Các anh không có quán bar. Vậy là một nhà hàng.”
Daher lại lắc đầu lần nữa.
“Vâng, anh Daher?”
“Chuyện đó khó có thể xảy ra ở đây được. Đàn ông và phụ nữ ngồi ở những khu vực riêng biệt của nhà hàng.”
Charlie gật đầu. “Được thôi. Vậy xin cho biết ở đây làm thế nào mà đàn ông có thể tiếp xúc với phụ nữ? Ở nơi công cộng nhé.”
Những người đàn ông quay sang nhìn nhau. Người phụ nữ này có hiểu gì về Ả Rập Xê-út không nhỉ?
“Anh ta có thể nói chuyện với người phụ nữ trên đường phố.” Một giọng nói cất lên. Đó chính là Katya vẫn đứng gần cửa ra vào. Mọi người quay sang nhìn cô. “Những điều đó không có nghĩa là cô ta sẽ đáp chuyện. Nhiều khả năng là không.”
“Vậy trong trường hợp nào cô ta sẽ đáp chuyện?” Charlie hỏi.
“Nếu cô ta biết người đó.”
“Rất nhiều khả năng là cô ta không hề biết hắn. Kẻ sát nhân muốn nạn nhân là người lạ mặt.”
“Thôi được,” Katya nói. “Cô ta sẽ không nói chuyện với người đó, trừ phi, có lẽ vậy, anh ta cần cô ta giúp đỡ.”
Daher, người vẫn đang theo dõi cuộc trao đổi với cái vẻ mơ hồ trên nét mặt, nói xen nào: “Giống như Ted Bundy.”
“Tốt lắm.” Charlie nói, vẫn nhìn Katya. “Vậy có thể hắn sẽ lừa gạt cô ta bằng sự yếu đuối vờ vịt của mình. Hắn còn có thể tìm một phụ nữ ở đâu nữa?”
“Thực ra, cô ta có thể là người giúp việc của hắn.” Daher nói,
“Có lẽ không phải vậy.” Charlie nói. “Chí ít là không phù hợp lắm. Ở giai đoạn hai, khi tên sát nhân cố gắng tìm kiếm một nạn nhân hoàn hảo, hắn thường quan sát từ xa. Hắn tìm hiểu kỹ nạn nhân để tìm những biểu hiện giống với người phụ nữ trong mộng tưởng của hắn – và khi càng hiểu một ai đó, thì lại càng ít khả năng người đó giống với người trong mộng tưởng. Chính vì lẽ đó mà nhũng kẻ giết người tìm kiếm những đặc điểm bên ngoài, thường là về hình thể. Thí dụ như, Ted Bundy thích những phụ nữ có mái tóc rẽ ngôi giữa hơn.”
“Có lẽ,” Daher lên tiếng với điệu cười nhạt, “tên sát nhân của chúng tôi chẳng để ý kiểu tóc cá biệt nào đâu.”
Charlie cười nói với anh ta vẻ mỉa mai rồi quay lại phía Katya. “Được rồi. Vậy hắn có thể để ý những đặc điểm trên khuôn mặt phải không?”
“Có thể lắm.” Katya nói. “Hoặc chỉ là… dáng người chẳng hạn.”
“Rất tốt. Có thể là những phụ nữ có dáng người nhỏ bé. Hoặc mảnh khảnh.”
Riyadh từ nãy vẫn đứng ở một bên lên tiếng: “Tất cả các nạn nhân đều có chiều cao tầm từ mét tám đến mét chín. Và tất cả đều là người nhập cư, hầu hết từ các nước châu Á.”
“Một mét tám là khoảng bao nhiêu?” Charlie hỏi Katya.
“Gần sáu foot (5).” Katya đáp.
(5) Đơn vị đo chiều dài của Anh và Mỹ (1 foot ~ 0.3048m)
“Ồ, ra vậy. Như vậy là khá cao lớn.” Charlie quay về phía khán phòng sau khi tặng Katya một nụ cười bí hiểm. “Việc tìm kiếm những phụ nữ cao lớn trong các nhóm chủng tộc không phải hiện tượng phổ biến cho lắm, như vậy các anh đã biết một số điều về hắn: hắn thích những phụ nữ cao lớn người châu Á. Mục tiêu của hắn rất khác thường. Một trong những vấn đề chính của các anh là phải xác định xem tên sát nhân đã tìm và bắt nạn nhân như thế nào. Làm thế nào hắn chiếm được lòng tin của họ.”
“Có một cách phân loại quan trọng nữa đối với những tên giết người hàng loạt mà các anh sẽ muốn cân nhắc, đo là cách thức tổ chức. Hắn có tính tổ chức đến mức độ nào? Hay nói cách khác, hắn bày tính và thực hiện mộng tưởng của mình công phu đến mức nào? Lên kế hoạch cho một cụ giết người cần có thời gian và sức lực. Một số kẻ giết người sát hại nạn nhân ngay lập tức. Đó là loại vô tổ chức. Chúng có khuynh hướng hành động tùy tiện. Chúng cũng có khuynh hướng vô cùng khát máu và tàn bạo. Loại có tính tổ chức thì khác hắn. Chúng phân chia giai đoạn giết người – bao gồm năm giai đoạn tất cả - kéo dài trong vòng vài ngày thậm chí vài tuần. Thông thường chúng không giết nạn nhân ngay lập tức, và thậm chí nếu làm vậy, chúng không vứt bỏ xác của họ ngay. Chúng muốn duy trì việc tận hưởng cảm giác rùng rợn khi được nhìn ngắm nạn nhân bị hành hạ. Chúng muốn sự mộng tưởng đó kéo dài càng lâu càng tốt. Chuyện chỉ dừng lại khi chúng thấy chán ngấy. Bộ phim khoa học Hành vi của chúng tôi đã nghiên cứu cách phân loại này và nó còn mở rộng ra cả hiện trường vụ án. Loại giết người vô tổ chức thường để lại một hiện trường lộn xộn. Nhưng một kẻ có tính tổ chức thì lại tỉ mỉ và thường lập kế hoạch chính xác để che đậy mọi dấu vết của hiện trường. Ngoại trừ một thứ: vật tế.”
“Đó là cái gì vậy?” Kazaz, người phiên dịch, hỏi lại.
“Vật tế là một thứ tên sát nhân giữ lại sau khi giết người thông thường là một phần xác chết, nhưng nó cũng có thể là bất cứ thứ gì. Nó giống như một thứ chiến lợi phẩm, nhắc hắn về một trải nghiệm, và hắn có thể trở lại đó với khoái lạc hay niềm kiêu hãnh.”
“Những bàn tay.” Ibrahim lên tiếng.
Charlie nhìn ông, sự chú ý của cô như thể một chiếc đèn pha. “Vâng, hắn đã chặt tay của nạn nhân. Cả hai tay, phải vậy không thưa ông?”
“Đúng vậy.” Ibrahim đáp. “Hắn đã chặt đôi tay của những người phụ nữ đó, nhưng hôm qua chúng tôi đã tìm được ba bàn tay chôn gần những cái xác.”
“Chỉ có ba bàn tay thôi sao?”
“Vâng.”
Charlie trầm ngâm giây lát. “Những bàn tay đó có khả năng chính là chiến lợi phẩm của hắn. Hoàn toàn xác đáng khi đặt ra câu hỏi tại sao hắn chỉ chôn có ba bàn tay mà thôi. Có thể có những chứng cứ nào đó trên ba bàn tay kia sẽ giúp các anh hiểu được vì sao hắn lại lựa chọn việc chặt tay nạn nhân từ đầu. Các anh có thể sẽ không tìm ra được câu trả lời cho đến khi bắt được hắn, nhưng nếu nắm được vấn đề này, nó sẽ là một manh mối rất đáng giá.”
“Tất nhiên các anh nên tìm hiểu kỹ hơn, nhưng từ những gì mà các anh biết được về tên hung thủ này, tôi cho rằng các anh đang đương đầu với một kẻ rất có tính tổ chức. Hắn cần thời gian trước khi vứt bỏ những cái xác. Và theo tình trạng của những cái xác đó - mất tay, khuôn mặt bị biến dạng - và địa điểm chôn cất là khu vực biệt lập, thì có thể thấy hắn rõ ràng đang thực hiện mọi việc một cách có hệ thống. Nạn nhân mới nhất có phải đã chết cách đây ba tháng không?”
“Không lâu hơn sáu tháng.” Ibrahim nói.
“Vậy thì dù không muốn tôi vẫn phải nói rằng rất có khả năng hắn sẽ lại sớm ra tay. Ngay lúc này đây có lẽ hắn đang lên kế hoạch cho vụ sát hại tiếp theo. Vấn đề thực sự là làm thế nào hắn tiếp cận được những người phụ nữ này? Hắn tìm họ ở đâu và họ có điểm gì chung? Các anh có rất nhiều việc để làm nhằm xác định được những đối tượng này. Hắn sẽ nhận ra các anh đã phát hiện ra nơi hắn chôn giấu nạn nhân, và hắn sẽ điều chỉnh cách thức thực hiện. Có khả năng hắn sẽ không đến chỗ cũ để tìm kiếm nạn nhân nữa, nhưng có lẽ hắn không sẵn sàng thay đổi “tip” nạn nhân của mình.”
Một bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm căn phòng.
“Vậy thì,” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập, “có lẽ chúng ta nên bắt đầu nói với những người phụ nữ của chúng ta rằng họ nên ở nhà.”
Charlie nhìn Kazaz chờ được dịch, nhưng anh ta nhíu mày tư lự.
Cả căn phòng im ắng, thỏa dạ vì bữa ăn kiến thức. Ibrahim nhận ra có đôi chút dao động: rất nhiều sĩ quan không quen với việc bị phụ nữ chỉ huy.
“Tôi nghĩ hiện thời thế là tạm đủ.” Chánh thanh tra Riyadh lên tiếng. “Tiến sĩ Becker đã vui lòng nhận lời giải đáp bất cứ câu hỏi nào trong vòng một tháng tới, nên chúng ta có thể trao đổi với Tiến sĩ sâu hơn khi nhân viên giám định y tế hoàn tất báo cáo và chúng ta đã nghe từ đội pháp y.”
Mọi người tản dần. Charlie và Riyadh đứng nói chuyện phía trên khán phòng, còn Daher tụ tập với mấy người bạn. Katya lén rời khỏi phòng họp.
Ở hành lang, Ibrahim đâm sầm vào Talib, người của nhóm tìm dấu vết Murrah.
“Ông đi sớm thế.” Ibrahim lên tiếng.
“Thực ra, tôi đã biết hung thủ không phải phụ nữ.” Ông hất cằm về phía Tiến sĩ Becker.
“Cảm ơn Chúa vì điều đó. Nhưng ông đã nói là không tìm được dấu chân nào của hung thủ cơ mà.”
“Ồ, tôi có thứ gì đó.” Talib nói. “Nó không đủ rõ để chụp ảnh lại, nhưng đủ để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Đủ để có thể phán đoán về hắn.”
“Sao ông không cho tôi biết khi ở hiện trường vụ án?”
“Rất mất thời gian để loại trừ những người đã ở hiện trường.”
“Thôi được.” Ibrahim nói. “Vậy chắc chắn hung thủ là một người đàn ông?”
“Đúng vậy.”
“Và hắn sống ở đâu vậy, tên sát nhân ấy?”
Talib mỉm cười. “Câu hỏi hay nhỉ. Điều gì khiến anh nghĩ tôi có thể trả lời?”
Ibrahim nhún vai.
“Hắn sống trong thành phố. Lưng không có dị biệt gì. Hắn cao lớn hơn tôi rất nhiều, nặng cân hơn.” Bằng đôi tay nhỏ bé, Talib khum tay làm điệu bộ quanh cái bụng cỡ chuột nhảy của mình.
“Và ông sẽ cho tôi biết làm thế nào ông tìm hiểu được những điều đó chứ?” Ibrahim hỏi.
“Hắn sử dụng chân phải khác hoàn toàn với chân trái. Và cách đi khác biệt đó cho thấy hắn bị thương hoặc là hắn lái ô-tô. Chân phải linh hoạt hơn, trong mọi cử động của gan bàn chân và thậm chí là mắt cá chân. Khi bước đi bàn chân hắn hơi đảo một chút từ bên này sang bên kia. Cẳng chân phải cũng khỏe hơn. Có lẽ hắn là người thuận tay phải.”
“Thế vì sao hắn lại là đàn ông?”
“Chỉ đàn ông mới lái ô-tô.”
Ibrahim cười mỉm rồi cười phá lên thành tiếng. “Đúng rồi, xin lỗi nhé. Mừng vì có người đã dùng tư duy lô-gíc.”
Người đàn ông Bedouin vẩy tay một cách lịch sự ý nói: tôi khá chắc là anh còn giỏi tư duy lô-gíc hơn cả tôi ấy chứ.
Ibrahim mở cửa văn phòng của mình và tạm biệt Talib. Ông chỉ kịp bật đèn lên thì một toán người đã bước vào phòng: một người của đội sĩ quan trẻ, Shaya, rồi Daher và đám bậu sậu của anh ta. Ông nhìn thấy thấp thoáng một bóng đen ở hành lang và tự hỏi có phải Katya cũng muốn nói chuyện với ông không.
Căn phòng khá nhỏ - hai bàn tiếp khách và một bàn làm việc, đó là trang bị tốt nhất mà hiện thời Sở có thể lo liệu được. Hoàn toàn không phù hợp để họp hành gì. Người thì ngồi trên ghế đầu, người ngồi ghế trên bàn ông. Ông nhận ra họ muốn có sự chỉ đạo. Ông ngồi xuống.
“Thực ra, cái cô người Mỹ đó cũng có ích đấy chứ.” Daher nói. “Không gì giống với một gương mặt phụ nữ khiến ta phải để tâm.”
“Cái tâm của cậu đâu để ý đến đó.” Một người khác nói.
“Không, không.” Daher đáp lại. “Giờ thì tôi đã nhận thức được rất rõ việc chúng ta cần phải làm. Chúng ta nên ngồi trong phòng họp quan sát một cái áo sơ-mi trắng.”
Những anh chàng này đi quá nhiều giới hạn từ khi Ibrahim bắt đầu làm việc ở Đội Trọng án. Họ nhận ra ông không phản đối những câu bông đùa của họ. Lần trước khi ở trong xe ra ngoài sa mạc, trước khi họ phát hiện ra những tử thi đó, Daher đã đọc được thứ gì đó trên điện thoại di động, liền oang oang: “Các quý ông thân mến, đã đến lúc chúng ta phải đên Malaysia thôi!”
“Ôi không.” Shaya đảo mắt.
“Ôi có đây! Và các cậu biết vì sao không? Vì Malaysia vừa có bước tiến đáng kể là cấm mặc áo ngực. Đúng thế đây. Họ gọi chúng là - tôi trích nguyên văn lời của người đứng đầu đã ban hành quyết định này nhé - “những cái độn của quỷ sứ.” Và không một phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo nào nên mặc nó, bởi nó đẩy ngực lên quá mức và tạo độ cong cho bầu ngực.” Anh ta ném chiếc điện thoại vào lòng với cảm giác thỏa mãn. “Thử tưởng tượng mà xem, cả một đất nước không có áo ngực!”
Chuyện đó khiến Ibrahim khi ấy phải cười, nhưng giờ thì ông bắt đầu thấy ngán ngẩm.
“Chúng ta phải thấy xấu hổ.” Ông nói. “Gã này đã giết người suốt mười năm nay rồi mà chúng ta không hề biết gì cho đến nay.”
Căn phòng trở nên im lặng.
“Tôi chắc rằng có ai đó đã nhận thấy sự mất tích của những phụ nữ này.” Ông nói tiếp. “Nhưng dù họ có là ai đi nữa, thì họ cũng không thể trách chúng ta được. Không một ai đến trình báo tại Sở trong suốt mười năm liền. Có thể là vì họ sống ở phía bên kia của thế giới và họ không thể trình báo. Họ không có phương tiện để làm vậy.”
Ông hi vọng mình đã không đi quá xa - hoặc thể hiện quá nhiều những suy tư của cá nhân mình. Họ phải tìm ra hung thủ; ông sẽ phải phối hợp với những cậu trai to xác mà trí tuệ và hiểu biết của họ là những thứ ông không hẳn nắm được. Trong khi đó điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là Sabria. Không gì giống với một người phụ nữ khiến ta phải để tâm.
“Như vậy về cơ bản nhiệm vụ là tìm ra mọi vấn đề có thế, bởi một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp những người để ý đến vấn đề này và sẽ phải nói vói họ chuyện gì đã xảy ra.”
Ibrahim nhìn quanh. Bọn họ đều hiểu vấn đề: Đội Trọng án xưa nay luôn đạt tỷ lệ chín mươi phần trăm trong việc bắt giữ và truy tố tội phạm. Chẳng phải vấn đề gì lắm nếu con số đó có bị thổi phổng lên chút ít bởi những cán bộ tâm huyết đó luôn “khuyến khích” việc thú tội bằng tất cả những phương thức có thể. Thực tế là Cục còn rất nhiều việc để tiếp tục. Và hiện tại, Ibrahim đã mười năm không phụ trách những vụ án như thế này rồi.
“Ông có nghĩ là họ sẽ giao vụ này cho chúng ta không?” Daher hỏi.
“Cho đến khi tôi nghe được điều ngược lại, thì nhiệm vụ của chúng ta vẫn là phải tìm cho ra kẻ nào đã làm vụ này.”
Ông cố gợi nhớ lại những giao thức từ rất lâu rồi, nhưng mười năm trôi qua đã xói mòn phần lớn trí nhớ của ông, và dù sao thì những quy tắc đã thay đổi. Hiện giờ họ có những nhân viên pháp y tốt hơn. Họ có máy vi tính để phục vụ mọi công việc. Và công việc của một thanh tra là phải giám sát kế hoạch phức tạp của mọi thứ đó. Nhưng có một thứ vẫn không thay đổi: nỗi khiếp sợ.
“Tại sao lại luôn là những người giúp việc nhỉ?” Shaya hỏi. Anh ta có cùng độ tuổi với những người khác nhưng không có đến một chút sức vóc nào của tuổi trẻ trong khi có thừa sự ngây ngô.
“Nhìn quanh mình đi, anh chàng ơi.” Daher nói. “Chúng ta có quá nhiều người ngoại quốc. Nào là người Pakistan, người Ấn Độ, người Châu Phi. Và với từng ấy người, hẳn phải có người xấu chứ.”
“Bọn họ tất yếu phải chịu trách nhiệm cho những tội ác của mình.” Shaya đáp lại.
“Đó là vì họ nghèo.” Daher nói. “Có bao giờ cậu thấy người ngoại quốc nào to béo không? Không. Phần lớn họ còn không kiếm đủ tiền để nuôi miệng mình nữa ấy chứ. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ bắt đầu trộm cắp và giết lẫn nhau..”
“Bọn họ có phạm tội.” Ibrahim cắt lời. “Nhưng trộm cắp và giết người là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Trong hầu hết các trường hợp chính những kẻ thuê họ mới là tội phạm. Và những kẻ đó lại là người Ả Rập Xê-út.”
Không ai nói gì thêm.
“Giờ thì cho tôi biết tin mới nhất bên pháp y là gì?”
“Vẫn không có gì đáng chú ý ạ.” Daher nói.
Ibrahim nhìn những đồng sự của mình và nghĩ đến mái tóc của Sabria, còn dày và óng ả hơn mái tóc của Charlie Becker nhiều. Nó có sức nặng. Khi cô leo lên người ông và xòa mái tóc trùm lên mặt ông, ông có thể cảm nhận được mùi dầu gội và mùi khêu gợi của xác thịt.
“Chúng ta đã biết chiều cao, cân nặng, và độ tuổi giả định của các nạn nhân. Chúng ta cũng có những chân dung phác họa từ họa sĩ, vậy hãy bắt đầu với những thứ đó. Daher và Ahmad, tôi muốn hai anh ngày hôm nay đến các lãnh sự quán Philippiness và Indonesia. Tự mình xem lại các hồ sơ của họ nếu buộc phải vậy. Shaya, anh chịu trách nhiệm liên lạc với cơ quan Người mất tích. Công việc tương tự: tự mình làm nếu thấy cần. Còn lại mọi người xuống phòng hồ sơ và bắt đầu xem qua các tài liệu trên máy vi tính về những người mất tích. Cơ sở dữ liệu cấp quốc gia nhé.”
“Thế còn việc lập hồ sơ về hung thủ thì sao ạ?” Shaya hỏi.
Ibrahim xoa mặt và tự hỏi không biết anh chàng này có hiểu một chút nào về những gì mà Tiến sĩ Becker vừa nói hay không nữa. “Đó chính là việc chúng ta đang làm đấy.” Ông trả lời.
Lầm rầm, thở dài, mấy cái vỗ vai và đẩy người một cách thân thiện, Ibrahim giải tán đám đông khỏi phòng. Ông đóng cửa phòng, tắt đèn, rồi ngồi xuống bên bàn làm việc. Có lẽ Riyadh không gạt ông ra khỏi vụ này bởi ông ta quá bận rộn đối phó với cấp trên của mình. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi Cơ quan Điều tra đặc biệt của Bộ nhảy vào cuộc. Đến khi đó sẽ không thể nói trước chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể mọi việc sẽ hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của cảnh sát.
Điều quan trọng hơn cả lúc này với ông là việc tìm Sabria. Ông cần có kế hoạch của riêng mình. Sẽ không có cả một tiểu đoàn cảnh sát nào sẽ lao đi tìm cô đâu. Cô không có ở bất cứ bệnh viện nào ông gọi đến, mặc dù có khả năng là cô đã được họ chấp nhận giấu danh tính. Cách duy nhất để tìm ra cô là đến các phòng khám và cho họ xem ảnh của cô, nhưng bác sĩ cũng có thể chỉ nhìn thấy một bệnh nhân nữ mà không hề biết mặt cô ta. Đi hết được các phòng khám là cả một công việc đồ sộ.
Ibrahim nhìn điện thoại, nghĩ đến việc sẽ tự mình gọi đến cơ quan. Người mất tích và báo tin về cô, nhưng ông biết họ sẽ làm gì tiếp đó: các công việc ngoại giao. Một khi họ phát hiện ra cô từng làm việc ở Đội Đặc vụ, thì Omar – phụ tá chính của Đội Đặc vụ – sẽ được thông báo, và chắc chắn anh sẽ mở một cuộc điều tra. Điều đó có nghĩa là họ sẽ lục soát căn hộ của Sabria bằng một số công nghệ pháp y tốt nhất trên thế giới. Họ sẽ phát hiện ra Ibrahim. Ông sẽ trở thành một kẻ ngoại tình, cho đến khi bọn họ lấy đầu ông. Đội Đặc vụ sẽ khép lại cuộc điều tra. Chẳng cần thiết phải tốn công sức để tìm kiếm những chứng mại dâm làm gì. Và trong suốt khoảng thời gian những việc đó diễn ra, thì hóa ra Sabria lại bị hôn mê trong một bệnh viện nào đó. Hoặc có thể cô đã chạy trốn. Không đáng mạo hiểm thông báo trường hợp mất tích của cô vội. Ông phải tự tìm cô trước đã.
(1) Nhân vật bác sĩ giết người hàng loạt trong series tiểu thuyết của Thomas Harris, nổi tiếng nhất với bộ phim chuyển thể Sự im lặng của bầy cừu.
(2) Jeffrey Dahmen là tên sát thủ hàng loạt đã giết và ăn thịt 17 người. Hắn bị giết trong tù 1994.
Ibrahim tình cờ nghe được ai đó thì thào: “Anh có nghĩ ông ta sẽ nói về Ed Bundy không?”.
“Ted Bundy (3)!” Daher vừa lớn tiếng chữa lại, vừa đập vào gáy tay sĩ quan kia.
(3) Ted Bundy là tên sát nhân hàng loạt nổi tiếng đã bị tử hình năm 1989. Hắn được coi là đã sát hại ít nhất 100 phụ nữ.
Đó là khoảng thời gian cuối tuần dài dằng dặc. Ibrahim lúc nào cũng lo nghĩ về Sabria, nhưng hiện giờ, khi nhìn thấy cả phòng hợp đông kín người, ông cố gắn cất giữ hình ảnh của cô trong tâm trí mình tập trung vào vụ án.
Một số sĩ quan không có mặt, và một nửa số nhân viên pháp y vẫn còn ở ngoài hiện trường. Bọn họ phải hoàn tất công việc di dời các thi thể để đưa đi khám bệnh, nhưng trong hai mươi tư giờ vừa qua, các nhân viên pháp y đã khám phá thêm một điều: hung thủ đã chôn một bàn tay bị chặt ngay gần thi thể của chính bàn tay đó. Điều này đã gợi ý cho các nhân viên pháp y và đội khai quật hiện trường mở rộng phạm vi ra xung quanh các thi thể để tìm thêm bằng chứng. Bọn họ tìm thấy hai bàn tay nữa được chôn gần một cái xác khác, nhưng chỉ có vậy.
Ibrahim ngạc nhiên rằng ông vẫn là người chịu trách nhiệm về vụ án này. Riyadh chuyển ông ra khu vực sa mạc vì ông đã điều tra ra vụ trọng án mười năm nay rồi. Giờ thì đột nhiên ông thấy mình nắm vị trí cao nhất của một vụ án có thể được gọi là nghiêm trọng nhất trong mười năm trở lại đây. Phía cuối phòng, mấy tay thám tử mới vào nghề của Sở tụ tập thành một nhóm: Osama, Abu-Haitham, chàng kều cục mịch Yasser Mu’tazz, cùng hai người nữa mà ông không thể nhớ tên.
Ngay khi viên cảnh sát người Mỹ xuất hiện, tất cả sự mong đợi đều sụp đổ. Ibrahim gần như có thể nghe thấy tiếng Chết tiệt! đồng thanh vang lên như một dàn hợp xướng trong tâm tưởng, được nổi tiếp bởi một tiếng hít vào thật sâu khi Tiến sĩ Charlie Becker bước vào phòng. Cô có gương mặt trắn sứ mịn màng, chiếc áo sơ-mi cài cúc trễ như một sự chế nhạo lòng can đảm của đàn ông Ả Rập Xê-út: trắng muốt và lỏng lẻo, nhưng bám sát người rất đúng chỗ. Cô thậm chí chẳng đeo khăn trùm đầu, và mái tóc dài mềm mại màu đỏ nâu bồng bềnh đến mức mỗi cử động đều khiến nó dường như sinh động hẳn.
Cô có vẻ bối rối giây lát, như thế bước vào nhầm phòng, tại một đất nước xa lạ nào khác. Cô quay lại nhìn người hướng dẫn của mình, Chánh Thanh tra Riyadh, người đang sải bước lên trước, gật gật đầu với cô trước khi tại vị ngay phía trên đám lính của mình với vẻ cương nghị cẩn trọng.
“Thưa quý vị, tôi xin được giới thiệu tới quý vị chuyên gia FBI của chúng ta về lĩnh vực giết người hàng loạt, Tiến sĩ Charlie Becker, người đã vui lòng bay tới đây từ một hội nghị ở Dubai.” Qua giọng Riyadh, rõ ràng là ông cũng không hề biết Tiến sĩ Becker lại là phụ nữ cho đến khi cô xuất hiện. “Tiến sĩ Becker không nói tiếng Ả Rập, nhưng Sĩ quan Kazaz đã được đề nghị sẽ phiên dịch.” Mọi ánh mắt đều dồn về phía Kazaz như thể anh ta vừa được xức dầu phong vua.
Ibrahim để ý thấy người ông của nhóm Murrah là Talib al-Shafi, người chịu trách nhiệm phần lớn các công việc dò tìm dấu vết tại hiện trường. Ông đứng bên cửa ra vào, gày gò với mái tóc xám dày được tết lại và vấn lên dưới khăn đội đầu. Khi Charlie bước vào phòng, ông soi xét kỹ cách đi của cô, nhìn đôi bàn chân cô, như thể thấy chúng là chấp nhận được, sau đó quay bước bỏ đi.
“Cảm ơn quý vị đã chào đón tôi.” Charlie lên tiếng khiến mọi người ngạc nhiên. Chắc cô không hiểu được âm điệu cao và sặc nét trong giọng cô đã dội vào các bức vách mà từ lâu lắm rồi không được biết đến thanh âm phụ nữ. Cô nhận ra hiệu ứng những lời nói của mình trên nét mặt những người đàn ông và hơi đỏ mặt trước khi tiếp tục. “Tôi được đào tạo thành chuyên gia về tâm thần học nhưng tham gia FBI với tư cách một chuyên gia về hành vi lệch lạc, còn hiện tại tôi đang chuyên tâm đặc biệt vào những tên giết người hàng loạt. Tôi được biết các anh đang có một vụ như vậy.”
Một số gật gật đầu, nhưng toàn bộ số còn lại thì chết lặng bởi cử chỉ của cô, vừa yếu đuổi lại vừa tự tin, nhất là khi mái tóc của cô lấp loáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Hầu hết mọi người trong phòng có khả năng nghe tốt để hiểu cô đang nói gì. Việc dịch nói chỉ là hỗ trợ thêm. Ibrahim bước lên trước.
“Tiến sĩ Becker,” ông nói, “cảm ơn cô đã nhận lời đến đây. Tôi là Thanh tra Ibrahim Zahrani và là người phụ trách vụ án này. Đúng là chúng tôi có vẻ đang có một vụ giết người hàng loạt và chúng tôi đánh giá cao bất cứ điều gì cô có thể cho biết.”
“Tôi nên hiểu là các anh chưa từng gặp vụ giết người hàng loạt nào trước đây chăng?”
Khi câu hỏi được chuyển ngữ xong nó đã làm nổ ra một cuộc tranh luận. “Tất nhiên là chúng tôi đã từng gặp những vụ giết người hàng loạt.” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập. “Cô ta nghĩ chúng ta hoàn toàn chậm tiến hay sao vậy?”
“Nói cho cô ta biết về vụ Yanbu đi.” Ai đó lên tiếng.
“Cô ấy đã biết vụ đó rồi.” Người phiên dịch trả lời. “Cô ấy đang muốn hỏi cụ thể trường hợp của Sở ta kìa. Có ai trong phòng này trước đây đã xử lý một vụ giết người hàng loạt không?”
“Có.” Từ phía cuối phòng Osama lên tiếng. “Tên sát thủ ở nhà chứa.”
Kazaz chuyển ngữ câu trả lời đó.
“Đó là kiểu giết người rải rác.” Charlie lên tiếng, ngay lập tức chấm dứt việc bàn luận. “Giết người rải rác là một loại khác biệt. Kẻ sát nhân thường bị cám dỗ bởi bản tính khát máu. Một tên giết người hàng loạt thì tỉ mỉ hơn thế rất nhiều và thường chúng sẽ cẩn trọng hơn.”
Ibrahim thấy Katya Hijazi lẻn vào phòng. Cô đứng ngay sát cửa và cố tỏ ra như thể mình cũng là một phần của đám đông ở đây. Charlie cũng nhận thấy sự có mặt của Katya, liền mỉm cười với cô, và ngập ngừng điều đang nói khiến mọi người trong phòng quay sang nhìn Katya chằm chằm. Cuối cùng thì Charile lên tiếng: “Xin chào” với vẻ mặt có phần lấy làm tiếc về việc đó. Katya trông như chỉ muốn tát cho Charlie một cái.
“Dù sao thì,” Charlie nói tiếp, “bước quan trọng nhất trong việc điều tra vụ án kiểu này là xác định được vấn đề các anh đang phải đối mặt là gì. Và các anh đã đi được nửa đường rồi. Các anh đã biết được hắn là một tên giết người hàng loạt. Cho đến khi nhận diện được một số nạn nhân, không ai có thể nói một cách cụ thể về tên sát nhân này được – thí dụ như hắn có thể gặp gỡ những phụ nữ này ở đâu, hắn ta sống ở khu dân cư như thế nào, hắn có thể làm nghề gì, gia đình ra sao, hay các mối quan hệ xã hội của hắn như thế nào. Chính vì vậy tôi sẽ nói với các anh những gì chúng tôi biết về tội phạm giết người hàng loạt, sau đó tôi sẽ nói khái quát về vụ án các anh đang có, giả sử là chúng ta đã biết quy luật giết người của hắn.”
Khi người phiên dịch nói xong, trong phòng chỉ nghe thấy tiếng ro ro của không khí lưu chuyển qua lỗ thông hơi của hệ thống điều hòa nhiệt độ.
“Đối với hầu hết những tên giết người hàng loạt, khởi nguyên đều từ sự mộng tưởng.” Charlie nói. Có người đưa mời cô một chai nước, cô mở nó và nhấp một ngụm. “Ai cũng có mộng tưởng của mình, phải không ạ? Có người mộng tưởng được làm sếp, có người lại mong muốn vợ mình yêu mình hơn bất kỳ ai trên thế giới này. Dù đó là điều gì đi nữa, thì hắn cũng là điều bình thường.”
Ibrahim nghe tiếng ai đó bên cạnh thì thào nói khẽ “Ayyyyyyywa” Đúngggggggg. Ông ngờ rằng đó là Daher.
“Hầu hết những tên sát nhân đều có động cơ rõ ràng và dễ hiểu- sự tham lam, sự giận dữ, sự trả thù – nhưng đối với những tên giết người hàng loạt, động cơ chính lại mang tính cá nhân, tính nội tâm, và khó có thể nắm bắt được hoàn toàn. Nó giống như sự cưỡng bách. Những vụ án mạng do chúng gây ra nhằm thỏa mãn nhu cầu nội tại, biến những mộng tưởng mà chúng nuôi dưỡng, thường trong một thời gian dài, trở thành hiện thực. Có khi là từ thời thơ ấu, sự mộng tưởng của chúng rất tàn bạo. Chúng thường liên quan đến những hành vi ác dâm và làm biến dạng cơ thể con người. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự biến dạng cơ thể trong vụ án của các anh.” Cô đưa mắt nhìn tấm bảng trắng với những bức hình của mười chín khuôn mặt đã bị biến dạng được treo ngay ngắn theo hàng. “Nhưng điều quan trọng cần biết về những mộng tưởng đó là chúng giống như sự nghiện ngập. Tôi hiểu các anh không có những tệ nạn như đánh bạc hay rượu chè hoặc thậm chí là ma túy ở đây. Nhưng hẳn các anh đều biết về chúng, và chắc đã được thấy chúng.”
“Điển hình nhất, rượu thường đi liền với một vấn đề hoặc một nỗi đau nào đó, và mộng tưởng cũng vậy. Chính vì thế mà kẻ giết người thường bám vào mộng tưởng của hắn để cảm thấy thoải mái hơn. Hắn sẽ nuôi dưỡng nó trong nhiều năm, và giống như chứng nghiệm ngập vậy, nó lớn đến mức mà hắn cần phải mộng tưởng nhiều hơn để duy trì sự hưng phấn. Một vại bia không thể khiến người ta say, nên một kẻ nghiện rượu sẽ phải bắt đầu với mười bại, hoặc có thể là hai mươi. Đối với kẻ sát nhân, hắn đạt đến độ mà hắn cần để biến mộng tưởng của hắn thành hiện thực.”
Charlie đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Lúc này cô đã tự tin hơn, không còn vẻ ngượng ngùng nữa. Cô nhận thấy có điều gì đó trên nét mặt Daher, và lên tiếng: “Anh có câu hỏi gì chăng?”
Anh ta lắc đầu.
“Không sao, xin cứ tự nhiên.” Cô nói. “Anh…?”
“Daher.” Anh ta hắng going. “Waseem Daher.” Thật buồn cười khi thấy anh ta tỏ ra không thoải mãi lắm. “Tôi chỉ đang băn khoăn… Hắn điên dại, phải vậy không? Hắn cho rằng chuyện là bình thường khi giết người để thỏa mãn mộng tưởng bệnh hoạn của mình. Tại sao lại như vậy?”
“Câu hỏi rất hay. Các chuyên gia tâm thần học gọi những người này là bệnh nhân tâm thần hay kẻ bệnh thái nhân cách, tùy vào một số yếu tố nhất định. Tuy nhiên ngày nay người ta thường gọi chúng là những kẻ mắc chứng rối lại nhân cách chống xã hội, nói tắt là ASPD (4). Tóm lại, nó có nghĩa là chúng không có lương tri như anh hay tôi. Chúng thường không có khả năng yêu thương, tức là không phát triển các mối quan hệ lâu dài trừ phi có động cơ rõ ràng cho mối quan hệ đó, như tình dục hoặc tiền bạc chẳng hạn. Chúng bốc đồng và hung hăng. Nhưng khía cạnh rõ nét nhất đó là chúng hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi.”
(4) ASPD: Antisocial personality disorder.
“Vì vậy nên chúng không hiểu cách hành xử với con người?”
“Thực - ra- là,” Charlie nói, “chúng không cảm nhận được những gì mà người bình thường cảm thấy, nhưng chúng hiểu con người ở một mức độ đáng kinh ngạc. Chúng có khả năng lừa gạt những người thân thiết nhất của mình – như thành viên trong gia đình, đồng nghiệp – và chúng có thể thực hiện điều đó một cách hoàn hảo bởi chúng hiểu những người này. Những đối tượng đó thường là những kẻ nói dối khôn ngoan. Và cực kỳ thông minh.”
Daher gật gật đầu với vẻ không thỏa mãn cho lắm.
“Liệu chúng tôi có nên tra cứu hồ sơ tội phạm để tìm ra tên giết người không?” Ibrahim hỏi.
“Được chứ.” Charlie đáp. “Các anh hoàn toàn có thể kiểm tra, nhưng có khả năng các anh sẽ không tìm được gì. Một số vụ án cho thấy những kẻ giết người hàng loạt có tiền sử về tội bạo hành, nhưng thật ra chúng thường rất, rất giỏi trong việc không để bị bắt. Còn nếu anh định tra cứu hồ sơ tội phạm, hãy tìm những đối tượng mắc chứng cuồng phóng và những kẻ xâm phạm đời tư cá nhân. Đó là những hành vi phạm tội phổ biến nhất trong giai đoạn của loại hình tội phạm này.”
Ibrahim gật đầu.
Các chuyên gia thường đề cập đến sáu giai đoạn của việc giết người.” Charlie nói tiếp. “Đây là các giai đoạn phân theo tâm thần học được xác định vào những năm tám mươi mà hầu hết các tên sát nhân đều trải qua. Tên sát thủ khởi đầu với mộng tưởng của hắn. Đây là giai đoạn một. Hắn thu mình trong thế giới nội tâm và nuôi dưỡng mộng tưởng đó. Giai đoạn hai sẽ là khi hắn bắt đầu tích cực đi tìm nạn nhân cho mình. Hầu hết những tên giết người đều bắt đầu ở một nơi quen thuộc, nơi nào đó mà chúng thấy thực sự thoải mãi. Có thể là con phố chúng hay qua lại hay quán cà phê gần nhà. Giai đoạn này có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Nạn nhân của chúng phải đáp ứng được những đặc điểm như trong mộng tưởng.”
“Những giai đoạn tiếp sau có thể diễn biễn rất nhanh. Giai đoạn ba là khi kẻ giết người cố chiếm được lòng tin của nạn nhân. Giai đoạn bốn, hắn bắt giữ nạn nhân và tiết lộ hắn là ai. Năm, hắn giết người đó. Sáu, hắn suy sụp từ cực đỉnh của việc hiện thực hóa mộng tưởng của hắn. Giờ thì chúng ta hãy thử đưa ra một số ví dụ: tên sát nhân ngồi kế bên một phụ nữ trong quán bar.”
Daher nhăn trán lắc lắc đầu.
“Ồ, đúng vậy,” Charlie nói, “không phải quán bar. Các anh không có quán bar. Vậy là một nhà hàng.”
Daher lại lắc đầu lần nữa.
“Vâng, anh Daher?”
“Chuyện đó khó có thể xảy ra ở đây được. Đàn ông và phụ nữ ngồi ở những khu vực riêng biệt của nhà hàng.”
Charlie gật đầu. “Được thôi. Vậy xin cho biết ở đây làm thế nào mà đàn ông có thể tiếp xúc với phụ nữ? Ở nơi công cộng nhé.”
Những người đàn ông quay sang nhìn nhau. Người phụ nữ này có hiểu gì về Ả Rập Xê-út không nhỉ?
“Anh ta có thể nói chuyện với người phụ nữ trên đường phố.” Một giọng nói cất lên. Đó chính là Katya vẫn đứng gần cửa ra vào. Mọi người quay sang nhìn cô. “Những điều đó không có nghĩa là cô ta sẽ đáp chuyện. Nhiều khả năng là không.”
“Vậy trong trường hợp nào cô ta sẽ đáp chuyện?” Charlie hỏi.
“Nếu cô ta biết người đó.”
“Rất nhiều khả năng là cô ta không hề biết hắn. Kẻ sát nhân muốn nạn nhân là người lạ mặt.”
“Thôi được,” Katya nói. “Cô ta sẽ không nói chuyện với người đó, trừ phi, có lẽ vậy, anh ta cần cô ta giúp đỡ.”
Daher, người vẫn đang theo dõi cuộc trao đổi với cái vẻ mơ hồ trên nét mặt, nói xen nào: “Giống như Ted Bundy.”
“Tốt lắm.” Charlie nói, vẫn nhìn Katya. “Vậy có thể hắn sẽ lừa gạt cô ta bằng sự yếu đuối vờ vịt của mình. Hắn còn có thể tìm một phụ nữ ở đâu nữa?”
“Thực ra, cô ta có thể là người giúp việc của hắn.” Daher nói,
“Có lẽ không phải vậy.” Charlie nói. “Chí ít là không phù hợp lắm. Ở giai đoạn hai, khi tên sát nhân cố gắng tìm kiếm một nạn nhân hoàn hảo, hắn thường quan sát từ xa. Hắn tìm hiểu kỹ nạn nhân để tìm những biểu hiện giống với người phụ nữ trong mộng tưởng của hắn – và khi càng hiểu một ai đó, thì lại càng ít khả năng người đó giống với người trong mộng tưởng. Chính vì lẽ đó mà nhũng kẻ giết người tìm kiếm những đặc điểm bên ngoài, thường là về hình thể. Thí dụ như, Ted Bundy thích những phụ nữ có mái tóc rẽ ngôi giữa hơn.”
“Có lẽ,” Daher lên tiếng với điệu cười nhạt, “tên sát nhân của chúng tôi chẳng để ý kiểu tóc cá biệt nào đâu.”
Charlie cười nói với anh ta vẻ mỉa mai rồi quay lại phía Katya. “Được rồi. Vậy hắn có thể để ý những đặc điểm trên khuôn mặt phải không?”
“Có thể lắm.” Katya nói. “Hoặc chỉ là… dáng người chẳng hạn.”
“Rất tốt. Có thể là những phụ nữ có dáng người nhỏ bé. Hoặc mảnh khảnh.”
Riyadh từ nãy vẫn đứng ở một bên lên tiếng: “Tất cả các nạn nhân đều có chiều cao tầm từ mét tám đến mét chín. Và tất cả đều là người nhập cư, hầu hết từ các nước châu Á.”
“Một mét tám là khoảng bao nhiêu?” Charlie hỏi Katya.
“Gần sáu foot (5).” Katya đáp.
(5) Đơn vị đo chiều dài của Anh và Mỹ (1 foot ~ 0.3048m)
“Ồ, ra vậy. Như vậy là khá cao lớn.” Charlie quay về phía khán phòng sau khi tặng Katya một nụ cười bí hiểm. “Việc tìm kiếm những phụ nữ cao lớn trong các nhóm chủng tộc không phải hiện tượng phổ biến cho lắm, như vậy các anh đã biết một số điều về hắn: hắn thích những phụ nữ cao lớn người châu Á. Mục tiêu của hắn rất khác thường. Một trong những vấn đề chính của các anh là phải xác định xem tên sát nhân đã tìm và bắt nạn nhân như thế nào. Làm thế nào hắn chiếm được lòng tin của họ.”
“Có một cách phân loại quan trọng nữa đối với những tên giết người hàng loạt mà các anh sẽ muốn cân nhắc, đo là cách thức tổ chức. Hắn có tính tổ chức đến mức độ nào? Hay nói cách khác, hắn bày tính và thực hiện mộng tưởng của mình công phu đến mức nào? Lên kế hoạch cho một cụ giết người cần có thời gian và sức lực. Một số kẻ giết người sát hại nạn nhân ngay lập tức. Đó là loại vô tổ chức. Chúng có khuynh hướng hành động tùy tiện. Chúng cũng có khuynh hướng vô cùng khát máu và tàn bạo. Loại có tính tổ chức thì khác hắn. Chúng phân chia giai đoạn giết người – bao gồm năm giai đoạn tất cả - kéo dài trong vòng vài ngày thậm chí vài tuần. Thông thường chúng không giết nạn nhân ngay lập tức, và thậm chí nếu làm vậy, chúng không vứt bỏ xác của họ ngay. Chúng muốn duy trì việc tận hưởng cảm giác rùng rợn khi được nhìn ngắm nạn nhân bị hành hạ. Chúng muốn sự mộng tưởng đó kéo dài càng lâu càng tốt. Chuyện chỉ dừng lại khi chúng thấy chán ngấy. Bộ phim khoa học Hành vi của chúng tôi đã nghiên cứu cách phân loại này và nó còn mở rộng ra cả hiện trường vụ án. Loại giết người vô tổ chức thường để lại một hiện trường lộn xộn. Nhưng một kẻ có tính tổ chức thì lại tỉ mỉ và thường lập kế hoạch chính xác để che đậy mọi dấu vết của hiện trường. Ngoại trừ một thứ: vật tế.”
“Đó là cái gì vậy?” Kazaz, người phiên dịch, hỏi lại.
“Vật tế là một thứ tên sát nhân giữ lại sau khi giết người thông thường là một phần xác chết, nhưng nó cũng có thể là bất cứ thứ gì. Nó giống như một thứ chiến lợi phẩm, nhắc hắn về một trải nghiệm, và hắn có thể trở lại đó với khoái lạc hay niềm kiêu hãnh.”
“Những bàn tay.” Ibrahim lên tiếng.
Charlie nhìn ông, sự chú ý của cô như thể một chiếc đèn pha. “Vâng, hắn đã chặt tay của nạn nhân. Cả hai tay, phải vậy không thưa ông?”
“Đúng vậy.” Ibrahim đáp. “Hắn đã chặt đôi tay của những người phụ nữ đó, nhưng hôm qua chúng tôi đã tìm được ba bàn tay chôn gần những cái xác.”
“Chỉ có ba bàn tay thôi sao?”
“Vâng.”
Charlie trầm ngâm giây lát. “Những bàn tay đó có khả năng chính là chiến lợi phẩm của hắn. Hoàn toàn xác đáng khi đặt ra câu hỏi tại sao hắn chỉ chôn có ba bàn tay mà thôi. Có thể có những chứng cứ nào đó trên ba bàn tay kia sẽ giúp các anh hiểu được vì sao hắn lại lựa chọn việc chặt tay nạn nhân từ đầu. Các anh có thể sẽ không tìm ra được câu trả lời cho đến khi bắt được hắn, nhưng nếu nắm được vấn đề này, nó sẽ là một manh mối rất đáng giá.”
“Tất nhiên các anh nên tìm hiểu kỹ hơn, nhưng từ những gì mà các anh biết được về tên hung thủ này, tôi cho rằng các anh đang đương đầu với một kẻ rất có tính tổ chức. Hắn cần thời gian trước khi vứt bỏ những cái xác. Và theo tình trạng của những cái xác đó - mất tay, khuôn mặt bị biến dạng - và địa điểm chôn cất là khu vực biệt lập, thì có thể thấy hắn rõ ràng đang thực hiện mọi việc một cách có hệ thống. Nạn nhân mới nhất có phải đã chết cách đây ba tháng không?”
“Không lâu hơn sáu tháng.” Ibrahim nói.
“Vậy thì dù không muốn tôi vẫn phải nói rằng rất có khả năng hắn sẽ lại sớm ra tay. Ngay lúc này đây có lẽ hắn đang lên kế hoạch cho vụ sát hại tiếp theo. Vấn đề thực sự là làm thế nào hắn tiếp cận được những người phụ nữ này? Hắn tìm họ ở đâu và họ có điểm gì chung? Các anh có rất nhiều việc để làm nhằm xác định được những đối tượng này. Hắn sẽ nhận ra các anh đã phát hiện ra nơi hắn chôn giấu nạn nhân, và hắn sẽ điều chỉnh cách thức thực hiện. Có khả năng hắn sẽ không đến chỗ cũ để tìm kiếm nạn nhân nữa, nhưng có lẽ hắn không sẵn sàng thay đổi “tip” nạn nhân của mình.”
Một bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm căn phòng.
“Vậy thì,” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập, “có lẽ chúng ta nên bắt đầu nói với những người phụ nữ của chúng ta rằng họ nên ở nhà.”
Charlie nhìn Kazaz chờ được dịch, nhưng anh ta nhíu mày tư lự.
Cả căn phòng im ắng, thỏa dạ vì bữa ăn kiến thức. Ibrahim nhận ra có đôi chút dao động: rất nhiều sĩ quan không quen với việc bị phụ nữ chỉ huy.
“Tôi nghĩ hiện thời thế là tạm đủ.” Chánh thanh tra Riyadh lên tiếng. “Tiến sĩ Becker đã vui lòng nhận lời giải đáp bất cứ câu hỏi nào trong vòng một tháng tới, nên chúng ta có thể trao đổi với Tiến sĩ sâu hơn khi nhân viên giám định y tế hoàn tất báo cáo và chúng ta đã nghe từ đội pháp y.”
Mọi người tản dần. Charlie và Riyadh đứng nói chuyện phía trên khán phòng, còn Daher tụ tập với mấy người bạn. Katya lén rời khỏi phòng họp.
Ở hành lang, Ibrahim đâm sầm vào Talib, người của nhóm tìm dấu vết Murrah.
“Ông đi sớm thế.” Ibrahim lên tiếng.
“Thực ra, tôi đã biết hung thủ không phải phụ nữ.” Ông hất cằm về phía Tiến sĩ Becker.
“Cảm ơn Chúa vì điều đó. Nhưng ông đã nói là không tìm được dấu chân nào của hung thủ cơ mà.”
“Ồ, tôi có thứ gì đó.” Talib nói. “Nó không đủ rõ để chụp ảnh lại, nhưng đủ để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Đủ để có thể phán đoán về hắn.”
“Sao ông không cho tôi biết khi ở hiện trường vụ án?”
“Rất mất thời gian để loại trừ những người đã ở hiện trường.”
“Thôi được.” Ibrahim nói. “Vậy chắc chắn hung thủ là một người đàn ông?”
“Đúng vậy.”
“Và hắn sống ở đâu vậy, tên sát nhân ấy?”
Talib mỉm cười. “Câu hỏi hay nhỉ. Điều gì khiến anh nghĩ tôi có thể trả lời?”
Ibrahim nhún vai.
“Hắn sống trong thành phố. Lưng không có dị biệt gì. Hắn cao lớn hơn tôi rất nhiều, nặng cân hơn.” Bằng đôi tay nhỏ bé, Talib khum tay làm điệu bộ quanh cái bụng cỡ chuột nhảy của mình.
“Và ông sẽ cho tôi biết làm thế nào ông tìm hiểu được những điều đó chứ?” Ibrahim hỏi.
“Hắn sử dụng chân phải khác hoàn toàn với chân trái. Và cách đi khác biệt đó cho thấy hắn bị thương hoặc là hắn lái ô-tô. Chân phải linh hoạt hơn, trong mọi cử động của gan bàn chân và thậm chí là mắt cá chân. Khi bước đi bàn chân hắn hơi đảo một chút từ bên này sang bên kia. Cẳng chân phải cũng khỏe hơn. Có lẽ hắn là người thuận tay phải.”
“Thế vì sao hắn lại là đàn ông?”
“Chỉ đàn ông mới lái ô-tô.”
Ibrahim cười mỉm rồi cười phá lên thành tiếng. “Đúng rồi, xin lỗi nhé. Mừng vì có người đã dùng tư duy lô-gíc.”
Người đàn ông Bedouin vẩy tay một cách lịch sự ý nói: tôi khá chắc là anh còn giỏi tư duy lô-gíc hơn cả tôi ấy chứ.
Ibrahim mở cửa văn phòng của mình và tạm biệt Talib. Ông chỉ kịp bật đèn lên thì một toán người đã bước vào phòng: một người của đội sĩ quan trẻ, Shaya, rồi Daher và đám bậu sậu của anh ta. Ông nhìn thấy thấp thoáng một bóng đen ở hành lang và tự hỏi có phải Katya cũng muốn nói chuyện với ông không.
Căn phòng khá nhỏ - hai bàn tiếp khách và một bàn làm việc, đó là trang bị tốt nhất mà hiện thời Sở có thể lo liệu được. Hoàn toàn không phù hợp để họp hành gì. Người thì ngồi trên ghế đầu, người ngồi ghế trên bàn ông. Ông nhận ra họ muốn có sự chỉ đạo. Ông ngồi xuống.
“Thực ra, cái cô người Mỹ đó cũng có ích đấy chứ.” Daher nói. “Không gì giống với một gương mặt phụ nữ khiến ta phải để tâm.”
“Cái tâm của cậu đâu để ý đến đó.” Một người khác nói.
“Không, không.” Daher đáp lại. “Giờ thì tôi đã nhận thức được rất rõ việc chúng ta cần phải làm. Chúng ta nên ngồi trong phòng họp quan sát một cái áo sơ-mi trắng.”
Những anh chàng này đi quá nhiều giới hạn từ khi Ibrahim bắt đầu làm việc ở Đội Trọng án. Họ nhận ra ông không phản đối những câu bông đùa của họ. Lần trước khi ở trong xe ra ngoài sa mạc, trước khi họ phát hiện ra những tử thi đó, Daher đã đọc được thứ gì đó trên điện thoại di động, liền oang oang: “Các quý ông thân mến, đã đến lúc chúng ta phải đên Malaysia thôi!”
“Ôi không.” Shaya đảo mắt.
“Ôi có đây! Và các cậu biết vì sao không? Vì Malaysia vừa có bước tiến đáng kể là cấm mặc áo ngực. Đúng thế đây. Họ gọi chúng là - tôi trích nguyên văn lời của người đứng đầu đã ban hành quyết định này nhé - “những cái độn của quỷ sứ.” Và không một phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo nào nên mặc nó, bởi nó đẩy ngực lên quá mức và tạo độ cong cho bầu ngực.” Anh ta ném chiếc điện thoại vào lòng với cảm giác thỏa mãn. “Thử tưởng tượng mà xem, cả một đất nước không có áo ngực!”
Chuyện đó khiến Ibrahim khi ấy phải cười, nhưng giờ thì ông bắt đầu thấy ngán ngẩm.
“Chúng ta phải thấy xấu hổ.” Ông nói. “Gã này đã giết người suốt mười năm nay rồi mà chúng ta không hề biết gì cho đến nay.”
Căn phòng trở nên im lặng.
“Tôi chắc rằng có ai đó đã nhận thấy sự mất tích của những phụ nữ này.” Ông nói tiếp. “Nhưng dù họ có là ai đi nữa, thì họ cũng không thể trách chúng ta được. Không một ai đến trình báo tại Sở trong suốt mười năm liền. Có thể là vì họ sống ở phía bên kia của thế giới và họ không thể trình báo. Họ không có phương tiện để làm vậy.”
Ông hi vọng mình đã không đi quá xa - hoặc thể hiện quá nhiều những suy tư của cá nhân mình. Họ phải tìm ra hung thủ; ông sẽ phải phối hợp với những cậu trai to xác mà trí tuệ và hiểu biết của họ là những thứ ông không hẳn nắm được. Trong khi đó điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là Sabria. Không gì giống với một người phụ nữ khiến ta phải để tâm.
“Như vậy về cơ bản nhiệm vụ là tìm ra mọi vấn đề có thế, bởi một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp những người để ý đến vấn đề này và sẽ phải nói vói họ chuyện gì đã xảy ra.”
Ibrahim nhìn quanh. Bọn họ đều hiểu vấn đề: Đội Trọng án xưa nay luôn đạt tỷ lệ chín mươi phần trăm trong việc bắt giữ và truy tố tội phạm. Chẳng phải vấn đề gì lắm nếu con số đó có bị thổi phổng lên chút ít bởi những cán bộ tâm huyết đó luôn “khuyến khích” việc thú tội bằng tất cả những phương thức có thể. Thực tế là Cục còn rất nhiều việc để tiếp tục. Và hiện tại, Ibrahim đã mười năm không phụ trách những vụ án như thế này rồi.
“Ông có nghĩ là họ sẽ giao vụ này cho chúng ta không?” Daher hỏi.
“Cho đến khi tôi nghe được điều ngược lại, thì nhiệm vụ của chúng ta vẫn là phải tìm cho ra kẻ nào đã làm vụ này.”
Ông cố gợi nhớ lại những giao thức từ rất lâu rồi, nhưng mười năm trôi qua đã xói mòn phần lớn trí nhớ của ông, và dù sao thì những quy tắc đã thay đổi. Hiện giờ họ có những nhân viên pháp y tốt hơn. Họ có máy vi tính để phục vụ mọi công việc. Và công việc của một thanh tra là phải giám sát kế hoạch phức tạp của mọi thứ đó. Nhưng có một thứ vẫn không thay đổi: nỗi khiếp sợ.
“Tại sao lại luôn là những người giúp việc nhỉ?” Shaya hỏi. Anh ta có cùng độ tuổi với những người khác nhưng không có đến một chút sức vóc nào của tuổi trẻ trong khi có thừa sự ngây ngô.
“Nhìn quanh mình đi, anh chàng ơi.” Daher nói. “Chúng ta có quá nhiều người ngoại quốc. Nào là người Pakistan, người Ấn Độ, người Châu Phi. Và với từng ấy người, hẳn phải có người xấu chứ.”
“Bọn họ tất yếu phải chịu trách nhiệm cho những tội ác của mình.” Shaya đáp lại.
“Đó là vì họ nghèo.” Daher nói. “Có bao giờ cậu thấy người ngoại quốc nào to béo không? Không. Phần lớn họ còn không kiếm đủ tiền để nuôi miệng mình nữa ấy chứ. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ bắt đầu trộm cắp và giết lẫn nhau..”
“Bọn họ có phạm tội.” Ibrahim cắt lời. “Nhưng trộm cắp và giết người là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Trong hầu hết các trường hợp chính những kẻ thuê họ mới là tội phạm. Và những kẻ đó lại là người Ả Rập Xê-út.”
Không ai nói gì thêm.
“Giờ thì cho tôi biết tin mới nhất bên pháp y là gì?”
“Vẫn không có gì đáng chú ý ạ.” Daher nói.
Ibrahim nhìn những đồng sự của mình và nghĩ đến mái tóc của Sabria, còn dày và óng ả hơn mái tóc của Charlie Becker nhiều. Nó có sức nặng. Khi cô leo lên người ông và xòa mái tóc trùm lên mặt ông, ông có thể cảm nhận được mùi dầu gội và mùi khêu gợi của xác thịt.
“Chúng ta đã biết chiều cao, cân nặng, và độ tuổi giả định của các nạn nhân. Chúng ta cũng có những chân dung phác họa từ họa sĩ, vậy hãy bắt đầu với những thứ đó. Daher và Ahmad, tôi muốn hai anh ngày hôm nay đến các lãnh sự quán Philippiness và Indonesia. Tự mình xem lại các hồ sơ của họ nếu buộc phải vậy. Shaya, anh chịu trách nhiệm liên lạc với cơ quan Người mất tích. Công việc tương tự: tự mình làm nếu thấy cần. Còn lại mọi người xuống phòng hồ sơ và bắt đầu xem qua các tài liệu trên máy vi tính về những người mất tích. Cơ sở dữ liệu cấp quốc gia nhé.”
“Thế còn việc lập hồ sơ về hung thủ thì sao ạ?” Shaya hỏi.
Ibrahim xoa mặt và tự hỏi không biết anh chàng này có hiểu một chút nào về những gì mà Tiến sĩ Becker vừa nói hay không nữa. “Đó chính là việc chúng ta đang làm đấy.” Ông trả lời.
Lầm rầm, thở dài, mấy cái vỗ vai và đẩy người một cách thân thiện, Ibrahim giải tán đám đông khỏi phòng. Ông đóng cửa phòng, tắt đèn, rồi ngồi xuống bên bàn làm việc. Có lẽ Riyadh không gạt ông ra khỏi vụ này bởi ông ta quá bận rộn đối phó với cấp trên của mình. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi Cơ quan Điều tra đặc biệt của Bộ nhảy vào cuộc. Đến khi đó sẽ không thể nói trước chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể mọi việc sẽ hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của cảnh sát.
Điều quan trọng hơn cả lúc này với ông là việc tìm Sabria. Ông cần có kế hoạch của riêng mình. Sẽ không có cả một tiểu đoàn cảnh sát nào sẽ lao đi tìm cô đâu. Cô không có ở bất cứ bệnh viện nào ông gọi đến, mặc dù có khả năng là cô đã được họ chấp nhận giấu danh tính. Cách duy nhất để tìm ra cô là đến các phòng khám và cho họ xem ảnh của cô, nhưng bác sĩ cũng có thể chỉ nhìn thấy một bệnh nhân nữ mà không hề biết mặt cô ta. Đi hết được các phòng khám là cả một công việc đồ sộ.
Ibrahim nhìn điện thoại, nghĩ đến việc sẽ tự mình gọi đến cơ quan. Người mất tích và báo tin về cô, nhưng ông biết họ sẽ làm gì tiếp đó: các công việc ngoại giao. Một khi họ phát hiện ra cô từng làm việc ở Đội Đặc vụ, thì Omar – phụ tá chính của Đội Đặc vụ – sẽ được thông báo, và chắc chắn anh sẽ mở một cuộc điều tra. Điều đó có nghĩa là họ sẽ lục soát căn hộ của Sabria bằng một số công nghệ pháp y tốt nhất trên thế giới. Họ sẽ phát hiện ra Ibrahim. Ông sẽ trở thành một kẻ ngoại tình, cho đến khi bọn họ lấy đầu ông. Đội Đặc vụ sẽ khép lại cuộc điều tra. Chẳng cần thiết phải tốn công sức để tìm kiếm những chứng mại dâm làm gì. Và trong suốt khoảng thời gian những việc đó diễn ra, thì hóa ra Sabria lại bị hôn mê trong một bệnh viện nào đó. Hoặc có thể cô đã chạy trốn. Không đáng mạo hiểm thông báo trường hợp mất tích của cô vội. Ông phải tự tìm cô trước đã.
Bình luận truyện