Khúc Cầu Hồn
Chương 9
Thám tử Hunt lái xe nhanh xuống con đường ướt, hẹp. Hiện trường tai nạn đã ở xa sau lưng ông ba dặm đường, bác sĩ khám nghiệm y khoa đang thu dọn tử thi, thuộc cấp của ông vẫn còn ở hiện trường. Nhiều chuyện thay đổi sau khi Cross chỉ cho ông tấm bản đồ. Những mảnh tư duy chuyển dịch trong đầu ông: những khả năng, biến số. David Wilson bị thảm sát, Hunt tin lý do chỉ vì hắn ta phát hiện ra Tiffany Shore.
Tôi tìm thấy cô gái, gã nói với cậu bé, và giờ gã bị thảm sát.
Nhưng gã tìm thấy cô bé ở đâu? Trong điều kiện như thế nào? Và quan trọng nhất, ai đã giết gã? Hunt tập trung vào chiếc xe hất văng gã ra khỏi đường, người đàn ông lái chiếc xe ấy. Nó là điều hợp lý, nhưng chỗ con sông uốn khúc đã tác động đến suy luận lô-gíc ấy. Hunt đưa ra giả thuyết có ba người đàn ông khác nhau đứng tại hoặc gần cây cầu khi án mạng xảy ra: Wilson, đã chết; tài xế xe giết gã; gã da đen ngẫu nhiên nào đó cách hai dặm theo hướng dòng sông. Bây giờ ông ta phải hỏi điều ấy. Có thể kẻ khổng lồ mà Johnny trông thấy chỉ là kẻ có mặt không đúng nơi và đúng lúc. Có thể hắn lái chiếc ô tô gây tai nạn giết David Wilson. Có thể không.
Hai người hoặc ba?
Tổ cha!
Hunt cần nói chuyện với Johnny, không phải sau này, mà là ngay giờ phút này. Ông có những câu hỏi mới. Ông gọi điện đàm cho trung tâm yêu cầu được tiếp xúc với đơn vị tuần tra mà ông đã chỉ định họ chở Johnny và Katherine về nhà. Ông nhìn đồng hồ và chửi thề trong khi đường dây đang được nối tiếp. Gần mười tiếng đồng hồ, đó là thời gian Tiffany bị bắt cóc, và thống kê thì lạnh lùng và chính xác như chỉ những con số mới đạt được điều đó. Chỉ một vài người bị bắt cóc còn sống qua ngày đầu tiên; chuyện đời nó là như vậy.
Nhanh chóng.
Mọi chuyện cuối cùng tập trung ở sự nhanh chóng.
Tôi đã tìm thấy cô bé.
Hunt cần hỏi Johnny về người đàn ông với khuôn mặt đáng sợ, về những gì cậu ấy thấy trên cầu. Hunt cần biết hai kẻ ấy có phải là một hay không. Không phải suy đoán hay giả thuyết, mà là sự thật thực tế.
“Kết nối bây giờ,” trung tâm nói với ông.
Giọng nói thứ hai lè nhè trên làn sóng điện đàm. Hunt tự nhận diện mình và chất vấn viên cảnh sát về Johnny.
“Tôi vừa rời nhà cậu ấy. Lúc tôi đi, cậu ấy đứng ở đường dẫn vào nhà.”
“Chính xác là bao lâu rồi?”
Ngưng giây lát. “Hai mươi phút.”
“Hai mươi phút. Nghe rõ.” Hunt gác máy. Thêm năm phút nữa ông sẽ có mặt ở căn nhà. Nhanh lên, nhanh lên. Ông tăng tốc cho đến khi chiếc xe có dấu hiệu bốc lên khỏi mặt đất, quẹo với vận tốc nguy hiểm trên đường ướt trơn trượt.
Hơn ba giờ đồng hồ từ khi chiếc xe gắn máy bị đụng. Kẻ đâm David Wilson có thể đang lẩn trốn ở bất cứ nơi nào trong lúc này, hắn có thể ra khỏi quốc gia, khỏi tiểu bang, nhưng Hunt không tin như vậy. Thực sự mạo hiểm khi vượt thoát đi xa cùng với đứa trẻ bắt cóc. Khi lệnh báo động đã được khởi phát, công chúng ngoài kia sẽ để ý. Phần lớn những thành phần đồi bại chỉ muốn bắt cóc đứa trẻ và trốn tránh dưới lòng đất. Johnny Merrimon đúng ở điểm này. Và nhiều vụ bắt cóc được dàn dựng cẩn thận, phần lớn chỉ là cơ hội. Một đứa trẻ để trong xe ô tô hoặc không người trông nom trong một cửa hiệu đông đúc. Một đứa trẻ đi bộ một mình.
Như trường hợp Alyssa Merrimon.
Cô bé đang đi bộ về nhà lúc trời tối, một mình trên quãng đường vắng. Không ai có thể biết cô bé có mặt nơi đấy. Không ai có thể toan tính cho chuyện đó. Tương tự như trường hợp Tiffany Shore. Cô bé nấn ná gần bãi đậu xe sau khi chuông reo. Nó chỉ là vấn đề cơ hội. Và dục vọng.
Hunt thắng xe chỗ đèn đỏ, sau đó rẽ trái, cảm giác thắng xe không bám đường. Ông điều chỉnh xe, giữ cho xe thẳng lại. Ông ta nghĩ về cái ác và khẩu súng trong bao súng dưới cánh tay của ông.
Khi nhận được tin tức về vụ bắt cóc Tiffany, Hunt đã ra lệnh với phản ứng dữ dội. Ông gửi xe tuần tra đến kiểm tra lại tất cả địa điểm cư trú của những người có tiền án liên quan đến tình dục. Phần lớn được xem xét với xác xuất thấp: kẻ xem ảnh khiêu dâm, kẻ phô diễn dâm tục; nhưng cũng nhiều cá nhân có tiền án về hiếp dâm hay bạc đãi trẻ em hoặc những hành động man rợ. Hunt giữ một danh sách ngắn những thành phần tối nguy hiểm: những kẻ loạn trí, ác dâm thuộc thành phần có thể làm bất cứ điều gì. Những loại đàn ông này không bao giờ tự khống chế được con quỷ dục vọng sai khiến họ. Không có cách chữa trị, không sửa đổi. Và với những thành phần đốn mạt này, nó chỉ là vấn đề thời gian, cho nên ông cần đi trước họ một bước. Ông biết họ cư trú ở đâu, sử dụng ô tô loại gì; ông biết thói quen của họ và những ham chuộng. Ông chứng kiến nhiều hình ảnh, nói chuyện với nạn nhân và chính mình nhìn những vết thẹo. Những kẻ đốn mạt đó không có lý do gì được ra khỏi nhà tù.
Giờ thì không.
Không bao giờ.
Phần lớn được điểm danh; họ đã được xác định nơi cư trú và thẩm vấn. Phần lớn trong họ đều đồng ý gia cư được lục soát, và tất cả những cuộc lục soát như vậy không tìm ra manh mối gì. Những ai từ chối đều bị theo dõi liên tục và Hunt nhận báo cáo thường xuyên. Ông biết họ ăn gì và ăn khi nào; họ chỉ có một mình hoặc không, và nếu không, ai đang ở gần họ. Ông biết nơi cư trú, sinh hoạt của họ. Thức hay tỉnh. Ở yên một chỗ hay đang di chuyển. Hunt liên lạc với nhân viên thuộc quyền đang bám đường bám chợ và giữ họ ở mức cảnh giác cao độ trong khi họ tiếp tục rà soát danh sách.
Hunt nhẩm tính những tên tuổi trong đầu ông. Không ai trong danh sách ấy cao hai mét. Không ai có sẹo như cậu bé nhà Merrimon mô tả. Nếu Cross đúng, điều này có nghĩa là họ đang đương đầu với lính mới, ai đó lọt ra khỏi danh sách. Và nếu dự đoán của Cross sai... khả năng không bao giờ chấm dứt.
Hunt lấy từ trong túi áo khoác tấm ảnh của Tiffany Shore và liếc nhanh. Ông đã lấy tấm ảnh này từ người mẹ quẫn trí chỉ vài giờ trước đây. Nó là bức ảnh chụp ở trường học, trong đó Tiffany cười tươi và sinh động. Ông tìm kiếm những điểm giống Alyssa, nhưng chỉ một vài điểm giống nhau. Alyssa có mái tóc đen và dáng dấp mong manh; cô bé nhìn trẻ trung, nhỏ bé và ngây thơ, có cùng đôi mắt đen sậm như cậu anh trai. Tiffany có đôi môi dày, cái mũi hoàn hảo, và mái tóc thì như lụa vàng. Tấm ảnh một người con gái có cái cổ quý phái, bộ ngực mới nhú, và nụ cười hiểu biết gợi mở hình ảnh một người phụ nữ quyến rũ sau này. Hai cô gái thoáng nhìn thì không có vẻ có những điểm tương đồng, nhưng họ có. Cả hai đều ngây thơ, và cả hai đều là trách nhiệm của ông.
Của ông.
Không ai khác.
Suy nghĩ đó âm ỉ trong đầu thám tử Hunt khi điện thoại của ông reo vang. Ông liếc sơ qua màn ảnh hiển thị số của người gọi. Cảnh sát trưởng. Ông sếp. Ông để máy rung chuông bốn lần, sau đó, làm ngược với sự quyết định sáng suốt, ông nhấc máy trả lời.
“Ông đang ở đâu đó?” Cảnh sát trưởng không phí phạm một giây phút thời gian. Chỉ chưa đầy mười hai tháng từ khi Alyssa mất tích, giờ lại có thêm trường hợp một bé gái mất tích. Ông ta đang bị áp lực bởi chính ông, thám tử Hunt biết: Gia đình Tiffany, chính quyền thành phố, báo chí.
“Tôi đang trên đường đến nhà bà Katherine Merrimon. Tôi sẽ có mặt ở đó ít phút.”
“Ông là chỉ huy. Lẽ ra ông phải có mặt ở nhà David Wilson hay ở hiện trường vụ án. Tôi có cần thiết phải nhắc những cái đó cho ông không?”
“Không.”
Nhưng cảnh sát trưởng nói rõ. “Nếu chúng ta cho rằng Wilson tìm thấy Tiffany Shore - và nếu nó là chuyện chúng ta nghĩ - thì lẽ ra ông phải điều tra những hoạt động của người này. Gã ta đi những đâu. Gã ta nói chuyện với ai. Bất cứ chọn lựa nào của gã ngày hôm nay, bất cứ ngõ ngách nào có thể liên đới đến cô bé Tiffany Shore...”
“Tôi biết tất cả những điều đó,” Hunt đột ngột ngắt lời. “Tôi đã phái Yoakum đến nhà hắn ta. Chút xíu nữa đây tôi sẽ gặp ông ấy ở đó, nhưng chuyện này cần làm trước.”
“Tôi có thể biết tại sao ông đang đi đến nhà bà Katherine Merrimon không?” Hunt nghe rõ một giọng hoài nghi, một sự mất tin tưởng bất thình lình.
“Con trai bà ấy có thể có thông tin.”
Hunt tưởng tượng hình ảnh cảnh sát trưởng: sang trọng ngồi trong văn phòng, mồ hôi ướt đầm áo sơ mi. Giọng của ông ta là giọng của một chính trị gia.
“Tôi muốn biết ông có đang chú tâm vào vụ án này không, Hunt? Ông có đang chú tâm không?”
“Đó là một câu hỏi tào lao.” Hunt biết rất rõ nguồn căn dẫn đến sự hoài nghi của cảnh sát trưởng, nhưng ông không thể kìm hãm được sự bực tức trong lòng. Nếu ông dồn thời gian cho vụ án Merrimon. Rồi thì sao? Có thể ông cảm thông hơn là phần lớn cảnh sát ngoài kia. Nó là vụ án quan trọng; nhưng Cảnh sát trưởng thì không nhìn sự việc như vậy. Không. Ông ta nghe chuyện về Hunt đêm nào cũng thức đến khoảng ba giờ sáng; có mặt lúc hừng đông sáng chủ nhật xem duyệt những tang chứng mà ông đã xem cả trăm lần; làm phiền thẩm phán ký trát truy nã mà không bao giờ mang lại kết quả gì; làm thêm giờ, và sau đó làm không lương; tác động tới những cảnh sát khác, nhân lực mà lẽ ra cần dùng cho các vụ án khác. Ông ta nhìn Hunt hành xác chính mình. Ông ta nhìn thấy làn da xanh xao và cơ thể xuống cân, đôi mắt thiếu ngủ và những chồng hồ sơ dưới đất trong văn phòng Hunt. Và nhiều vấn đề khác.
Những tin đồn.
“Nó không chỉ là câu hỏi, Hunt. Nó là lời yêu cầu, một mệnh lệnh.”
Hunt nghiến chặt hàm răng, lời nói không làm sao thoát ra cửa miệng khi ông đang nuốt nỗi bực dọc. Ông điều hành khối trọng án. Thám tử chỉ huy. Nó là công việc của ông, nó là đời sống của ông. “Tôi đã nói, là tôi chú tâm đến nó.”
Hunt nghe tiếng thở trên đường dây, rồi giọng nói như bị bàn tay che miệng. Khi Cảnh sát trưởng lên tiếng, lời nói của ông ta vang lên rành mạch. “Tôi không chấp nhận cho việc cá nhân, Hunt. Vụ án này không dung chứa điều đó.”
Hunt nhìn trừng trừng về phía trước. “Nghe rõ. Không vì cá nhân.”
“Vụ án này liên quan đến Tiffany Shore. Gia đình cô bé. Không phải Alyssa Merrimon. Không phải cậu anh cô ấy. Và không phải mẹ cô ấy. Mọi chuyện rõ ràng chứ?
“Như pha lê.”
Ngừng một giây lát, sau đó là giọng nói hàm chứa một chút hối hận. “Làm việc vị cá nhân sẽ khiến ông bị sa thải, Clyde. Nó sẽ làm ông bị thổi bay ra khỏi nha cảnh sát của tôi. Đừng buộc tôi phải làm như vậy.”
“Tôi không cần một bài giáo huấn.” Ông bỏ dở phần còn lại không nói: Tôi không muốn nghe từ mồm một gã cớm béo phì, chính trị sa-lông.
“Ông đã đánh mất vợ ông. Đừng để mất luôn công việc của ông.”
Hunt nhìn vào trong gương và thấy sự thịnh nộ trong chính đôi mắt của mình. Ông hít một hơi thật dài vào tận đáy buồng phổi. “Hãy tránh xa đường tôi đi,” ông nói, và vẫn giữ ôn hoà như một người bình thường có thể. “Hãy để tôi chứng tỏ tôi có thể tin tưởng được.”
“Ông đang đốt cây nến tin tưởng trong suốt một năm trường, và nó cháy rất chậm chạp. Ngày mai, tôi muốn thấy bức ảnh bé gái Tiffany Shore ngồi trên lòng bà mẹ cô bé. Trang nhất. Đó là cách làm sao chúng ta giữ được công việc đang làm của chúng ta.” Một thoáng yên lặng, Hunt không tin tưởng lắm vào tiếng nói của mình và do đó giữ im lặng. “Hãy mang đến cho tôi một kết cục có hậu, Clyde. Mang đến cho tôi điều ấy, và tôi sẽ làm ngơ như ông vẫn là ông cớm một thời oanh liệt như một năm trước đây.”
Cảnh sát trưởng cúp máy.
Hunt đấm mạnh lên nóc mui xe, sau đó rẽ xe vào đường dẫn vào nhà Johnny. Ông để ý thấy chiếc ô tô thùng thường đậu ở sân đã biến đâu mất. Khi gõ cửa trước, một âm thanh khô khốc vang lên gây cảm giác ngôi nhà bị rỗng bên trong. Hunt nhìn thấu qua cửa sổ nhỏ thì thấy ông Ken Holloway xuất hiện từ hành lang tối đen. Ông ta đi đôi giầy bóng loáng, phía dưới quần tây hơi nhàu nát, và đang nhét áo vào trong quần. Ông ta cài chặt chiếc thắt lưng da cá sấu, sau đó dừng lại trước gương vuốt thẳng tóc và kiểm tra hàm răng. Trên tay phải cầm cây súng rulô.
“Cảnh sát, ông Holloway. Buông súng xuống và mở cửa.”
Ken Holloway co giật người, bất thình lình biết được người từ bên ngoài cửa sổ có thể nhìn thấy ông. Một nụ cười bất bình hiện lên trên khuôn mặt ông ta. “Ai là cảnh sát?”
“Thám tử Clyde Hunt. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”
Nụ cười biến mất. “Tôi xin phép được xem thẻ hành sự?”
Hunt ép tấm thẻ hành sự vào cửa kính, sau đó lùi ra xa khỏi cửa và hạ tay xuống chạm báng súng. Ông Holloway đóng góp tiền bạc cho nhiều chương trình từ thiện. Ông ta có tên trong nhiều hội đồng giám đốc và chơi đánh gôn với những nhân vật tai mắt.
Nhưng Hunt biết ông ta.
Một năm trông chừng Katherine và Johnny, Hunt đã có những lần gặp gỡ kỳ cục, như lần gặp ở cửa hiệu tạp hoá; những điều đã nói và không nói; một chân đi cà nhắc hay một vết thâm tím trên người cậu bé; đôi mắt tròn xoe của cậu khi cậu nghĩ cậu đang được dạy dỗ. Hunt cố cảnh báo, nhưng bà Katherine phần lớn đầu óc mơ màng ở tận đâu, ở nơi nào đó xa thăm thẳm, và Johnny thì sợ hãi. Hunt không có một cái gì chắc chắn. Nhưng ông linh cảm thấy điều tồi tệ.
Lùi thêm một bước nữa, khoảng cách giữa Hunt và cánh cửa đã là một mét. Xuyên qua lớp kính cửa sổ, thấy rõ vùng ngực tối đen của Holloway. Người ông ta nhìn đẫy đà, nước da nâu, bộ ngực to rộng ở trên cái bụng to béo. Mặt ông ta hiện lên đằng sau lớp kính. “Giờ này đã giữa đêm rồi Thám tử.”
“Mới chín giờ thôi thưa ông Holloway. Một đứa trẻ vừa bị bắt cóc. Làm ơn mở cửa.”
Tiếng khoá mở và cánh cửa hé mở. Nhiều nếp nhăn hiện trên khuôn mặt Ken Holloway. Cho dù ông ta có làm ra vẻ bảnh bao, Hunt vẫn nhìn thấy những vết bẩn ướt nhoẹt ngay chỗ chân tóc của ông ta. Hai tay ông ta trống trơn. “Sự mất tích của Tiffany Shore liên quan gì đến Johnny?”
“Ông có thể làm ơn bước ra khỏi cửa được không?” Hunt giữ giọng mình điềm đạm, và điều này không dễ dàng. Rất có thể ông sẽ bắn Kent Holloway đồng thời nhìn thẳng vào ông ta.
“Được.” Ken Holloway đẩy cánh cửa mở toang và xoay người, hai tay ông ta vỗ vào hai bên đùi.
Hunt bước vào trong nhà, cặp mắt quét trái phải cho đến khi ông tìm thấy được vũ khí, cây rulô A.38. Thép không rỉ. Nó được đặt trên đỉnh chiếc tivi, nòng súng hướng vào bức tường.
“Nó đã được đăng bạ,” Ken Holloway nói.
“Tôi biết. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”
“Nó có liên quan gì đến chuyện xảy ra hôm nay không?”
Hunt ngửi thấy mùi cồn. “Bộ ông thật sự quan tâm chuyện này sao?”
Ken Holloway cười gượng. “Xin chờ trong chốc lát.” Ông ta lên giọng gọi. “Johnny.” Không trả lời. Ông ta gọi lần nữa, sau đó lẩm bẩm chửi thề. Hành lang nuốt chửng ông ta và Hunt nghe tiếng cửa mở, sau đó đóng sầm. Khi trở lại, ông ta chỉ có một mình.
“Cậu bé không có ở đây.”
“Thế cậu ta đâu?”
“Tôi hoàn toàn không biết.”
Sự bực dọc dâng lên trong giọng nói Hunt. “Cậu ta mới mười ba tuổi. Ngoài kia trời tối và mưa tầm tã. Chiếc ô tô không có trong nhà và ông không biết cậu bé ở đâu? Theo chỗ tôi biết thì đó là sự xao lãng bỏ bê đấy.”
“Và theo sự hiểu biết luật pháp của tôi, thưa ông Thám tử, đó là vấn đề của mẹ thằng bé đó. Tôi chỉ là khách của gia đình.”
Họ chằm chằm nhìn nhau, và Hunt bước gần hơn. Kent Holloway là người hai mặt, khôn khéo và hoà hoãn, nhưng chỉ khi nó phục vụ những nhu cầu của ông ta. Có thể ngoài kia có nhiều cao ốc thuộc các viện đại học được đặt tên ông ta, nhưng Hunt không giấu được sự không ưa của mình. “Ông cần phải cẩn thận với tôi.”
“Đó có phải là lời hăm doạ không?”
Hunt không nói gì.
“Ông chắc không biết tôi là ai,” Holloway nói.
“Nếu có mệnh hệ nào xảy ra với cậu bé...”
Kent Holloway cười lạnh lùng. “Một lần nữa tên ông là gì? Tôi có một buổi họp với thị trưởng và ủy viên hội đồng thành phố sáng ngày mai. Tôi muốn biết rõ ràng tên của ông.”
Hunt đánh vần tên cho ông ta, rồi nói, “Về cậu bé ấy...”
“Nó là đứa ngổ ngáo. Ông muốn tôi làm gì trong việc này? Nó không phải con của tôi hoặc thuộc về trách nhiệm của tôi. Bây giờ ông có muốn tôi đi gọi mẹ của nó không? Tôi có thể đánh thức bà ấy. Bà ta sẽ không biết giờ này nó ở đâu, nhưng tôi sẽ lôi bà ấy ra đây nếu điều này làm ông vui lòng.”
Hunt từng ngưỡng mộ mẹ của Johnny ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ. Vóc dáng bé nhỏ nhưng tràn đầy sức sống, bà chứng tỏ nghị lực can đảm và niềm tin mãnh liệt trong những tình huống khó có thể chịu đựng nổi. Bà cương nghị đứng thẳng cho đến ngày bà quỵ ngã và chẳng còn hy vọng phục hồi. Có thể nó là sự đau buồn, có thể là sự ân hận, nhưng trông bà thật thảm thương và mất phương hướng, trôi dật dờ trong một tình huống kinh hãi rất ít người làm cha mẹ nào có thể hình dung ra. Chỉ nghĩ về bà ta và kẻ lợi dụng như Ken Holloway đã thậm tệ rồi. Trông thấy bà bị lôi ra khỏi giường bởi gã ta thì còn tồi tệ hơn, là một sự sỉ nhục.
“Tự tôi sẽ đi tìm cậu bé.” Hunt trở ra hướng cửa.
“Chúng ta chưa xong đâu, ông Thám tử.”
“Đúng.” Hunt nói. “Chưa xong đâu.”
Tay của ông vừa đặt trên cánh cửa thì điện thoại của Holloway reo vang. Ông đứng tần ngần khi Holloway trả lời: “Phải.” Ken Holloway quay lưng về phía Hunt. “Ông có chắc không? Tốt lắm. Phải, gọi cảnh sát. Tôi sẽ có mặt ở đó trong mười phút nữa.” Ông ta tắt điện thoại và nhìn Hunt.
“Công ty báo động nhà tôi có trộm,” ông ta nói. “Nếu ông vẫn muốn tìm Johnny, ông có thể bắt đầu tìm kiếm ở nhà tôi.”
“Tại sao ông lại nói như vậy?”
“Bởi vì cái anh nhóc ranh mãnh đó vừa ném cục gạch qua cửa sổ phía trước nhà tôi.”
“Điều gì làm ông nghĩ đó là Johnny?”
Ken Holloway lượm chìa khoá của ông ta. “Lúc nào cũng là thằng nhóc Johnny.”
“Luôn luôn?”
“Đây là lần thứ năm rồi đó.”
***
Johnny lái ô tô đi trên những con đường tối mù, trời mưa tạo ra những vệt kéo long lanh trên kính trước. Bố mẹ Tiffany Shore thuộc thành phần giàu có, họ cư ngụ cách nhà ông Ken ba dãy phố. Johnny đã từng một lần tham dự tiệc tùng ở đấy. Cậu lái xe chậm rãi khi gần đến nhà Tiffany, sau đó dừng hẳn. Cậu thấy xe tuần tra của cảnh sát và những cái bóng di chuyển đằng sau màn cửa sổ. Cậu quan sát căn nhà một lúc lâu, sau đó nhìn hàng xóm ở hai bên. Ánh sáng ấm áp tỏa ra từ những căn nhà đó, và trong bóng tối tù mù của con đường cái, Johnny cảm thấy cô đơn vô cùng vì chẳng ai biết đến cậu. Không một ai có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra đằng sau những bức tường nhà Tiffany, gia đình cô ấy đang đau khổ như thế nào: sự sợ hãi và bực tức, hy vọng tan biến từ từ và sự chấm dứt của tất cả mọi thứ. Không ai biết những điều Johnny biết.
Ngoại trừ cha mẹ cô ấy, cậu nghĩ như vậy.
Cha mẹ cô ấy biết.
***
Hunt ngồi trong xe và quan sát Kent Holloway ra khỏi căn nhà. Ông ta ném cái nhìn lạnh lùng về phía Hunt, nhưng Hunt vui vẻ đáp lại, rồi Kent Holloway ngồi yên vị trong xe. Động cơ khổng lồ nổ máy và chiếc Escalade lao vút trên đường phố. Hunt nghe tiếng mưa rơi trên thành ô tô và nhìn ánh sáng hắt ra từ phía nhà của Johnny. Chắc bà Katherine đang ngủ trong đó, và ông ta hình dung bà ấy vùi mình dưới lớp chăn, lưng cong dựa vào bóng đêm. Ông mở laptop và gõ tên Johnny Merrimon vào máy. Gã Ken làm nhiều đơn cớ, nhưng không có hồ sơ bất cứ vụ bắt bớ nào. Không có lệnh truy nã. Cho dù Ken Holloway tin rằng Johnny liên quan đến chuyện tư gia của ông ta bị liên tục đập phá, ông ta không có một chứng cớ nào.
Hunt nghĩ đến việc tại sao Johnny lại ném đá vào cửa sổ nhà Kent Holloway. Chỉ có một điều hợp lý. Johnny muốn gã đàn ông đó ra khỏi nhà của cậu ấy, rời xa khỏi mẹ cậu, và cậu khám phá ra một biện pháp hữu hiệu để làm điều này. Người như Holloway không thể nào để mặc nhà ông ta không ai chăm sóc. Không thể qua đêm. Năm lần bị đập phá mà không bắt được ai. Hunt lắc đầu và cười gượng. Ông thực sự có cảm tình với cậu bé ấy.
***
Thêm hai phút, Hunt ngồi trong xe lục lọi hồ sơ của Tiffany Shore. Tập hồ sơ mỏng dính. Ông biết rõ trang phục của cô bé vào lần sau cùng được nhìn thấy. Ông có danh sách những điểm nhận dạng. Một dấu bớt to bằng đồng tiền phía đằng sau bả vai; vết sẹo hình lưỡi câu vẫn còn đỏ hồng trên bắp chân trái. Cô bé mười hai tuổi, tóc vàng, chưa từng chỉnh hàm răng, không có dấu vết mổ xẻ. Ông nắm rõ chiều cao, cân nặng, ngày tháng năm sinh của cô. Cô có điện thoại di động nhưng trong điện thoại không lưu cuộc gọi đi nào từ hôm qua. Không có nhiều. Chỉ có vài em nhỏ làm nhân chứng nghe tiếng kêu la của cô bé nhưng không đồng ý chung về màu sắc chiếc xe bắt cóc cô bé. Hunt cũng đã thẩm vấn nhiều bạn thân của cô. Tất cả họ chỉ biết, Tiffany không có bạn trai bí mật, không hề có vấn đề gì với gia đình. Học bạ cô bé điểm khá, cô bé thích ngựa, và có thể từng hôn một cậu trai nào đó. Một cô gái tiêu biểu.
Ông ghi chú vào trong hồ sơ: Có phải Tiffany và Alyssa là bạn với nhau? Có thể cả hai cùng biết một gã thuộc thành phần bất hảo.
Ông nghĩ về những thứ mình không có. Ông không có chi tiết về kẻ xấu, không ai gọi điện thoại nói về những hành động đáng ngờ, và không ai biết hình dạng chiếc xe ô tô. Căn bản là không có gì hết. Điều ông có là cậu bé Johnny Merrimon và những gì gã David Wilson nói với cậu trước khi tắt thở. Gã xác nhận đã tìm được cô bé bị bắt cóc. Tìm cô ấy ở đâu? Tìm như thế nào? Còn sống hay đã chết? Người nào đã tông xe khiến David văng khỏi đường là có dụng ý. Nhưng có phải gã ta là gã khổng lồ như Cross đã nghi ngờ? Hay là ai khác? Hunt cần tìm cậu bé ngay.
Ông gọi đến sở làm việc, nói chuyện với một thám tử thuộc quyền. “Hunt đây. Ông có manh mối gì không?”
“Không có gì tốt cả. Cả Myers và Holiday đều vẫn đang làm việc với cha mẹ của Tiffany.”
“Họ có chịu đựng nổi không?” Hunt ngắt lời.
“Bác sĩ đang có mặt ở đó. Bà mẹ, ông biết đấy, họ phải chích thuốc giữ cho bà ta bình tâm.”
“Có tin gì liên quan đến điện thoại của Tiffany?”
“Không có gì. Tín hiệu GPS cũng không có.”
“Yoakum có đang theo dõi hành tung của David Wilson không?”
“Giờ ông ta đang ở nhà hắn.”
“Chúng ta có tin gì mới chưa?”
“Chỉ có thông tin Wilson là giáo sư đại học. Ngành Sinh vật gì đó.”
“Dấu vết lăn tay thì sao?” Hunt hỏi.
“Chúng tôi lấy được vân tay ngón cái từ mí mắt nạn nhân. Chúng tôi đang điều tra. Sẽ có tin tức trong thời gian ngắn.”
“Còn các tình nguyện viên thì sao?”
“Cho đến giờ này có hơn một trăm. Chúng ta đang tổ chức để bắt đầu thật sớm. Sẽ bắt tay điều tra ở ngoại thành khoảng lúc sáu giờ.” Một khoảng yên lặng giữa hai người đàn ông, cả hai đều có chung ý nghĩ: Nó là một miền quê đồng cỏ rộng lớn.
“Chúng ta cần thêm nhân lực,” Hunt nói. “Lôi kéo các nhà thờ tham gia, các câu lạc bộ cộng đồng. Chúng ta có hàng trăm sinh viên đại học giúp sức khi Alyssa mất tích. Gọi cả ông hiệu trưởng.”
Hunt cố lục tìm số điện thoại trong trí nhớ. “Ông ấy là người dễ cảm thông. Để xem ông ta có thể làm được điều gì. Tôi cũng muốn rà quét trường học của Tiffany một lần nữa vào ngày mai. Gửi đến đó những sĩ quan cảnh sát có dáng vẻ hiền lành nhất mà ông có thể chọn được. Những sĩ quan trẻ tuổi. Nữ sĩ quan. Ông biết điều gì phải làm mà. Tôi không muốn bỏ sót một điều gì chỉ vì một em học sinh nào quá sợ hãi không dám nói chuyện với chúng ta.”
“Rõ. Tôi có thể làm gì nữa?”
“Chờ một chút.” Hunt tìm hồ sơ của bà Katherine Merrimon trong laptop. “Viết những thông tin này ra giấy và gửi đến cho tất cả các đơn vị tuần tra.” Ông đưa thông tin, hãng sản xuất, biển số. “Anh nhóc này đang lái xe của mẹ cậu ta. Chiếc xe cũ rích. Tìm nó không khó khăn gì lắm. Tuần tra đường Tate trước, sau đó là nhà gã Ken Holloway.Tôi không nghĩ cậu ta có mặt ở đó, nhưng nên kiểm tra. Nếu bất cứ ai thấy chiếc xe này, tôi muốn biết ngay lập tức. Dừng xe và tạm giữ đương sự. Gọi ngay cho tôi khi chuyện đó xảy ra.”
“Tôi sẽ bắt tay ngay vào công việc.”
“Tốt. Cho tôi xin địa chỉ nhà ông David Wilson.” Hunt với tay lấy cây bút, nhưng thấy ở hiên đằng trước nhà Johnny có người. Một bàn tay xanh xao thò ra ngoài.
Cái gì đây hả trời?
Ông nghe một tiếng thét, âm thanh bị bóp nghẽn bởi mưa giông. Các ngón tay của ông mò mẫm tìm đèn chiếu, và tia sáng đèn quét xuyên màn mưa. “Thánh thần ơi.”
“Thám tử...”
Hunt đè mạnh điện thoại vào tai. “Tôi có việc phải đi,” ông nói.
“Nhưng...”
Hunt tắt điện thoại. Ông đưa tay ra kéo cánh cửa, và ông thốt lên một lần nữa, ngay cả lúc đó trời mưa đập vào mặt.
“Thánh thần ơi.”
Nhưng một tiếng thét nữa nhấn chìm đi tiếng nói.
Tôi tìm thấy cô gái, gã nói với cậu bé, và giờ gã bị thảm sát.
Nhưng gã tìm thấy cô bé ở đâu? Trong điều kiện như thế nào? Và quan trọng nhất, ai đã giết gã? Hunt tập trung vào chiếc xe hất văng gã ra khỏi đường, người đàn ông lái chiếc xe ấy. Nó là điều hợp lý, nhưng chỗ con sông uốn khúc đã tác động đến suy luận lô-gíc ấy. Hunt đưa ra giả thuyết có ba người đàn ông khác nhau đứng tại hoặc gần cây cầu khi án mạng xảy ra: Wilson, đã chết; tài xế xe giết gã; gã da đen ngẫu nhiên nào đó cách hai dặm theo hướng dòng sông. Bây giờ ông ta phải hỏi điều ấy. Có thể kẻ khổng lồ mà Johnny trông thấy chỉ là kẻ có mặt không đúng nơi và đúng lúc. Có thể hắn lái chiếc ô tô gây tai nạn giết David Wilson. Có thể không.
Hai người hoặc ba?
Tổ cha!
Hunt cần nói chuyện với Johnny, không phải sau này, mà là ngay giờ phút này. Ông có những câu hỏi mới. Ông gọi điện đàm cho trung tâm yêu cầu được tiếp xúc với đơn vị tuần tra mà ông đã chỉ định họ chở Johnny và Katherine về nhà. Ông nhìn đồng hồ và chửi thề trong khi đường dây đang được nối tiếp. Gần mười tiếng đồng hồ, đó là thời gian Tiffany bị bắt cóc, và thống kê thì lạnh lùng và chính xác như chỉ những con số mới đạt được điều đó. Chỉ một vài người bị bắt cóc còn sống qua ngày đầu tiên; chuyện đời nó là như vậy.
Nhanh chóng.
Mọi chuyện cuối cùng tập trung ở sự nhanh chóng.
Tôi đã tìm thấy cô bé.
Hunt cần hỏi Johnny về người đàn ông với khuôn mặt đáng sợ, về những gì cậu ấy thấy trên cầu. Hunt cần biết hai kẻ ấy có phải là một hay không. Không phải suy đoán hay giả thuyết, mà là sự thật thực tế.
“Kết nối bây giờ,” trung tâm nói với ông.
Giọng nói thứ hai lè nhè trên làn sóng điện đàm. Hunt tự nhận diện mình và chất vấn viên cảnh sát về Johnny.
“Tôi vừa rời nhà cậu ấy. Lúc tôi đi, cậu ấy đứng ở đường dẫn vào nhà.”
“Chính xác là bao lâu rồi?”
Ngưng giây lát. “Hai mươi phút.”
“Hai mươi phút. Nghe rõ.” Hunt gác máy. Thêm năm phút nữa ông sẽ có mặt ở căn nhà. Nhanh lên, nhanh lên. Ông tăng tốc cho đến khi chiếc xe có dấu hiệu bốc lên khỏi mặt đất, quẹo với vận tốc nguy hiểm trên đường ướt trơn trượt.
Hơn ba giờ đồng hồ từ khi chiếc xe gắn máy bị đụng. Kẻ đâm David Wilson có thể đang lẩn trốn ở bất cứ nơi nào trong lúc này, hắn có thể ra khỏi quốc gia, khỏi tiểu bang, nhưng Hunt không tin như vậy. Thực sự mạo hiểm khi vượt thoát đi xa cùng với đứa trẻ bắt cóc. Khi lệnh báo động đã được khởi phát, công chúng ngoài kia sẽ để ý. Phần lớn những thành phần đồi bại chỉ muốn bắt cóc đứa trẻ và trốn tránh dưới lòng đất. Johnny Merrimon đúng ở điểm này. Và nhiều vụ bắt cóc được dàn dựng cẩn thận, phần lớn chỉ là cơ hội. Một đứa trẻ để trong xe ô tô hoặc không người trông nom trong một cửa hiệu đông đúc. Một đứa trẻ đi bộ một mình.
Như trường hợp Alyssa Merrimon.
Cô bé đang đi bộ về nhà lúc trời tối, một mình trên quãng đường vắng. Không ai có thể biết cô bé có mặt nơi đấy. Không ai có thể toan tính cho chuyện đó. Tương tự như trường hợp Tiffany Shore. Cô bé nấn ná gần bãi đậu xe sau khi chuông reo. Nó chỉ là vấn đề cơ hội. Và dục vọng.
Hunt thắng xe chỗ đèn đỏ, sau đó rẽ trái, cảm giác thắng xe không bám đường. Ông điều chỉnh xe, giữ cho xe thẳng lại. Ông ta nghĩ về cái ác và khẩu súng trong bao súng dưới cánh tay của ông.
Khi nhận được tin tức về vụ bắt cóc Tiffany, Hunt đã ra lệnh với phản ứng dữ dội. Ông gửi xe tuần tra đến kiểm tra lại tất cả địa điểm cư trú của những người có tiền án liên quan đến tình dục. Phần lớn được xem xét với xác xuất thấp: kẻ xem ảnh khiêu dâm, kẻ phô diễn dâm tục; nhưng cũng nhiều cá nhân có tiền án về hiếp dâm hay bạc đãi trẻ em hoặc những hành động man rợ. Hunt giữ một danh sách ngắn những thành phần tối nguy hiểm: những kẻ loạn trí, ác dâm thuộc thành phần có thể làm bất cứ điều gì. Những loại đàn ông này không bao giờ tự khống chế được con quỷ dục vọng sai khiến họ. Không có cách chữa trị, không sửa đổi. Và với những thành phần đốn mạt này, nó chỉ là vấn đề thời gian, cho nên ông cần đi trước họ một bước. Ông biết họ cư trú ở đâu, sử dụng ô tô loại gì; ông biết thói quen của họ và những ham chuộng. Ông chứng kiến nhiều hình ảnh, nói chuyện với nạn nhân và chính mình nhìn những vết thẹo. Những kẻ đốn mạt đó không có lý do gì được ra khỏi nhà tù.
Giờ thì không.
Không bao giờ.
Phần lớn được điểm danh; họ đã được xác định nơi cư trú và thẩm vấn. Phần lớn trong họ đều đồng ý gia cư được lục soát, và tất cả những cuộc lục soát như vậy không tìm ra manh mối gì. Những ai từ chối đều bị theo dõi liên tục và Hunt nhận báo cáo thường xuyên. Ông biết họ ăn gì và ăn khi nào; họ chỉ có một mình hoặc không, và nếu không, ai đang ở gần họ. Ông biết nơi cư trú, sinh hoạt của họ. Thức hay tỉnh. Ở yên một chỗ hay đang di chuyển. Hunt liên lạc với nhân viên thuộc quyền đang bám đường bám chợ và giữ họ ở mức cảnh giác cao độ trong khi họ tiếp tục rà soát danh sách.
Hunt nhẩm tính những tên tuổi trong đầu ông. Không ai trong danh sách ấy cao hai mét. Không ai có sẹo như cậu bé nhà Merrimon mô tả. Nếu Cross đúng, điều này có nghĩa là họ đang đương đầu với lính mới, ai đó lọt ra khỏi danh sách. Và nếu dự đoán của Cross sai... khả năng không bao giờ chấm dứt.
Hunt lấy từ trong túi áo khoác tấm ảnh của Tiffany Shore và liếc nhanh. Ông đã lấy tấm ảnh này từ người mẹ quẫn trí chỉ vài giờ trước đây. Nó là bức ảnh chụp ở trường học, trong đó Tiffany cười tươi và sinh động. Ông tìm kiếm những điểm giống Alyssa, nhưng chỉ một vài điểm giống nhau. Alyssa có mái tóc đen và dáng dấp mong manh; cô bé nhìn trẻ trung, nhỏ bé và ngây thơ, có cùng đôi mắt đen sậm như cậu anh trai. Tiffany có đôi môi dày, cái mũi hoàn hảo, và mái tóc thì như lụa vàng. Tấm ảnh một người con gái có cái cổ quý phái, bộ ngực mới nhú, và nụ cười hiểu biết gợi mở hình ảnh một người phụ nữ quyến rũ sau này. Hai cô gái thoáng nhìn thì không có vẻ có những điểm tương đồng, nhưng họ có. Cả hai đều ngây thơ, và cả hai đều là trách nhiệm của ông.
Của ông.
Không ai khác.
Suy nghĩ đó âm ỉ trong đầu thám tử Hunt khi điện thoại của ông reo vang. Ông liếc sơ qua màn ảnh hiển thị số của người gọi. Cảnh sát trưởng. Ông sếp. Ông để máy rung chuông bốn lần, sau đó, làm ngược với sự quyết định sáng suốt, ông nhấc máy trả lời.
“Ông đang ở đâu đó?” Cảnh sát trưởng không phí phạm một giây phút thời gian. Chỉ chưa đầy mười hai tháng từ khi Alyssa mất tích, giờ lại có thêm trường hợp một bé gái mất tích. Ông ta đang bị áp lực bởi chính ông, thám tử Hunt biết: Gia đình Tiffany, chính quyền thành phố, báo chí.
“Tôi đang trên đường đến nhà bà Katherine Merrimon. Tôi sẽ có mặt ở đó ít phút.”
“Ông là chỉ huy. Lẽ ra ông phải có mặt ở nhà David Wilson hay ở hiện trường vụ án. Tôi có cần thiết phải nhắc những cái đó cho ông không?”
“Không.”
Nhưng cảnh sát trưởng nói rõ. “Nếu chúng ta cho rằng Wilson tìm thấy Tiffany Shore - và nếu nó là chuyện chúng ta nghĩ - thì lẽ ra ông phải điều tra những hoạt động của người này. Gã ta đi những đâu. Gã ta nói chuyện với ai. Bất cứ chọn lựa nào của gã ngày hôm nay, bất cứ ngõ ngách nào có thể liên đới đến cô bé Tiffany Shore...”
“Tôi biết tất cả những điều đó,” Hunt đột ngột ngắt lời. “Tôi đã phái Yoakum đến nhà hắn ta. Chút xíu nữa đây tôi sẽ gặp ông ấy ở đó, nhưng chuyện này cần làm trước.”
“Tôi có thể biết tại sao ông đang đi đến nhà bà Katherine Merrimon không?” Hunt nghe rõ một giọng hoài nghi, một sự mất tin tưởng bất thình lình.
“Con trai bà ấy có thể có thông tin.”
Hunt tưởng tượng hình ảnh cảnh sát trưởng: sang trọng ngồi trong văn phòng, mồ hôi ướt đầm áo sơ mi. Giọng của ông ta là giọng của một chính trị gia.
“Tôi muốn biết ông có đang chú tâm vào vụ án này không, Hunt? Ông có đang chú tâm không?”
“Đó là một câu hỏi tào lao.” Hunt biết rất rõ nguồn căn dẫn đến sự hoài nghi của cảnh sát trưởng, nhưng ông không thể kìm hãm được sự bực tức trong lòng. Nếu ông dồn thời gian cho vụ án Merrimon. Rồi thì sao? Có thể ông cảm thông hơn là phần lớn cảnh sát ngoài kia. Nó là vụ án quan trọng; nhưng Cảnh sát trưởng thì không nhìn sự việc như vậy. Không. Ông ta nghe chuyện về Hunt đêm nào cũng thức đến khoảng ba giờ sáng; có mặt lúc hừng đông sáng chủ nhật xem duyệt những tang chứng mà ông đã xem cả trăm lần; làm phiền thẩm phán ký trát truy nã mà không bao giờ mang lại kết quả gì; làm thêm giờ, và sau đó làm không lương; tác động tới những cảnh sát khác, nhân lực mà lẽ ra cần dùng cho các vụ án khác. Ông ta nhìn Hunt hành xác chính mình. Ông ta nhìn thấy làn da xanh xao và cơ thể xuống cân, đôi mắt thiếu ngủ và những chồng hồ sơ dưới đất trong văn phòng Hunt. Và nhiều vấn đề khác.
Những tin đồn.
“Nó không chỉ là câu hỏi, Hunt. Nó là lời yêu cầu, một mệnh lệnh.”
Hunt nghiến chặt hàm răng, lời nói không làm sao thoát ra cửa miệng khi ông đang nuốt nỗi bực dọc. Ông điều hành khối trọng án. Thám tử chỉ huy. Nó là công việc của ông, nó là đời sống của ông. “Tôi đã nói, là tôi chú tâm đến nó.”
Hunt nghe tiếng thở trên đường dây, rồi giọng nói như bị bàn tay che miệng. Khi Cảnh sát trưởng lên tiếng, lời nói của ông ta vang lên rành mạch. “Tôi không chấp nhận cho việc cá nhân, Hunt. Vụ án này không dung chứa điều đó.”
Hunt nhìn trừng trừng về phía trước. “Nghe rõ. Không vì cá nhân.”
“Vụ án này liên quan đến Tiffany Shore. Gia đình cô bé. Không phải Alyssa Merrimon. Không phải cậu anh cô ấy. Và không phải mẹ cô ấy. Mọi chuyện rõ ràng chứ?
“Như pha lê.”
Ngừng một giây lát, sau đó là giọng nói hàm chứa một chút hối hận. “Làm việc vị cá nhân sẽ khiến ông bị sa thải, Clyde. Nó sẽ làm ông bị thổi bay ra khỏi nha cảnh sát của tôi. Đừng buộc tôi phải làm như vậy.”
“Tôi không cần một bài giáo huấn.” Ông bỏ dở phần còn lại không nói: Tôi không muốn nghe từ mồm một gã cớm béo phì, chính trị sa-lông.
“Ông đã đánh mất vợ ông. Đừng để mất luôn công việc của ông.”
Hunt nhìn vào trong gương và thấy sự thịnh nộ trong chính đôi mắt của mình. Ông hít một hơi thật dài vào tận đáy buồng phổi. “Hãy tránh xa đường tôi đi,” ông nói, và vẫn giữ ôn hoà như một người bình thường có thể. “Hãy để tôi chứng tỏ tôi có thể tin tưởng được.”
“Ông đang đốt cây nến tin tưởng trong suốt một năm trường, và nó cháy rất chậm chạp. Ngày mai, tôi muốn thấy bức ảnh bé gái Tiffany Shore ngồi trên lòng bà mẹ cô bé. Trang nhất. Đó là cách làm sao chúng ta giữ được công việc đang làm của chúng ta.” Một thoáng yên lặng, Hunt không tin tưởng lắm vào tiếng nói của mình và do đó giữ im lặng. “Hãy mang đến cho tôi một kết cục có hậu, Clyde. Mang đến cho tôi điều ấy, và tôi sẽ làm ngơ như ông vẫn là ông cớm một thời oanh liệt như một năm trước đây.”
Cảnh sát trưởng cúp máy.
Hunt đấm mạnh lên nóc mui xe, sau đó rẽ xe vào đường dẫn vào nhà Johnny. Ông để ý thấy chiếc ô tô thùng thường đậu ở sân đã biến đâu mất. Khi gõ cửa trước, một âm thanh khô khốc vang lên gây cảm giác ngôi nhà bị rỗng bên trong. Hunt nhìn thấu qua cửa sổ nhỏ thì thấy ông Ken Holloway xuất hiện từ hành lang tối đen. Ông ta đi đôi giầy bóng loáng, phía dưới quần tây hơi nhàu nát, và đang nhét áo vào trong quần. Ông ta cài chặt chiếc thắt lưng da cá sấu, sau đó dừng lại trước gương vuốt thẳng tóc và kiểm tra hàm răng. Trên tay phải cầm cây súng rulô.
“Cảnh sát, ông Holloway. Buông súng xuống và mở cửa.”
Ken Holloway co giật người, bất thình lình biết được người từ bên ngoài cửa sổ có thể nhìn thấy ông. Một nụ cười bất bình hiện lên trên khuôn mặt ông ta. “Ai là cảnh sát?”
“Thám tử Clyde Hunt. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”
Nụ cười biến mất. “Tôi xin phép được xem thẻ hành sự?”
Hunt ép tấm thẻ hành sự vào cửa kính, sau đó lùi ra xa khỏi cửa và hạ tay xuống chạm báng súng. Ông Holloway đóng góp tiền bạc cho nhiều chương trình từ thiện. Ông ta có tên trong nhiều hội đồng giám đốc và chơi đánh gôn với những nhân vật tai mắt.
Nhưng Hunt biết ông ta.
Một năm trông chừng Katherine và Johnny, Hunt đã có những lần gặp gỡ kỳ cục, như lần gặp ở cửa hiệu tạp hoá; những điều đã nói và không nói; một chân đi cà nhắc hay một vết thâm tím trên người cậu bé; đôi mắt tròn xoe của cậu khi cậu nghĩ cậu đang được dạy dỗ. Hunt cố cảnh báo, nhưng bà Katherine phần lớn đầu óc mơ màng ở tận đâu, ở nơi nào đó xa thăm thẳm, và Johnny thì sợ hãi. Hunt không có một cái gì chắc chắn. Nhưng ông linh cảm thấy điều tồi tệ.
Lùi thêm một bước nữa, khoảng cách giữa Hunt và cánh cửa đã là một mét. Xuyên qua lớp kính cửa sổ, thấy rõ vùng ngực tối đen của Holloway. Người ông ta nhìn đẫy đà, nước da nâu, bộ ngực to rộng ở trên cái bụng to béo. Mặt ông ta hiện lên đằng sau lớp kính. “Giờ này đã giữa đêm rồi Thám tử.”
“Mới chín giờ thôi thưa ông Holloway. Một đứa trẻ vừa bị bắt cóc. Làm ơn mở cửa.”
Tiếng khoá mở và cánh cửa hé mở. Nhiều nếp nhăn hiện trên khuôn mặt Ken Holloway. Cho dù ông ta có làm ra vẻ bảnh bao, Hunt vẫn nhìn thấy những vết bẩn ướt nhoẹt ngay chỗ chân tóc của ông ta. Hai tay ông ta trống trơn. “Sự mất tích của Tiffany Shore liên quan gì đến Johnny?”
“Ông có thể làm ơn bước ra khỏi cửa được không?” Hunt giữ giọng mình điềm đạm, và điều này không dễ dàng. Rất có thể ông sẽ bắn Kent Holloway đồng thời nhìn thẳng vào ông ta.
“Được.” Ken Holloway đẩy cánh cửa mở toang và xoay người, hai tay ông ta vỗ vào hai bên đùi.
Hunt bước vào trong nhà, cặp mắt quét trái phải cho đến khi ông tìm thấy được vũ khí, cây rulô A.38. Thép không rỉ. Nó được đặt trên đỉnh chiếc tivi, nòng súng hướng vào bức tường.
“Nó đã được đăng bạ,” Ken Holloway nói.
“Tôi biết. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”
“Nó có liên quan gì đến chuyện xảy ra hôm nay không?”
Hunt ngửi thấy mùi cồn. “Bộ ông thật sự quan tâm chuyện này sao?”
Ken Holloway cười gượng. “Xin chờ trong chốc lát.” Ông ta lên giọng gọi. “Johnny.” Không trả lời. Ông ta gọi lần nữa, sau đó lẩm bẩm chửi thề. Hành lang nuốt chửng ông ta và Hunt nghe tiếng cửa mở, sau đó đóng sầm. Khi trở lại, ông ta chỉ có một mình.
“Cậu bé không có ở đây.”
“Thế cậu ta đâu?”
“Tôi hoàn toàn không biết.”
Sự bực dọc dâng lên trong giọng nói Hunt. “Cậu ta mới mười ba tuổi. Ngoài kia trời tối và mưa tầm tã. Chiếc ô tô không có trong nhà và ông không biết cậu bé ở đâu? Theo chỗ tôi biết thì đó là sự xao lãng bỏ bê đấy.”
“Và theo sự hiểu biết luật pháp của tôi, thưa ông Thám tử, đó là vấn đề của mẹ thằng bé đó. Tôi chỉ là khách của gia đình.”
Họ chằm chằm nhìn nhau, và Hunt bước gần hơn. Kent Holloway là người hai mặt, khôn khéo và hoà hoãn, nhưng chỉ khi nó phục vụ những nhu cầu của ông ta. Có thể ngoài kia có nhiều cao ốc thuộc các viện đại học được đặt tên ông ta, nhưng Hunt không giấu được sự không ưa của mình. “Ông cần phải cẩn thận với tôi.”
“Đó có phải là lời hăm doạ không?”
Hunt không nói gì.
“Ông chắc không biết tôi là ai,” Holloway nói.
“Nếu có mệnh hệ nào xảy ra với cậu bé...”
Kent Holloway cười lạnh lùng. “Một lần nữa tên ông là gì? Tôi có một buổi họp với thị trưởng và ủy viên hội đồng thành phố sáng ngày mai. Tôi muốn biết rõ ràng tên của ông.”
Hunt đánh vần tên cho ông ta, rồi nói, “Về cậu bé ấy...”
“Nó là đứa ngổ ngáo. Ông muốn tôi làm gì trong việc này? Nó không phải con của tôi hoặc thuộc về trách nhiệm của tôi. Bây giờ ông có muốn tôi đi gọi mẹ của nó không? Tôi có thể đánh thức bà ấy. Bà ta sẽ không biết giờ này nó ở đâu, nhưng tôi sẽ lôi bà ấy ra đây nếu điều này làm ông vui lòng.”
Hunt từng ngưỡng mộ mẹ của Johnny ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ. Vóc dáng bé nhỏ nhưng tràn đầy sức sống, bà chứng tỏ nghị lực can đảm và niềm tin mãnh liệt trong những tình huống khó có thể chịu đựng nổi. Bà cương nghị đứng thẳng cho đến ngày bà quỵ ngã và chẳng còn hy vọng phục hồi. Có thể nó là sự đau buồn, có thể là sự ân hận, nhưng trông bà thật thảm thương và mất phương hướng, trôi dật dờ trong một tình huống kinh hãi rất ít người làm cha mẹ nào có thể hình dung ra. Chỉ nghĩ về bà ta và kẻ lợi dụng như Ken Holloway đã thậm tệ rồi. Trông thấy bà bị lôi ra khỏi giường bởi gã ta thì còn tồi tệ hơn, là một sự sỉ nhục.
“Tự tôi sẽ đi tìm cậu bé.” Hunt trở ra hướng cửa.
“Chúng ta chưa xong đâu, ông Thám tử.”
“Đúng.” Hunt nói. “Chưa xong đâu.”
Tay của ông vừa đặt trên cánh cửa thì điện thoại của Holloway reo vang. Ông đứng tần ngần khi Holloway trả lời: “Phải.” Ken Holloway quay lưng về phía Hunt. “Ông có chắc không? Tốt lắm. Phải, gọi cảnh sát. Tôi sẽ có mặt ở đó trong mười phút nữa.” Ông ta tắt điện thoại và nhìn Hunt.
“Công ty báo động nhà tôi có trộm,” ông ta nói. “Nếu ông vẫn muốn tìm Johnny, ông có thể bắt đầu tìm kiếm ở nhà tôi.”
“Tại sao ông lại nói như vậy?”
“Bởi vì cái anh nhóc ranh mãnh đó vừa ném cục gạch qua cửa sổ phía trước nhà tôi.”
“Điều gì làm ông nghĩ đó là Johnny?”
Ken Holloway lượm chìa khoá của ông ta. “Lúc nào cũng là thằng nhóc Johnny.”
“Luôn luôn?”
“Đây là lần thứ năm rồi đó.”
***
Johnny lái ô tô đi trên những con đường tối mù, trời mưa tạo ra những vệt kéo long lanh trên kính trước. Bố mẹ Tiffany Shore thuộc thành phần giàu có, họ cư ngụ cách nhà ông Ken ba dãy phố. Johnny đã từng một lần tham dự tiệc tùng ở đấy. Cậu lái xe chậm rãi khi gần đến nhà Tiffany, sau đó dừng hẳn. Cậu thấy xe tuần tra của cảnh sát và những cái bóng di chuyển đằng sau màn cửa sổ. Cậu quan sát căn nhà một lúc lâu, sau đó nhìn hàng xóm ở hai bên. Ánh sáng ấm áp tỏa ra từ những căn nhà đó, và trong bóng tối tù mù của con đường cái, Johnny cảm thấy cô đơn vô cùng vì chẳng ai biết đến cậu. Không một ai có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra đằng sau những bức tường nhà Tiffany, gia đình cô ấy đang đau khổ như thế nào: sự sợ hãi và bực tức, hy vọng tan biến từ từ và sự chấm dứt của tất cả mọi thứ. Không ai biết những điều Johnny biết.
Ngoại trừ cha mẹ cô ấy, cậu nghĩ như vậy.
Cha mẹ cô ấy biết.
***
Hunt ngồi trong xe và quan sát Kent Holloway ra khỏi căn nhà. Ông ta ném cái nhìn lạnh lùng về phía Hunt, nhưng Hunt vui vẻ đáp lại, rồi Kent Holloway ngồi yên vị trong xe. Động cơ khổng lồ nổ máy và chiếc Escalade lao vút trên đường phố. Hunt nghe tiếng mưa rơi trên thành ô tô và nhìn ánh sáng hắt ra từ phía nhà của Johnny. Chắc bà Katherine đang ngủ trong đó, và ông ta hình dung bà ấy vùi mình dưới lớp chăn, lưng cong dựa vào bóng đêm. Ông mở laptop và gõ tên Johnny Merrimon vào máy. Gã Ken làm nhiều đơn cớ, nhưng không có hồ sơ bất cứ vụ bắt bớ nào. Không có lệnh truy nã. Cho dù Ken Holloway tin rằng Johnny liên quan đến chuyện tư gia của ông ta bị liên tục đập phá, ông ta không có một chứng cớ nào.
Hunt nghĩ đến việc tại sao Johnny lại ném đá vào cửa sổ nhà Kent Holloway. Chỉ có một điều hợp lý. Johnny muốn gã đàn ông đó ra khỏi nhà của cậu ấy, rời xa khỏi mẹ cậu, và cậu khám phá ra một biện pháp hữu hiệu để làm điều này. Người như Holloway không thể nào để mặc nhà ông ta không ai chăm sóc. Không thể qua đêm. Năm lần bị đập phá mà không bắt được ai. Hunt lắc đầu và cười gượng. Ông thực sự có cảm tình với cậu bé ấy.
***
Thêm hai phút, Hunt ngồi trong xe lục lọi hồ sơ của Tiffany Shore. Tập hồ sơ mỏng dính. Ông biết rõ trang phục của cô bé vào lần sau cùng được nhìn thấy. Ông có danh sách những điểm nhận dạng. Một dấu bớt to bằng đồng tiền phía đằng sau bả vai; vết sẹo hình lưỡi câu vẫn còn đỏ hồng trên bắp chân trái. Cô bé mười hai tuổi, tóc vàng, chưa từng chỉnh hàm răng, không có dấu vết mổ xẻ. Ông nắm rõ chiều cao, cân nặng, ngày tháng năm sinh của cô. Cô có điện thoại di động nhưng trong điện thoại không lưu cuộc gọi đi nào từ hôm qua. Không có nhiều. Chỉ có vài em nhỏ làm nhân chứng nghe tiếng kêu la của cô bé nhưng không đồng ý chung về màu sắc chiếc xe bắt cóc cô bé. Hunt cũng đã thẩm vấn nhiều bạn thân của cô. Tất cả họ chỉ biết, Tiffany không có bạn trai bí mật, không hề có vấn đề gì với gia đình. Học bạ cô bé điểm khá, cô bé thích ngựa, và có thể từng hôn một cậu trai nào đó. Một cô gái tiêu biểu.
Ông ghi chú vào trong hồ sơ: Có phải Tiffany và Alyssa là bạn với nhau? Có thể cả hai cùng biết một gã thuộc thành phần bất hảo.
Ông nghĩ về những thứ mình không có. Ông không có chi tiết về kẻ xấu, không ai gọi điện thoại nói về những hành động đáng ngờ, và không ai biết hình dạng chiếc xe ô tô. Căn bản là không có gì hết. Điều ông có là cậu bé Johnny Merrimon và những gì gã David Wilson nói với cậu trước khi tắt thở. Gã xác nhận đã tìm được cô bé bị bắt cóc. Tìm cô ấy ở đâu? Tìm như thế nào? Còn sống hay đã chết? Người nào đã tông xe khiến David văng khỏi đường là có dụng ý. Nhưng có phải gã ta là gã khổng lồ như Cross đã nghi ngờ? Hay là ai khác? Hunt cần tìm cậu bé ngay.
Ông gọi đến sở làm việc, nói chuyện với một thám tử thuộc quyền. “Hunt đây. Ông có manh mối gì không?”
“Không có gì tốt cả. Cả Myers và Holiday đều vẫn đang làm việc với cha mẹ của Tiffany.”
“Họ có chịu đựng nổi không?” Hunt ngắt lời.
“Bác sĩ đang có mặt ở đó. Bà mẹ, ông biết đấy, họ phải chích thuốc giữ cho bà ta bình tâm.”
“Có tin gì liên quan đến điện thoại của Tiffany?”
“Không có gì. Tín hiệu GPS cũng không có.”
“Yoakum có đang theo dõi hành tung của David Wilson không?”
“Giờ ông ta đang ở nhà hắn.”
“Chúng ta có tin gì mới chưa?”
“Chỉ có thông tin Wilson là giáo sư đại học. Ngành Sinh vật gì đó.”
“Dấu vết lăn tay thì sao?” Hunt hỏi.
“Chúng tôi lấy được vân tay ngón cái từ mí mắt nạn nhân. Chúng tôi đang điều tra. Sẽ có tin tức trong thời gian ngắn.”
“Còn các tình nguyện viên thì sao?”
“Cho đến giờ này có hơn một trăm. Chúng ta đang tổ chức để bắt đầu thật sớm. Sẽ bắt tay điều tra ở ngoại thành khoảng lúc sáu giờ.” Một khoảng yên lặng giữa hai người đàn ông, cả hai đều có chung ý nghĩ: Nó là một miền quê đồng cỏ rộng lớn.
“Chúng ta cần thêm nhân lực,” Hunt nói. “Lôi kéo các nhà thờ tham gia, các câu lạc bộ cộng đồng. Chúng ta có hàng trăm sinh viên đại học giúp sức khi Alyssa mất tích. Gọi cả ông hiệu trưởng.”
Hunt cố lục tìm số điện thoại trong trí nhớ. “Ông ấy là người dễ cảm thông. Để xem ông ta có thể làm được điều gì. Tôi cũng muốn rà quét trường học của Tiffany một lần nữa vào ngày mai. Gửi đến đó những sĩ quan cảnh sát có dáng vẻ hiền lành nhất mà ông có thể chọn được. Những sĩ quan trẻ tuổi. Nữ sĩ quan. Ông biết điều gì phải làm mà. Tôi không muốn bỏ sót một điều gì chỉ vì một em học sinh nào quá sợ hãi không dám nói chuyện với chúng ta.”
“Rõ. Tôi có thể làm gì nữa?”
“Chờ một chút.” Hunt tìm hồ sơ của bà Katherine Merrimon trong laptop. “Viết những thông tin này ra giấy và gửi đến cho tất cả các đơn vị tuần tra.” Ông đưa thông tin, hãng sản xuất, biển số. “Anh nhóc này đang lái xe của mẹ cậu ta. Chiếc xe cũ rích. Tìm nó không khó khăn gì lắm. Tuần tra đường Tate trước, sau đó là nhà gã Ken Holloway.Tôi không nghĩ cậu ta có mặt ở đó, nhưng nên kiểm tra. Nếu bất cứ ai thấy chiếc xe này, tôi muốn biết ngay lập tức. Dừng xe và tạm giữ đương sự. Gọi ngay cho tôi khi chuyện đó xảy ra.”
“Tôi sẽ bắt tay ngay vào công việc.”
“Tốt. Cho tôi xin địa chỉ nhà ông David Wilson.” Hunt với tay lấy cây bút, nhưng thấy ở hiên đằng trước nhà Johnny có người. Một bàn tay xanh xao thò ra ngoài.
Cái gì đây hả trời?
Ông nghe một tiếng thét, âm thanh bị bóp nghẽn bởi mưa giông. Các ngón tay của ông mò mẫm tìm đèn chiếu, và tia sáng đèn quét xuyên màn mưa. “Thánh thần ơi.”
“Thám tử...”
Hunt đè mạnh điện thoại vào tai. “Tôi có việc phải đi,” ông nói.
“Nhưng...”
Hunt tắt điện thoại. Ông đưa tay ra kéo cánh cửa, và ông thốt lên một lần nữa, ngay cả lúc đó trời mưa đập vào mặt.
“Thánh thần ơi.”
Nhưng một tiếng thét nữa nhấn chìm đi tiếng nói.
Bình luận truyện