Không Có Ngày Mai
Chương 65
SPRINGFIELD HỎI: “NÓ Ở ĐÂU?”
Tôi đáp, “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”
“Ông láo toét.”
Tôi lắc đầu. “Lần này thì không.”
“Ông chắc chắn chứ? Ông có thể đưa chúng tôi đến đó chứ?”
“Tôi có thể đưa các ông tới trong bán kính năm mét. Phần việc còn lại thuộc về các ông.”
“Tại sao? Nó bị chôn à? Hay trong két ngân hàng? Trong một ngôi nhà?”
“Chẳng nơi nào trong số đó.”
“Vậy thì nó ở đâu?”
“Gọi cho Sansom đi,” tôi nói. “Bố trí một cuộc gặp.”
Springfield uống chỗ nước còn lại của mình và một nhân viên phục vụ xuất hiện cùng hóa đơn. Springfield thanh toán bằng thẻ tín dụng hạng titan, hệt với cách thanh toán cho cả hai chúng tôi ở khách sạn Four Seasons. Điều tôi cho là tín hiệu tốt. Nó thể hiện một động thái tích cực. Thế nên tôi chọn đẩy vận may của mình đi xa hơn.
“Muốn thuê cho tôi một phòng chứ?” tôi hỏi.
“Tại sao?”
“Bởi sẽ cần thời gian cho Sansom đưa tôi ra khỏi danh sách những kẻ bị truy nã gắt gao nhất. Vả lại tôi mệt. Tôi đã thức cả đêm. Giờ muốn ngả lưng một chút.”
Mười phút sau chúng tôi đã có mặt ở một tầng cao, trong một căn phòng có giường cỡ lớn. Không gian đẹp, song xét về mặt chiến thuật thì không được ưng ý. Như mọi phòng khách sạn trên tầng cao, nó có một cửa sổ chẳng hề thuận lợi cho tôi, do vậy chỉ có một đường ra. Tôi có thể thấy rằng Springfield cũng đang nghĩ hệt như mình. Anh ta đang nghĩ rằng tôi là gã điên tự đưa mình vào chốn này.
Tôi hỏi anh ta, “Tôi có thể tin tưởng ông chứ?”
Anh ta đáp, “Có.”
“Chứng minh đi.”
“Bằng cách nào?”
“Đưa súng của ông cho tôi.”
“Tôi không có vũ khí.”
“Những câu trả lời như vậy không giúp ích cho sự tin tưởng đâu.”
“Tại sao ông muốn lấy nó?”
“Ông biết vì sao mà. Để nếu ông đưa không đúng người tới cửa phòng tôi, tôi có thể tự vệ.”
“Tôi sẽ không làm thế.”
“Đảm bảo cho tôi đi.”
Springfield đứng yên một lúc. Tôi biết rằng anh ta thà cắm kim vào mắt còn hơn bỏ vũ khí. Nhưng rồi đầu anh ta tính toán, và rồi tay đưa xuống dưới áo khoác sau lưng, rút ra một khẩu súng ngắn Steyr GB cỡ chín ly. Súng ngắn Steyr GB là loại vũ khí đeo bên sườn được các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ thời những năm 1980 ưa thích. Lực lượng Đặc biệt. Springfield xoay súng và đưa cho tôi phần báng. Đây là một món vũ khí cũ đẹp, đã dùng nhiều song được bảo dưỡng tốt. Trong ổ đạn có mười tám viên, một viên đã lên nòng.
“Cảm ơn,” tôi nói.
Springfield không nói gì. Chỉ bước ra khỏi phòng. Tôi bấm chốt, xoay chìa khóa cửa ngay sau khi anh ta ra, đặt dây xích vào rồi đẩy một chiếc ghế vào phía dưới tay nắm. Tôi dốc hết mọi thứ trong túi ra cái giá đầu giường. Tôi bỏ quần áo xuống dưới nệm cho phẳng. Rồi tôi tắm nước nóng một lúc lâu.
Và tôi nằm ngủ, khẩu súng của Springfield nhét dưới gối.
Bốn tiếng sau, tôi thức dậy vì tiếng gõ cửa. Tôi không thích nhìn qua lỗ quan sát ở các cửa phòng khách sạn. Quá nguy hiểm. Tất cả những gì một kẻ tấn công ngoài hành lang phải làm là đợi cho tới khi thấu kính tối lại rồi bắn một phát súng xuyên qua đó. Thậm chí một khẩu.22 giảm thanh cũng hoàn toàn có thể gây chết người. Chẳng có gì quan trọng lắm nằm giữa giác mạc và thân não. Nhưng trên bức tường trong cửa có một chiếc gương soi toàn thân. Tôi đoán là để kiểm tra lại quần áo lần cuối cùng trước khi rời khỏi phòng. Tôi lấy một chiếc khăn tắm từ phòng tắm ra, quấn quanh eo rồi lấy khẩu súng từ dưới gối ra. Tôi dịch chiếc ghế và mở cửa mà vẫn để dây xích. Lùi về phía bản lề và theo dõi qua tấm gương.
Springfield và Sansom.
Chỉ có một khe hẹp, hình ảnh trong gương bị đảo ngược và ánh sáng ngoài hành lang lờ mờ song tôi vẫn nhận ra họ khá dễ. Tôi có thể khẳng định là chỉ có hai người. Và họ sẽ vẫn chỉ có hai, trừ phi họ đã mang thêm hơn mười chín người. Khẩu Steyr không có lẫy an toàn. Chỉ nặng tay khi kéo cò ở phát bắn đầu tiên, rồi thêm mười tám phát. Tôi bỏ ngón tay khỏi cò súng và gỡ dây xích ra khỏi cửa.
Họ chỉ có hai người.
Cả hai bước vào, Sansom trước, Springfield sau. Sansom trông vẫn như trong buổi sáng tôi gặp lần đầu tiên. Rám nắng, giàu có, quyền lực, đầy sức sống và oai vệ. Ông ta mặc bộ com lê màu xanh hải quân, sơ mi trắng cà vạt đỏ, trông ông nghị sĩ tươi tỉnh như mới được lột xác. Sansom lấy chiếc ghế tôi đặt bên dưới tay nắm cửa, mang đến đặt bên bàn gần cửa sổ và ngồi xuống. Springfield đóng cửa và cài lại dây xích. Tôi vẫn giữ khẩu súng. Tôi lấy đầu gối nâng nệm lên khỏi lò xo giường và dùng một tay lôi quần áo ra.
“Hai phút,” tôi nói. “Các ông hãy nói chuyện riêng với nhau.”
Tôi mặc quần áo trong phòng tắm rồi trở ra, Sansom hỏi, “Anh thực sự biết chiếc USB đang ở đâu chứ?”
“Có,” tôi nói. “Tôi biết thực sự.”
“Tại sao anh muốn biết trong đó có gì?”
“Bởi tôi muốn biết nó khiến người ta mất mặt đến đâu.”
“Anh không muốn cho tôi vào Thượng viện à?”
“Tôi không quan tâm xem ông sử dụng thời gian thế nào. Tôi chỉ tò mò, thế thôi.”
Sansom hỏi, “Tại sao anh sẽ không nói cho tôi biết ngay bây giờ nó ở đâu?”
“Vì tôi có một việc khác cần làm trước. Và tôi cần ông giữ sao cho cánh cảnh sát đừng động vào lông chân tôi khi tôi đang làm việc ấy. Thế nên tôi cần một cách khiến ông để tâm tới việc ấy.”
“Có thể anh đã lừa tôi.”
“Tôi từng có thể, nhưng giờ thì không.”
Sansom không nói lại gì.
Tôi hỏi, “Mà sao ông lại muốn vào Thượng viện?”
“Tại sao tôi lại không muốn chứ?”
“Ông từng là một người lính giỏi và giờ thì ông còn giàu hơn Chúa. Tại sao không đi ra bờ biển mà sống?”
“Những việc này là một cách liên tục ghi thành tích. Tôi chắc chắn là anh cũng có cách liên tục ghi thành tích của riêng mình.”
Tôi gật đầu. “Tôi so sánh số câu trả lời tôi nhận được với số câu hỏi tôi đặt ra.”
“Và việc anh làm tiến triển thế nào rồi?”
“Tính trung bình cả đời gần được một trăm phần trăm.”
“Tại sao lại hỏi? Nếu như anh biết chiếc USB ở đâu, hãy đi mà lấy nó.”
“Tôi không thể.”
“Sao lại không?”
“Việc đó đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn mức tôi có thể huy động.”
“Nó ở đâu?”
Tôi không đáp.
“Nó ở New York này hả?”
Tôi không trả lời.
Sansom hỏi, “Nó được an toàn không?”
Tôi đáp: “Đủ an toàn.”
“Tôi có thể tin tưởng anh không?”
“Nhiều người đã từng tin.”
“Và sao?”
“Tôi nghĩ hầu hết sẽ sẵn sàng làm chứng điều ấy cho tôi.”
“Còn những người khác?”
“Không mấy người không được hài lòng.”
Sansom nói, “Tôi đã đọc hồ sơ quân nhân của anh.”
Tôi nói, “Ông đã nói với tôi điều đó rồi.”
“Nó có sự thăng trầm.”
“Tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng tôi có quan điểm riêng.”
“Tại sao anh xuất ngũ?”
“Tôi thấy chán. Ông thì sao?”
“Tôi thấy già.”
“Trong cái USB đó có gì?”
Sansom không trả lời. Springfield đứng im lặng ở góc khuất của tủ đặt ti vi, gần cửa ra vào hơn cửa sổ. Tôi đoán đó thuần túy do thói quen. Phản xạ tự nhiên. Anh ta là kẻ tàng hình đối với một tay bắn tỉa tiềm tàng ngoài cửa và đủ gần hành lang để khống chế một kẻ đột nhập ngay ở giây cánh cửa bật mở. Những gì được đào tạo cứ tồn tại mãi cùng con người. Đặc biệt là đào tạo của lực lượng Delta. Tôi bước tới trả lại anh ta khẩu súng. Không nói một lời, Springfield cầm lấy giắt vào thắt lưng.
Sansom nói, “Hãy cho tôi biết những gì anh biết cho tới thời điểm này.”
Tôi nói, “Các ông được máy bay đưa từ Bragg tới Thổ Nhĩ Kỳ, rồi tới Oman. Sau đó có thể là Ấn Độ. Rồi Pakistan, và Mặt trận Tây Bắc.”
Ông ta gật đầu, không nói gì. Trong mắt Sansom hiện lên cái nhìn xa xăm. Tôi đoán đầu ông ta đang hồi tưởng lại chuyến đi. Máy bay vận tải, trực thăng, xe tải, nhiều dặm đường cuốc bộ.
Tất cả diễn ra đã lâu.
“Rồi tới Afghanistan,” tôi nói.
“Tiếp đi,” ông ta bảo.
“Có thể các ông đã lưu lại ở rìa dãy Abas Ghar và hướng về phía Nam và Tây, theo rìa thung lũng Korengal, có thể cách đáy thung lũng chừng ba trăm mét.”
“Tiếp đi.”
“Ông đã vô tình chạm mặt Grigori Hoth, tước khẩu súng trường của ông ta rồi bỏ cho người đó đi lang thang.”
“Tiếp đi.”
“Rồi các ông tiếp tục đi bộ, đến nơi nào đó các ông được lệnh tới.”
Sansom gật đầu.
Tôi nói, “Đó là tất cả những gì tôi biết cho đến nay.”
Ông ta hỏi, “Tháng Ba năm 1983 ông ở đâu?”
“West Point.”
“Có sự kiện gì lớn?”
“Hồng quân đang cố gắng ngăn chặn tình trạng đổ máu.”
Sansom gật đầu lần nữa. “Đó là một chiến dịch điên rồ. Chưa ai từng đánh bại được các bộ tộc ở Mặt trận Tây Bắc. Suốt cả lịch sử chưa hề có. Và họ có kinh nghiệm ở Việt Nam của người Mỹ để nghiên cứu. Một số việc đơn giản là không thể làm được. Đó là cái cối xay thịt tốc độ chậm. Kiểu như bị chim rỉa thịt cho tới chết. Chúng ta rất vui về chuyện đó, cái này thì rõ rồi.”
“Chúng ta đã góp phần vào điều đó,” tôi nói.
“Chắc chắn là thế rồi. Chúng ta trao cho cánh du kích Hồi giáo mọi thứ họ muốn. Miễn phí.”
“Kiểu như Lend-Lease.”
“Tệ hơn thế,” Sansom nói. “Lend-Lease liên quan đến việc giúp đỡ các nước bạn bè bị phá sản vào thời điểm ấy. Cánh du kích Hồi giáo không phá sản. Ngược lại hẳn. Có đủ mọi loại liên minh kỳ quái theo hình thức bộ lạc kéo tới tận Arập Saudi. Trên thực tế thì cánh du kích Hồi giáo có nhiều tiền hơn cả chúng ta.”
“Và sao?”
“Khi ta đã có thói quen cho người ta mọi thứ họ cần, rất khó dừng lại.”
“Họ muốn thêm gì?”
“Sự công nhận,” Sansom đáp. “Cống nạp. Sự thừa nhận. Sự biết điều. Giáp mặt thời gian. Thật khó biết chính xác làm cách nào khái quát được nó.”
“Vậy phi vụ đó là gì?”
“Chúng tôi có thể tin tưởng anh không?”
“Ông có muốn lấy hồ sơ lại không?”
“Có.”
“Vậy phi vụ đó là gì?”
“Chúng tôi đến gặp tay cầm đầu cánh du kích Hồi giáo. Mang quà. Tất cả những loại quà linh tinh mang tính phô trương, từ chính Ronald Reagan. Chúng tôi là phái viên riêng của ông ta. Chúng tôi đã có một buổi họp phổ biến nhiệm vụ ở Nhà Trắng. Người ta bảo chúng tôi xun xoe nịnh bợ bất kỳ khi nào có cơ hội.”
“Và các ông đã làm thế?”
“Chứ sao nữa.”
“Chuyện cách đây hai mươi lăm năm rồi.”
“Thế thì sao?”
“Vậy thì có ai quan tâm nữa chứ? Nó là một tình tiết lịch sử. Và dù sao đã thành công. Đó là sự chấm dứt của chiến tranh lạnh.”
“Nhưng không phải sự cáo chung của đám du kích Hồi giáo. Chúng vẫn hoạt động.”
“Tôi biết,” tôi nói. “Chúng trở thành lực lượng Taliban và al-Qaeda. Nhưng đó cũng là một tình tiết. Cử tri ở North Carolina sẽ không nhớ về lịch sử. Hầu hết cử tri thậm chí còn chẳng nhớ nổi họ đã ăn gì trong bữa sáng.”
“Còn tùy,” Sansom nói.
“Vào cái gì?”
“Việc nhận ra tên người.”
“Tên nào?”
“Korengal là nơi diễn ra việc ấy. Chỉ là một góc nhô ra, nhưng là nơi Hồng quân đã bị tiêu diệt. Cánh du kích Hồi giáo ở đó đã thực hiện công việc thật tốt. Thế nên tay lãnh đạo du kích Hồi giáo bản địa là một nhân vật thực sự quan trọng. Khi ấy hắn là một ngôi sao đang lên. Hắn là người chúng tôi được cử đến gặp. Và chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi đã gặp hắn.”
“Và các ông đã liếm đít hắn?”
“Bằng mọi cách chúng tôi có thể.”
“Hắn là ai?”
“Ban đầu hắn là một gã khá ấn tượng. Trẻ, cao ráo, đẹp trai, rất thông minh, rất nhiệt huyết. Mà này, lại rất giàu nữa. Có rất nhiều quan hệ. Hắn xuất thân từ một gia đình tỷ phú ở Arập Saudi. Cha hắn là một người bạn của Phó tổng thống thời Reagan. Nhưng bản thân tay này là một tay cách mạng. Vì lý do ấy hắn đã từ bỏ cuộc sống thuận lợi.”
“Hắn là ai?”
“Osama bin Laden.”
Tôi đáp, “Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”
“Ông láo toét.”
Tôi lắc đầu. “Lần này thì không.”
“Ông chắc chắn chứ? Ông có thể đưa chúng tôi đến đó chứ?”
“Tôi có thể đưa các ông tới trong bán kính năm mét. Phần việc còn lại thuộc về các ông.”
“Tại sao? Nó bị chôn à? Hay trong két ngân hàng? Trong một ngôi nhà?”
“Chẳng nơi nào trong số đó.”
“Vậy thì nó ở đâu?”
“Gọi cho Sansom đi,” tôi nói. “Bố trí một cuộc gặp.”
Springfield uống chỗ nước còn lại của mình và một nhân viên phục vụ xuất hiện cùng hóa đơn. Springfield thanh toán bằng thẻ tín dụng hạng titan, hệt với cách thanh toán cho cả hai chúng tôi ở khách sạn Four Seasons. Điều tôi cho là tín hiệu tốt. Nó thể hiện một động thái tích cực. Thế nên tôi chọn đẩy vận may của mình đi xa hơn.
“Muốn thuê cho tôi một phòng chứ?” tôi hỏi.
“Tại sao?”
“Bởi sẽ cần thời gian cho Sansom đưa tôi ra khỏi danh sách những kẻ bị truy nã gắt gao nhất. Vả lại tôi mệt. Tôi đã thức cả đêm. Giờ muốn ngả lưng một chút.”
Mười phút sau chúng tôi đã có mặt ở một tầng cao, trong một căn phòng có giường cỡ lớn. Không gian đẹp, song xét về mặt chiến thuật thì không được ưng ý. Như mọi phòng khách sạn trên tầng cao, nó có một cửa sổ chẳng hề thuận lợi cho tôi, do vậy chỉ có một đường ra. Tôi có thể thấy rằng Springfield cũng đang nghĩ hệt như mình. Anh ta đang nghĩ rằng tôi là gã điên tự đưa mình vào chốn này.
Tôi hỏi anh ta, “Tôi có thể tin tưởng ông chứ?”
Anh ta đáp, “Có.”
“Chứng minh đi.”
“Bằng cách nào?”
“Đưa súng của ông cho tôi.”
“Tôi không có vũ khí.”
“Những câu trả lời như vậy không giúp ích cho sự tin tưởng đâu.”
“Tại sao ông muốn lấy nó?”
“Ông biết vì sao mà. Để nếu ông đưa không đúng người tới cửa phòng tôi, tôi có thể tự vệ.”
“Tôi sẽ không làm thế.”
“Đảm bảo cho tôi đi.”
Springfield đứng yên một lúc. Tôi biết rằng anh ta thà cắm kim vào mắt còn hơn bỏ vũ khí. Nhưng rồi đầu anh ta tính toán, và rồi tay đưa xuống dưới áo khoác sau lưng, rút ra một khẩu súng ngắn Steyr GB cỡ chín ly. Súng ngắn Steyr GB là loại vũ khí đeo bên sườn được các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ thời những năm 1980 ưa thích. Lực lượng Đặc biệt. Springfield xoay súng và đưa cho tôi phần báng. Đây là một món vũ khí cũ đẹp, đã dùng nhiều song được bảo dưỡng tốt. Trong ổ đạn có mười tám viên, một viên đã lên nòng.
“Cảm ơn,” tôi nói.
Springfield không nói gì. Chỉ bước ra khỏi phòng. Tôi bấm chốt, xoay chìa khóa cửa ngay sau khi anh ta ra, đặt dây xích vào rồi đẩy một chiếc ghế vào phía dưới tay nắm. Tôi dốc hết mọi thứ trong túi ra cái giá đầu giường. Tôi bỏ quần áo xuống dưới nệm cho phẳng. Rồi tôi tắm nước nóng một lúc lâu.
Và tôi nằm ngủ, khẩu súng của Springfield nhét dưới gối.
Bốn tiếng sau, tôi thức dậy vì tiếng gõ cửa. Tôi không thích nhìn qua lỗ quan sát ở các cửa phòng khách sạn. Quá nguy hiểm. Tất cả những gì một kẻ tấn công ngoài hành lang phải làm là đợi cho tới khi thấu kính tối lại rồi bắn một phát súng xuyên qua đó. Thậm chí một khẩu.22 giảm thanh cũng hoàn toàn có thể gây chết người. Chẳng có gì quan trọng lắm nằm giữa giác mạc và thân não. Nhưng trên bức tường trong cửa có một chiếc gương soi toàn thân. Tôi đoán là để kiểm tra lại quần áo lần cuối cùng trước khi rời khỏi phòng. Tôi lấy một chiếc khăn tắm từ phòng tắm ra, quấn quanh eo rồi lấy khẩu súng từ dưới gối ra. Tôi dịch chiếc ghế và mở cửa mà vẫn để dây xích. Lùi về phía bản lề và theo dõi qua tấm gương.
Springfield và Sansom.
Chỉ có một khe hẹp, hình ảnh trong gương bị đảo ngược và ánh sáng ngoài hành lang lờ mờ song tôi vẫn nhận ra họ khá dễ. Tôi có thể khẳng định là chỉ có hai người. Và họ sẽ vẫn chỉ có hai, trừ phi họ đã mang thêm hơn mười chín người. Khẩu Steyr không có lẫy an toàn. Chỉ nặng tay khi kéo cò ở phát bắn đầu tiên, rồi thêm mười tám phát. Tôi bỏ ngón tay khỏi cò súng và gỡ dây xích ra khỏi cửa.
Họ chỉ có hai người.
Cả hai bước vào, Sansom trước, Springfield sau. Sansom trông vẫn như trong buổi sáng tôi gặp lần đầu tiên. Rám nắng, giàu có, quyền lực, đầy sức sống và oai vệ. Ông ta mặc bộ com lê màu xanh hải quân, sơ mi trắng cà vạt đỏ, trông ông nghị sĩ tươi tỉnh như mới được lột xác. Sansom lấy chiếc ghế tôi đặt bên dưới tay nắm cửa, mang đến đặt bên bàn gần cửa sổ và ngồi xuống. Springfield đóng cửa và cài lại dây xích. Tôi vẫn giữ khẩu súng. Tôi lấy đầu gối nâng nệm lên khỏi lò xo giường và dùng một tay lôi quần áo ra.
“Hai phút,” tôi nói. “Các ông hãy nói chuyện riêng với nhau.”
Tôi mặc quần áo trong phòng tắm rồi trở ra, Sansom hỏi, “Anh thực sự biết chiếc USB đang ở đâu chứ?”
“Có,” tôi nói. “Tôi biết thực sự.”
“Tại sao anh muốn biết trong đó có gì?”
“Bởi tôi muốn biết nó khiến người ta mất mặt đến đâu.”
“Anh không muốn cho tôi vào Thượng viện à?”
“Tôi không quan tâm xem ông sử dụng thời gian thế nào. Tôi chỉ tò mò, thế thôi.”
Sansom hỏi, “Tại sao anh sẽ không nói cho tôi biết ngay bây giờ nó ở đâu?”
“Vì tôi có một việc khác cần làm trước. Và tôi cần ông giữ sao cho cánh cảnh sát đừng động vào lông chân tôi khi tôi đang làm việc ấy. Thế nên tôi cần một cách khiến ông để tâm tới việc ấy.”
“Có thể anh đã lừa tôi.”
“Tôi từng có thể, nhưng giờ thì không.”
Sansom không nói lại gì.
Tôi hỏi, “Mà sao ông lại muốn vào Thượng viện?”
“Tại sao tôi lại không muốn chứ?”
“Ông từng là một người lính giỏi và giờ thì ông còn giàu hơn Chúa. Tại sao không đi ra bờ biển mà sống?”
“Những việc này là một cách liên tục ghi thành tích. Tôi chắc chắn là anh cũng có cách liên tục ghi thành tích của riêng mình.”
Tôi gật đầu. “Tôi so sánh số câu trả lời tôi nhận được với số câu hỏi tôi đặt ra.”
“Và việc anh làm tiến triển thế nào rồi?”
“Tính trung bình cả đời gần được một trăm phần trăm.”
“Tại sao lại hỏi? Nếu như anh biết chiếc USB ở đâu, hãy đi mà lấy nó.”
“Tôi không thể.”
“Sao lại không?”
“Việc đó đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn mức tôi có thể huy động.”
“Nó ở đâu?”
Tôi không đáp.
“Nó ở New York này hả?”
Tôi không trả lời.
Sansom hỏi, “Nó được an toàn không?”
Tôi đáp: “Đủ an toàn.”
“Tôi có thể tin tưởng anh không?”
“Nhiều người đã từng tin.”
“Và sao?”
“Tôi nghĩ hầu hết sẽ sẵn sàng làm chứng điều ấy cho tôi.”
“Còn những người khác?”
“Không mấy người không được hài lòng.”
Sansom nói, “Tôi đã đọc hồ sơ quân nhân của anh.”
Tôi nói, “Ông đã nói với tôi điều đó rồi.”
“Nó có sự thăng trầm.”
“Tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng tôi có quan điểm riêng.”
“Tại sao anh xuất ngũ?”
“Tôi thấy chán. Ông thì sao?”
“Tôi thấy già.”
“Trong cái USB đó có gì?”
Sansom không trả lời. Springfield đứng im lặng ở góc khuất của tủ đặt ti vi, gần cửa ra vào hơn cửa sổ. Tôi đoán đó thuần túy do thói quen. Phản xạ tự nhiên. Anh ta là kẻ tàng hình đối với một tay bắn tỉa tiềm tàng ngoài cửa và đủ gần hành lang để khống chế một kẻ đột nhập ngay ở giây cánh cửa bật mở. Những gì được đào tạo cứ tồn tại mãi cùng con người. Đặc biệt là đào tạo của lực lượng Delta. Tôi bước tới trả lại anh ta khẩu súng. Không nói một lời, Springfield cầm lấy giắt vào thắt lưng.
Sansom nói, “Hãy cho tôi biết những gì anh biết cho tới thời điểm này.”
Tôi nói, “Các ông được máy bay đưa từ Bragg tới Thổ Nhĩ Kỳ, rồi tới Oman. Sau đó có thể là Ấn Độ. Rồi Pakistan, và Mặt trận Tây Bắc.”
Ông ta gật đầu, không nói gì. Trong mắt Sansom hiện lên cái nhìn xa xăm. Tôi đoán đầu ông ta đang hồi tưởng lại chuyến đi. Máy bay vận tải, trực thăng, xe tải, nhiều dặm đường cuốc bộ.
Tất cả diễn ra đã lâu.
“Rồi tới Afghanistan,” tôi nói.
“Tiếp đi,” ông ta bảo.
“Có thể các ông đã lưu lại ở rìa dãy Abas Ghar và hướng về phía Nam và Tây, theo rìa thung lũng Korengal, có thể cách đáy thung lũng chừng ba trăm mét.”
“Tiếp đi.”
“Ông đã vô tình chạm mặt Grigori Hoth, tước khẩu súng trường của ông ta rồi bỏ cho người đó đi lang thang.”
“Tiếp đi.”
“Rồi các ông tiếp tục đi bộ, đến nơi nào đó các ông được lệnh tới.”
Sansom gật đầu.
Tôi nói, “Đó là tất cả những gì tôi biết cho đến nay.”
Ông ta hỏi, “Tháng Ba năm 1983 ông ở đâu?”
“West Point.”
“Có sự kiện gì lớn?”
“Hồng quân đang cố gắng ngăn chặn tình trạng đổ máu.”
Sansom gật đầu lần nữa. “Đó là một chiến dịch điên rồ. Chưa ai từng đánh bại được các bộ tộc ở Mặt trận Tây Bắc. Suốt cả lịch sử chưa hề có. Và họ có kinh nghiệm ở Việt Nam của người Mỹ để nghiên cứu. Một số việc đơn giản là không thể làm được. Đó là cái cối xay thịt tốc độ chậm. Kiểu như bị chim rỉa thịt cho tới chết. Chúng ta rất vui về chuyện đó, cái này thì rõ rồi.”
“Chúng ta đã góp phần vào điều đó,” tôi nói.
“Chắc chắn là thế rồi. Chúng ta trao cho cánh du kích Hồi giáo mọi thứ họ muốn. Miễn phí.”
“Kiểu như Lend-Lease.”
“Tệ hơn thế,” Sansom nói. “Lend-Lease liên quan đến việc giúp đỡ các nước bạn bè bị phá sản vào thời điểm ấy. Cánh du kích Hồi giáo không phá sản. Ngược lại hẳn. Có đủ mọi loại liên minh kỳ quái theo hình thức bộ lạc kéo tới tận Arập Saudi. Trên thực tế thì cánh du kích Hồi giáo có nhiều tiền hơn cả chúng ta.”
“Và sao?”
“Khi ta đã có thói quen cho người ta mọi thứ họ cần, rất khó dừng lại.”
“Họ muốn thêm gì?”
“Sự công nhận,” Sansom đáp. “Cống nạp. Sự thừa nhận. Sự biết điều. Giáp mặt thời gian. Thật khó biết chính xác làm cách nào khái quát được nó.”
“Vậy phi vụ đó là gì?”
“Chúng tôi có thể tin tưởng anh không?”
“Ông có muốn lấy hồ sơ lại không?”
“Có.”
“Vậy phi vụ đó là gì?”
“Chúng tôi đến gặp tay cầm đầu cánh du kích Hồi giáo. Mang quà. Tất cả những loại quà linh tinh mang tính phô trương, từ chính Ronald Reagan. Chúng tôi là phái viên riêng của ông ta. Chúng tôi đã có một buổi họp phổ biến nhiệm vụ ở Nhà Trắng. Người ta bảo chúng tôi xun xoe nịnh bợ bất kỳ khi nào có cơ hội.”
“Và các ông đã làm thế?”
“Chứ sao nữa.”
“Chuyện cách đây hai mươi lăm năm rồi.”
“Thế thì sao?”
“Vậy thì có ai quan tâm nữa chứ? Nó là một tình tiết lịch sử. Và dù sao đã thành công. Đó là sự chấm dứt của chiến tranh lạnh.”
“Nhưng không phải sự cáo chung của đám du kích Hồi giáo. Chúng vẫn hoạt động.”
“Tôi biết,” tôi nói. “Chúng trở thành lực lượng Taliban và al-Qaeda. Nhưng đó cũng là một tình tiết. Cử tri ở North Carolina sẽ không nhớ về lịch sử. Hầu hết cử tri thậm chí còn chẳng nhớ nổi họ đã ăn gì trong bữa sáng.”
“Còn tùy,” Sansom nói.
“Vào cái gì?”
“Việc nhận ra tên người.”
“Tên nào?”
“Korengal là nơi diễn ra việc ấy. Chỉ là một góc nhô ra, nhưng là nơi Hồng quân đã bị tiêu diệt. Cánh du kích Hồi giáo ở đó đã thực hiện công việc thật tốt. Thế nên tay lãnh đạo du kích Hồi giáo bản địa là một nhân vật thực sự quan trọng. Khi ấy hắn là một ngôi sao đang lên. Hắn là người chúng tôi được cử đến gặp. Và chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi đã gặp hắn.”
“Và các ông đã liếm đít hắn?”
“Bằng mọi cách chúng tôi có thể.”
“Hắn là ai?”
“Ban đầu hắn là một gã khá ấn tượng. Trẻ, cao ráo, đẹp trai, rất thông minh, rất nhiệt huyết. Mà này, lại rất giàu nữa. Có rất nhiều quan hệ. Hắn xuất thân từ một gia đình tỷ phú ở Arập Saudi. Cha hắn là một người bạn của Phó tổng thống thời Reagan. Nhưng bản thân tay này là một tay cách mạng. Vì lý do ấy hắn đã từ bỏ cuộc sống thuận lợi.”
“Hắn là ai?”
“Osama bin Laden.”
Bình luận truyện