Mối Thù Tơ Lụa

Chương 7: Carsonne



Cửa hàng thời trang ở Paris là một sự cứu rỗi của tôi. Trong vòng một năm trời, tôi lao vào làm việc như điên. Tôi không muốn vấn vương gì về Drake. Ngoại bao giờ cũng là niềm an ủi lớn, bao giờ cũng nghĩ đến việc làm những điều tốt nhất cho tôi. Bà bá tước cương quyết không cho phép tôi thương xót bản thân. Dưới con mắt của bà, một cơ sở làm ăn ở thủ đô Paris còn giá trị hơn một ông chồng. Cha tôi cũng là một nguồn an ủi lớn. Ông hết lòng muốn bù đắp cho những năm tháng cha con không biết đến sự tồn tại của nhau. Cả Katie cũng là nơi bầu bạn vô giá. Nó thật phấn khởi, thật hào hứng với môi trường mới và khi nhìn thấy khuôn mặt xinh tươi của nó bừng sáng niềm vui và nghe những câu hỏi ngộ nghĩnh bất tận của nó, tôi cảm thấy dù tôi có mất mát bất cứ cái gì thì tôi cũng có một lý do hoàn toàn chính đáng để tiếp tục sống.

Mọi người đều nương nhẹ, chiều chuộn tôi trong thời gian ấy và ban ngày tôi có thể tạm nguôi ngoai dù rằng ban đêm tôi vẫn cảm thấy buồn và vẫn âu sầu day dứt mãi về những gì đã xảy ra. Tôi yêu Philip bằng một tình yêu trẻ trung đầy lãng mạn. Thời gian ngắn ngủi không cho phép chúng tôi phát hiện ra những điều bất như ý về nhau, một điều mà có thể một cuộc sống chung lâu dài sẽ làm lộ ra. Chúng tôi sống trong một niềm hoan lạc gần như tuyệt đích. Cuộc sống có thể như vậy mãi được chăng ? Có lẽ không. Nhưng tình yêu của chúng tôi bao giờ cũng đọng lại trong tâm trí hai người như nó là như vậy… và không thể nào khác đi được. Rồi cái chết cướp anh đi một cách bất ngờ, bi thảm…không một ai biết chính xác tại sao. Và giờ đây khi dường như cơ hội cho một mối quan hệ chín muồi với một người đàn ông tôi tôn thờ, kính trọng và yêu thương thì mọi việc lại xoay ra thế nào đó để tôi cũng mất anh nốt. Đôi khi tôi có ý nghĩ rằng định mệnh đã khép tôi vào một lời nguyền đáng sợ buộc tôi phải mất những người tôi yêu và mang họa đến cho họ. Philip chết vì một phát súng, Drake còn rơi vào một số phận tồi tệ hơn: sống với một người mà anh căm ghét.

Tôi phải quên, cố mà quên rằng giấc mơ của đời tôi đã tan vỡ và tôi phải làm lại từ đầu.

Về một phương diện nào đó tôi cũng còn may mắn bởi vì việc làm ăn buộc tôi phải dồn hết tâm trí cho nó và chính nó cũng quay lại giúp tôi. Ngoại cho rằng sẽ là một ý tốt nếu tôi sang Paris. Chúng tôi có một người quản lý tốt ở London và với sự trông coi của Cassie, chúng tôi có thể yên tâm. Có nghĩa là Ngoại, bà bà tước và mẹ con tôi có thể sang cơ sở mới ở Paris.

Thỉnh thoảng bà bá tước cũng đi qua đi lại giữa London và Paris để kiểm tra xem việc làm ăn ở đấy ra sao rồi quay về Paris.

Katie rất thích ngôi nhà mới. Tôi thuê hai gia sư một người Pháp, một người Anh bởi vì một khi nó sống ở Paris nó phải thành thạo tiếng Pháp, đồng thời tôi cũng không muốn nó xao nhãng tiếng Anh. Cô giáo người Anh sốt sắng, siêng năng có phần hơi nghiêm nghị, trái ngược với Mademoiselle Leclerc nhanh mồm nhanh miệng và rất tươi vui. Quê cô ở Lyon, nơi cô đoan chắc với tôi là người ta nói thứ tiếng Pháp chuẩn nhất.

Con gái tôi là một đứa trẻ khác thường. Nó thích làm bạn với Mademoiselle nhưng lại rất kính trong cô Price mặc dù cô này rất nghiêm khắc. Bản tính dễ thương của Katie giúp nó có thể điều chỉnh mình để phù hợp với hai thái cực; nó có thể trở nên nghiêm trang với cô Price và rất mực hồn nhiên vô tươi với Mademoiselle Leclerc. Tôi rất vui khi con tôi có thể sống hòa hợp với mọi người. Với cô giáo người Pháp nó thường cùng cô đi ra những chiếc đu quay ngoài vườn hoa, hoặc đi chơi trên xuồng chạy bằng hơi nước dọc theo sống Seine; ở những nơi này nó có thể mau chóng làm quen với những đứa trẻ khác và vui vẻ trò chuyện với chúng. Với cô Price, nó lặng lẽ cùng cô đi dạo dọc bờ sông, hoặc ngồi đọc sách và đi thăm những di tích lịch sử. Cô Price sẽ tìm ra những mối liên hệ lịch sử với những di tích đó. Katie hấp thụ tất cả những kiến thức đó rồi lại truyền lại cho tôi và tôi với tư cách là một người mẹ, rất hãnh diện về những điều con mình học được.

Vạn sự khởi đầu nan, nhưng với kinh nghiệm và tài khéo léo của mình bà bá tước đã giải quyết gọn gàng và nhanh nhẹn hơn là tôi có thể chờ đợi.

Tôi nhớ nhà. Trong kỳ bầu cử, diễn ra ngay sau đám cưới của Drake, ông Gladstone đã chiến thắng dù không phải là chiến thắng áp đảo như ông hy vọng. Mặc cho thái độ khinh bỉ công khai của Nữ hoàng dành cho mình, ông đến tận Osborn để hôn tay Bà. “Một lão già lừa đảo đã 82 tuổi”. Ba nói, “ lại cố gắng điều hành nước Anh với cái thể chế dân chủ đau khổ của ông ta. Thật lố bịch hết chỗ nói.”

“Đấy sẽ là một bước tiến cho một bữa tiệc rất xôm”, bà bá tước bàn luận.

Tôi tự hỏi không biết Drake đang làm gì. Không biết anh có cảm thấy khả năng ngoại giao của Julia đủ để đền bù cho một cuộc sống thiếu vắng tình yêu.

“Chẳng bao lâu họ sẽ ra rìa”, bà bá tước bình luận. “Nỗi ám ảnh của Gladstone về Ailen sẽ là sự sụp đổ của họ.”

Tôi cứ băn khoăn mãi về cái thai mà cuối cùng hóa ra là một cú lừa của Julia. Nếu nó ra đời thì cũng là một niềm an ủi cho Drake. Nhưng ít lâu sau tôi được biêt là không làm gì có chuyện đó – và cái lý do đích thực để Drake chịu cưới Julia cũng không hề tồn tại.

Tôi mong được nghe tin tức từ quê nhà. Tôi vẫn còn nghĩ về Drake nhiều lắm lắm. Có tin là luật điều hành Quốc hội do Gladstone đưa ra được Hạ nghị viện thông qua nhưng lại bị Thượng nghị viện bác.

Một năm nữa lại trôi qua mà tôi vẫn còn nghĩ về Drake nhiều lắm, ấy là chúng tôi rất bận, chỉ có một chút ít thời gian không cần dành cho salon.

Cha tôi thường lên Paris với chúng tôi. Ông giúp chúng tôi rất nhiều việc – không chỉ là vấn đề tài chính – bởi vì ông cũng sốt ruột như bất cứ ai trong chúng tôi muốn được thấy công việc thành công.

Katie là một niềm vui đối với ông – đặc biệt là khi nó có thể líu lo trò chuyện bằng tiếng Pháp. Ông thường giục tôi về thăm vườn nho của ông. Katie sẽ thích lắm, ông khẳng định và tôi biết là ông đúng.

Cha tôi cho mấy vườn nho nhưng vườn nho ưa thích nhất của ông là Villers-Carsonne giáp với Villers-Mure. Tôi có ý nghĩ rằng ông thích nó nhất là bởi vì nó ở gần ngôi nhà của cha mẹ và quang cảnh của nó gợi lại thời thơ ấu của ông. Giọng ông bao giờ cũng đượm vẻ trìu mến khi ông nói về nó. Nhưng lần đầu tiên ông không đưa con gái và cháu ngoại về đấy mà về một trang trại không xa Paris là bao.

Ông nghĩ Katie sẽ thích không khí một mùa hái nho. Thực vậy, con bé mê mẩn cả người và hoàn toàn sung sướng trong những tuần lễ chúng tôi ở đây. Nó cũng học cưỡi ngựa. Cha tôi cắt một tên giám mã ra dạy con bé đi ngựa. Vào những hôm nó không đi xem mọi người hái nho, nó sẽ cưỡi ngựa với người giám mã. Ký ức của tôi lại làm sống lại hình ảnh nó cưỡi con ngựa non quanh sân tập ngựa ở Swaddingham với Drake và tôi chợt buồn long tiếc nuối về những gì có thể xảy ra.

Khuôn mặt hạnh phúc của con bé là một niềm an ủi đối với tôi. Thật sung sướng khi thây nó có thể được cưỡi ngựa một mình. Cha tôi bảo nó sinh ra để làm một nữ kỵ sĩ và nó quen ngồi trên lưng ngựa cũng như quen đi trên mặt đất. Ông thường cùng cháu ngoại cưỡi ngựa dạo quanh vườn nho – ông trên con ngựa đen to lớn, cháu trên con ngựa non màu trắng trong khi ông nói cho cháu nghe về vườn nho và trả lời những câu hỏi bất tận của nó với một vẻ vui thích; để sau đó tối về nó lại đem những điều ấy thuật lại cho tôi nghe.

Đó là một trong những vườn nho có lối làm ăn cổ xưa, ở đây người ta hái nho, ủ nho theo lối cổ. Tôi nghĩ cha tôi muốn Katie chứng kiến điều đó và đó chính là lý do ông muốn mẹ con tôi về đây.

Ông nói chuyện với con bé như thể nó là một người trưởng thành – một điều làm cho nó vô cùng hãnh diện – giải thích cho nó hiểu ở hầu hết các vườn nho của ông người ta dùng máy để ép nho. Có hai trục gỗ xoay về hai hướng ngược nhau và trong cái máy này không một trái nho nào có thể trốn thoát. Nhưng một số người lại thích lối cũ đã được sử dụng hàng trăm năm nay.

Thật là một đêm đáng ghi nhớ! Nho đã hái được mười ngày rải đều trên sân để phơi năng, rồi cho vào trong những chiếc máng lơn. Dân làng vừa ca hát vừa giẫm đạp lên nho, nghiền nát chúng bằng đôi chân trần trong khi nước nho chảy vào những cái thùng lớn đặt phía dưới. Quang cảnh này thật mới lạ đối với Katie và có thể là đối với tất cả chúng tôi. Cha tôi tỏ vẻ xúc động khi ngắm nhìn cháu ngoại – mái tóc nó xổ tung, đôi mắt sáng long lanh đầy hứng thú.

“Bao giờ cháu cũng phải đến vào một mùa hái nho nhé”.

Katie miễn cưỡng quay lại Paris, nhưng chẳng bao lâu nó lại quên mất những nuối tiếc trẻ con của mình và quay lại hồn nhiên vui vẻ như xưa.

Tôi nhớ cái ngày khi một trong những vị khách cũ người Anh đến cửa hàng ở Paris. Đó là phu nhân Bonner, một bà chủ quảng giao, một người được thiên hạ đánh giá là rành chuyện riêng tư của người khác hơn bất cứ người đàn bà nào ở London. Bà ta rất thạo đưa chuyện và bao giờ cũng hối hả muốn gây ấn tượng bằng những tin giật gân.

Bà ta biết mối quan hệ của tôi với Julia và hỏi tôi có biết tin tức mới đây về cô ta không.

Tôi nói chúng tôi chả biết gì.

“Trời đất ạ! Thật là một vụ ầm ĩ. Tội nghiệp anh chàng Drake, anh ta đã phạm phải một sai lầm lớn. Tất nhiên đó là vì tiền bạc của cô ta. Anh ta cần tiền. Một người đàn ông đầy cao vọng mà. Cô cũng biết đấy, anh ta xuất thân từ một gia đình giàu có, nhưng anh ta thuộc loại người kiêu hãnh: Không, tôi sẽ tự tay gây dựng sự nghiệp bản thân. Cách thức của anh ta là kiếm tiền qua việc cưới một người vợ giàu có… Phải, anh ta đã làm như thế. Nhưng đó cũng là một gánh nặng mà người đàn ông đáng thương này phải mang. Cô ta nghiện rượu… cô cũng biết đấy…”

Tất cả những điều tôi có thể nói chỉ là “Ôi! Vậy ư?”

“Ồ phải, cô bạn thân mến ạ. Chắc chắn là cô đã biết rồi. Bao giờ nó cũng là vấn đề của cô ta và bây giờ nó trở nên nghiêm trọng hơn.”

“Còn đứa bé thì sao…” Tôi hỏi. “Có thể bị sẩy thai…”

“Một đứa trẻ à! Lạy Chúa lòng lành, không có đâu! Julia chưa hề có bầu. Đó chỉ là một trò lừa … Cô ta nghiện rượu…Cô ta bị đánh tơi bời khi nói chuyện với ngài Rosebery… Nếu Drake không có mặt ở đấy để đỡ cho cô ta thì ngã dập mặt. Cô không thể tưởng tượng được câu chuyện diễn ra như thế nào đâu. Drake đáng thương của chúng ta cảm thấy thật nhục nhã. Điều này sẽ bị trả giá, Drake có thể bị mất một vị trí của mình trong chính phủ…nếu như anh ta có một vị trí như thế. Anh ta đã nghĩ là tiền cô ta sẽ giúp dược nhiều việc…và như thế cô ta đúng là người vợ của một chính trị gia. Bọn họ ai cũng nghĩ là mình cưới được một Mary Anne Disraeli. Tội nghiệp, anh ta đã phạm một sai lầm lớn có thể trả giá bằng cả sự nghiệp của mình”.

“Nhưng anh ấy là một chính trị gia có khả năng”, tôi cự lại.

“Chỉ mới một nửa trận chiến thôi, cô bạn thân yêu ạ.”

Bà khách lắm điều chuyển sang nói về những chuyện kinh thiên động địa khác ở London nhưng tôi không còn tâm trí đâu mà nghe nữa. Trong đầu tôi chỉ có một vấn đề, Drake của tôi đang lún sâu vào một thảm họa. Drake đáng thương, anh cũng không hạnh phúc hơn tôi – trong thực tế anh còn không có lấy một niềm an ủi mà tôi đang có nữa.

Thỉnh thoảng Cassie cũng đến Paris còn bà bá tước thì thường xuyên về London. Cửa hàng ở Paris bắt đầu thu lợi nhuận, còn công việc làm ăn ở London thì ngày càng phát đạt. Chúng tôi đã trở thành một thương hiệu lớn trong thế giới thời trang. Ba năm trôi qua kể từ đám cưới của Julia và Drake, còn con gái tôi thì cũng đã 11 tuổi.

Một hôm cha tôi nó. “Cha sẽ dẫn con về Villers-Carsonne.”

Ong thường có vẻ bí ẩn khi đề cập đến nơi này, và tôi cảm thấy có một lý do nào đó khiến ông không hào hứng nói đến đề tài này.

Giờ đây dường như ông đã đi đến quyết định là đã đến lúc. Ong tìm một dịp chỉ có hai cha con để nói chuyện.

“Có thể con cũng tự hỏi, tại sao bố không đưa con về đấy ngay từ hồi con mới sang đây.”

Tôi gật đầu.

“Nơi này gần chỗ bố được sinh ra và lớn lên. Đó là vườn nho quý giá nhất của bố. Ở đây chúng ta có loại rượu nho ngon nhất. Bố thường xuyên đến đây, nhưng lại chưa bao giờ dẫn con đến, chắc con cũng có thắc mắc”.

“Không ạ, nhưng con cũng rất muốn biết.”

Cha tôi do dự một lát rồi nói. “Đó là bởi vì có rất nhiều cái cha phải nói với con. Ông nội con, Alphonse St.Allengère nổi tiếng khắp vùng này. Người ta nói cụ chính là Villers-Mure. Có thể con khó lòng hiểu nổi nhưng Villers-Mure giống một cộng đồng phong kiến. Ở Villers-Mure, cụ thân sinh của cha là vị chúa tể, một ông chủ lớn nhất. Cụ có quyền lực như một ông vua thời Trung cổ. Hầu hết mọi người trong vùng phụ thuộc vào công nghiệp dệt lụa; ông là chủ ngành công nghiệp này vì vậy mà là người nắm trong tay nguồn sống của họ.”

“Xem ra ông nội là một người rất đáng sợ.”

Cha tôi buồn bã gật đầu. “Ông cụ sẽ không chấp nhận con, Lenore ạ.”

“Con hiểu là ông nội không chấp nhận con như một đứa cháu nội. Nhưng sẽ không ngăn cản con đến vườn nho của bố chứ? Nó không thuộc về ông nội phải không ạ?”

“Nó là của bố. Cụ cho phép bố đến nhà chơi khi bố về đây. Bởi vì bố đã gây dựng nổi cơ đồ mà không dựa dẫm vào cụ cho nên cụ có phần nể nang bố. Cụ cho rằng bố không phải là đứa con có hiếu, nhưng thật buồn cười, vẫn cho phép bố đến thăm cụ.”

“Con nghĩ con có khuynh hướng không muốn đến thăm ông nội.”

“Không hẳn thế. Ông cụ cũng có những điểm tốt nhất định…Số người căm ghét thái độ của ông cũng nhiều như số người phục tùng ông.”

“Con đã chuẩn bị trước sự kiện con không được đón nhận.”

“Chị Ursule của bố sẽ vui mừng được gặp con.”

“Liệu cô ấy có được phép không?”

“Chị Ursule không sống trong gia đình ở Villers-Mre. Chị ấy sống ở Villers-Carsonne. Ursule đã bỏ nhà đi từ lâu. Chị ấy chống lại ông già.”

“Tha lỗi cho con, bố ạ, nhưng ông nội dường như là một người mà tốt nhất là ta không nên gặp.”

Cha tôi gật đầu. “Ursule bỏ nhà ra đi ít lâu sau ngày bố ra đi. Thời ấy Louis Sagon, chồng của Ursule bây giờ, đến nhà ta để vẽ chân dung ông cụ. Anh ấy cũng vẽ một bức chân dung cho Ursule và đem lòng yêu chị ấy – cả chị ấy cũng say mê anh họa sĩ. Nhưng ông cụ có một đám khác dành cho con gái. Ông ngăn cản cuộc hôn nhân. Họ cùng nhau chạy trốn và kết quả là chị ấy bị từ bỏ, không được công nhận là con trong gia đình nữa. Ursule đã cưới Louis Sagon và họ sinh sống ở Villers- Carsonne. Kể từ đó, ông cụ không bao giờ nhìn mặt con gái nữa. Chị của bố can đảm hơn em trai nhiều.”

“Cô con sống hạnh phúc chứ ạ?”

“Rất mãn nguyện. Họ có một con trai và một con gái. Ursule rất muốn gặp con. Chúng ta thường gặp nhau mỗi khi bố về đây.”

“Như vậy bố và cô Ursule là hai người phản bội lại gia đình.”

“Phải, là hai đứa con bất hiếu bất mục dưới con mắt của ông cụ. Tuy vậy anh của bố tên là René lại làm cụ hài lòng. Bác ấy làm được rất nhiều việc cho ngành dệt lạ của gia đình dù ông cụ vẫn là người cầm trịch mọi việc ở đây. René là một người con quý hóa. Anh ấy có hai con trai và hai con gái…sinh đôi. Một trong hai đứa tên là Heloise đã mất.”

“Lâu chưa ạ?”

“Khoảng 12 năm gì đó.”

“Chết vì bệnh à?”

“Chỉ mới 17 tuổi. Nó…tự trầm mình. Đó là một cú sốc lớn với tất cả chúng ta…nhất là với người chị sinh đôi tên là Adèle. Chúng bao giờ cũng quấn quýt với nhau.”

“Tại sao chị ấy lại làm thế ạ?”

“Vì tình. Đó là cả một chuyện bí ẩn.”

“Con thấy gia cảnh bên nội không lấy gì làm vui nhưng con cho rằng đó là do nó ở dưới sự trị vì của một người độc đoán như ông nội.”

Cha tôi đồng ý với một vẻ buồn rầu. “Bố muốn con biết rõ mọi chuyện.”

“Con không quan tâm đến ông nội. Nếu ông không muốn gặp con thì con cũng chẳng mong muốn gì được gặp ông.”

“Ursule lại rất muốn gặp con. Cô con bao giờ cũng hối thúc đưa con về đấy.”

“Vậy, con sẽ mong được gặp cô. Chẳng gì cô ấy cũng là cô ruột.”

“Con sẽ quý cô ấy và chú Louis Sagon. Đó là một người chỉ đắm mình trong công việc và có vẻ ít quan tâm đến bất cứ một cái gì khác. Nhưng con sẽ quý mến chú ấy. Một người tốt bụng, ít nói, và hiền khô.”

“Con sẽ hài lòng khi gặp họ - và quên tất cả những chuyện dễ sợ về ông nội.”

Mặc dù cha tôi đã chuẩn bị cho tôi bằng một cách mà tôi có thể chờ đợi, dường như ông vẫn có những dự cảm lo âu về chuyến thăm quê của hai mẹ con tôi. Tôi tạm biệt Ngoại và bà bá tước rồi cùng Katie theo cha tôi trở về quê hương.

Chúng tôi đi bằng tàu hỏa, đó là cả một chẳng đường dài. Con bé Katie ở trong một tâm trạng phấn khích cao độ trong suốt chuyến đi. Nó cứ ngồi bên cửa sổ, cha tôi ngồi bên cạnh, chỉ trỏ giới thiệu cho nó những vùng đất lướt qua. Tàu đưa chúng tôi đi qua những thị trấn, làng mạc, những con sông, những cánh đồng bát ngát, và những ngọn đồi xanh tươi. Thật vô cùng thú vị khi chúng tôi nhìn thấy những vườn nho và cha tôi lướt một cái nhìn hiểu biết qua chúng. Xa xa thấp thoáng vài tòa lâu đài cổ - bằng đá xám với những tháp canh vốn là đặc trung của đất nước này. Cha tôi càng lúc càng trở nên trầm tư buồn bã hơn khi tàu đi gần đến quê hương. Tôi đoán ông đang lo âu và ở một mức độ bất an nào đó. Tôi tự hỏi không biết ông có trăn trở băn khoăn về cha mình và phản ứng của ông cụ khi nghe tin về sự hiện diện của tôi không.

Có một cỗ xe đợi sẵn ở sân ga Carsonne để đón chúng tôi về nhà. Cha tôi bảo họ biết chắc giờ chúng tôi đến vì chỉ có một chuyến tàu tới đây mỗi ngày. Đó là một ga xép nhỏ.

“Chúng ta thật may mắn. Ngài bá tước ở Carsonne cứ khăng khăng làm đường tàu ở đây. Đó là một người rất có thế lực. Có một cái gì như là một cuộc đâu tranh, cha nghĩ như thế nhưng ông bá tước có cách nhìn của mình trong những vấn đề này.”

Khi chúng tôi đi vào sân ga cha tôi vẫy tay về phía một người mặc đồng phục màu xanh đậm.

“Chào cậu Alfredo!” Quay sang tôi, ông nói. “Cậu ta là người Ý. Có nhiều người Ý phục vụ ở đây. Chúng ta ở gần biên giới Pháp-Ý và về một phương diện nào đó người dân ở đây cũng mang những nét của người Ý.” Alfredo là người mang hành lý ra xe cho chúng tôi.

“Đây là con gái tôi, Madame Sallonger”, cha tôi nói, “và đây là cháu ngoại Mademoiselle Katie Sallonger.” Alfredo cúi chào chúng tôi thật thấp và mang hành lý chúng tôi ra xe ngựa.

Cha tôi rõ ràng là một nhân vật quan trọng trong vùng nếu chỉ căn cứ vào thái độ của người dân ở đây đối với ông. Người ta cất mũ và chào hỏi ông một cách vừa trịnh trọng vừa niểm nở.

Vườn nho trải dài ra hai bên đường xe chạy. Đang vụ hái nho, chúng tôi trông thấy hàng đoàn nhân công với một thế đứng được tính toán kỹ lưỡng để không làm dập nho với quá nhiều động tác.

Cha tôi hào hứng. “Chúng ta đến đây đúng vào lúc tốt nhất cho một vụ hái nho.” Nghe vậy, khuôn mặt Katie rạng rỡ hẳn lên.

Phía trước mặt sừng sững một tòa lâu đài cổ, tọa lạc trên cả một vùng đất rộng xung quanh có những hào nước vây bọc.

“Thật là một lâu đài tráng lệ!” Tôi thốt lên.

“Đó là lâu đài Carsonne.”

“Có phải đó là vị bá tước…người nhất định muốn xây đường tàu đến tận Carsonne này…Ông ta sống ở đó ạ?”

“Chính là người ấy.”

“Ông ta là cư dân ở đây?”

“Phải. Bố nghĩ là ông ta còn có nhà ở Paris và một vài nơi khác, nhưng đây là ngôi nhà từ nhiều đời của dòng họ này.”

“Chúng ta sẽ gặp họ chứ ạ?”

“Khó có khả năng đó. Hai dòng họ không lấy gì làm thân thiện với nhau.”

“Có một mối thù truyền kiếp nào phải không ạ?”

“Không hẳn như thế. Đất đai của dòng họ nhà ta giáp ranh với đất đai của họ. Hai bên ở trong trình trạng hòa hoãn có vũ trang…không hẳn là chiến tranh…nhưng cả hai đều sẵn sàng hành động…ít nhất thì cũng chống lại đối phương.”

“Nghe có vẻ như một cuộc chiến tranh.”

“Với những năm tháng trưởng thành ở Anh, con khó lòng hiểu nổi bản tính dữ dội của những người dân ở đây. Đó là dòng máu Latin và …mặc dù con cũng mang dòng máu ấy nhưng việc don được nuôi dạy ở Anh rõ ràng đã góp phần hạ nhiệt.”

Tôi bật cười. “Tất cả chuyện này có vẻ thú vị đây.”

“Chúng ta sẽ thấy ngôi nhà của bố. Ồ, nhìn kìa, nó đã ở ngay trước mặt rồi.” Katie nhảy tưng tưng vì vui thích. Cha tôi quàng một tay ôm nó vào lòng.

Nhà của cha tôi giống một tòa lâu đài thu nhỏ cùng với những chiếc tháp canh quen thuộc. Ngôi nhà làm bằng đá xám, những chiếc màn cửa màu xanh lá cây, một vài cửa sổ có ban công bằng sắt. Một ngôi nhà nom rõ thật duyên dáng.

Khi xe tiếng lại gần, chúng tôi thấy một người đàn ông và một người đàn bà đang đứng ngoài cửa dáng như đang đợi ai.

“Đấy là cô con, Ursule. Ôi chị Ursule thân yêu, thật cảm động khi chị đến đây đón chúng em. Cả anh nữa, Louis.”

Cha tôi quay ra tôi. “Đây là cô Ursule và chú Louis, chồng cô. Còn đây là Lenore và con gái Katie”.

“Chào mừng các cháu đến Carsonne”, cô Ursule nói. Cô có mái tóc đen nhánh và rất giống cha tôi. Có một cái gì đó thật đôn hậu tốt ra từ toàn bộ con người cô và tôi thích cô ngay lập tức. Chồng cô, như cha tôi nói, đúng là một người hiền khô. Ông bắt tay tôi và nói ông rất vui khi được gặp tôi.

“Cô chú đã phải thúc giục cha cháu mãi, ông ấy mới đưa cháu về đây đấy.” Cô Ursule nói. “Vào nhà đi. Cô chú sống ở cách đây nửa dặm. CÔ muốn đến tận đây để chào đón mẹ con cháu.:

Chúng tôi đi vào nhà, đến một gian phòng khách dài và rộng có ốp gỗ và một cái lò sưởi tròn phía ngoài có bọc đồng sáng loáng.

“Chị đã tự tay sắp xếp căn phòng dành cho Lenore”, cô Ursule nói. “Chị nghĩ như thế tốt hơn là phó mặc cho bọn đầy tớ. Katie có một phòng ngay bên cạnh phòng mẹ nó.”

“Cô thật chu đáo quá. Mẹ con cháu thích ở gần nhau.”

Katie chạy tung tăng vào nhà trong lúc Ursule dẫn chúng tôi về phòng. Căn phòng dành cho tối có trần thấp, rèm và khăn trải giường màu xanh lá cây nhạt, thảm trên sàn pha giữa màu xanh lá cây và màu xám. Đó là một phòng ngủ rất dễ chịu, duyên dáng và điều làm tôi hài lòng là nó có một cửa thông sang phòng Katie.

Ngoài phòng có một ban công. Tôi mở những ô cửa sổ kiểu Pháp nhìn ra ngoài. Từ đây tôi còn thể nhìn thấy xa xa là những chiếc tháp canh của lâu đài Carsonne và những mái nhà nhiều màu sắc ở thị trấn gần đấy. Và ở cự ly gần hơn là vườn nho xanh muôn thưở.

Tôi thấy lòng mình thơ thới một cách lạ lùng. Bên kia lâu đài là Villers-Mure – những vườn dâu và công nghiệp dệt lụa…nơi tôi lần đầu tiên nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Tôi cho là người ta ai cũng cảm động khi nhìn thấy mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình, nhất là khi người ấy vốn sống thiếu quê hương.

Nước nóng được mang đến, chúng tôi tắm rửa, thay quần áo. Katie luôn miệng trầm trồ về những điều mới mẻ mà nó vừa khám phá. Nó nói, “Thật sung sướng và thú vị khi lại có thể tìm thấy ông ngoại ở ngoài công viên phải không mẹ? Mẹ bao giờ cũng phất hiện được một cái gì đó về ông. Ông của những bạn khác thì chán lắm. Bao giờ người ông ấy cũng chỉ có thế mà thôi.”

“Một số người lại thích như thế đấy”, tôi nhận xét.

“Con thì không. Con thích cách của chúng ta hơn.”

Sau bữa ăn họp mặt ở ngoài sân chúng tôi được dẫn lại vào trong nhà để gặp những người phục vụ. Có rất nhiều người phục vụ. Ursule giải thích cặn kẽ mọi chuyện cho tôi biết.

“Chúng ra sẽ ra ăn ở ngoài sân cho đến khi trời trở lạnh. Ai cũng thích không khí trong lành ngoài trời. Thỉnh thoảng ở đây khá nóng nực. Người em cùng cha khác mẹ của cháu, tên là Georges…thường xuyên đến đây. Nhà của Georges ở cách đây vào khoảng 15km. Cô em Brigitte mới lấy chồng, hiện đang sống ở Lyons. Cô dám nói là một ngày kia cháu sẽ gặp hai em mình. Cô rất sung sướng khi thấy hai cha con cháu lại đoàn tụ với nhau. Cha cháu không bao giờ quên sự tồn tại của đứa con rơi và khi bà ngoại cháu đến đây tìm cha cho cháu, cậu ấy thật sự bị kích động…thật sung sướng. Vì thế mà thật tuyệt vời khi lại được gặp cháu ở đây.”

“Cha bao giờ cũng tốt với cháu.”

“Cậu ấy nghĩ không bao giờ đền bù đủ cho cháu.”

“Cha cháu còn làm nhiều hơn những gì cháu có thể nói.”

“Cháu có biết cưỡi ngựa không?”

Dạ có.”

“Thế thì tốt lắm. Đó là cách dễ nhất để đi đó đây thăm thú vùng này.”

“Cháu cũng muốn đến thăm Villers-Mure.”

Cô Ursule im lặng một chút. Rồi cô nói, “Hơn 20 năm qua, cô chưa hề về đó.”

“Vậy mà chỉ cách đây không xa.”

“Cháu đã biết chuyện rồi phải không? Cô đã cưỡng lời cha trong chuyện chồng con. Đó là việc làm không thể tha thứ.”

“Dường như bao giờ chuyện đó cũng…rất kinh khủng.”

“Nó là như thế đấy.”

“Cô có bao giờ cố gắng hàn gắn lại những mất mát không ạ?”

“Rõ ràng là cháu chưa hiểu rõ cha cô. Ông cụ là người rất tự hào về việc đã nói là làm. Ông đã nói là sẽ không gặp mặt cô nữa thì không có điều gì trên đời này khiến cụ làm khác đi.”

“Chắc ông cũng mất mát nhiều lắm. Chắc ông cũng chẳng phải là người hạnh phúc.”

Cô tôi lắc đầu. “Ông cụ có cái mà ông muốn. Ông là nhà thống trị ở Villers-Mure. Ông là vị vua trị vì trong vương quốc mình, tất cả phải vâng lời ông nếu không sẽ chịu hình phạt về tội bất tuân thượng lệnh. Cô tin là ông cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện. Tuy vậy, cô cũng không bao giờ hối hận về việc mình đã làm.”

“Vì thế cô sẽ không bao giờ trở về?”

“Không bao giờ.”

Sau khi cô Ursule dẫn tôi đi xem nhà, cha tôi dẫn chúng tôi đi thăm vườn nho một lúc. Bữa tối, chúng tôi lại ngồi ăn ở ngoài sân và nán lại trò chuyện một lúc lâu cho đến lúc trời tối hẳn. Hương đêm sực nức không gian và chúng tôi ngồi ngắm những vì sao lấp lánh trên nền trời, một con dơi chệnh choạng bay tới bay lui…sà thấp gần ngang đầu chúng tôi nhưng mọi người vẫn ngồi im lặng.

Tôi biết cha tôi rất hài lòng bởi vì cuối cùng tôi đã trở về nhà ông. Cô chú tôi còn ở lại thêm vài ngày nữa. Chúng tôi nói chuyện về thị trấn nhỏ Carsonne ở ngay biên giới với Ý và đây là nơi không khí, thời tiết, đất đai rất tốt cho trái nho. Chúng tôi trở nên buồn ngủ bởi loại rượu nho tốt nhất mà cha tôi cho mang lên từ hầm rượu trong dịp đặc biệt này và tôi nhận ra là Katie nó khó mà mở mắt nổi, thế là tôi đề nghị đưa nó về phòng ngủ.

Tôi đặt Katie vào giường và nói, “Mẹ để cửa thông mở, như vậy mẹ con ta sẽ gần nhau hơn.”

Tôi nghĩ nó rất vui sướng vì điều đó. Có thế là nó cảm thấy có cái gì thật xa lạ khi sống ở thôn quê nhất là vào lúc đêm hôm. Vào lúc tôi cúi xuống hôn nó để chúc ngủ ngon thì con bé đã ngủ mất rồi.

Tôi trở về phòng mình, thay đồ và trước khi lên giường đi ngủ tôi lại mở cửa bước ra ngoài ban công. Đêm đen như một tấm màn nhung và đầy bí ẩn – những ngôi sao sáng hơn bầu không khí trong lành và dường như bầu trời cũng trở nên gần gũi hơn ban ngày. Kia là lâu đài Carsonne ngạo nghễ, đồ sộ có một vẻ gì như thách thức ai. Tôi khó có thể không nhìn nó.

Cuối cùng tôi cũng lên giường nằm nhưng giấc ngủ trốn biệt. Tôi cứ nghĩ mãi về những sự kiện trong ngày đầu tiên và khi giấc ngủ kéo đến tôi lại bị chìm vào một giấc mơ đáng sợ trong đó ông nội độc ác của tôi được phóng to lên còn lâu đài Carsonne trở thành một nhà tù mà ông quyết định giam giữ tôi bởi vì tôi đã dám trở về lãnh địa của ông trái với ý muốn của ông.

Tôi tỉnh giấc rồi mà giấc mơ vẫn còn lởn vởn đâu đây. Nó làm tôi cảm thấy bất an và điều đầu tiên tôi làm khi tỉnh dậy là bước ra ngoài ban công nhìn thẳng vào lâu đài Carsonne.

*

* *

Ngày giờ trôi qua trong chớp mắt. Cô chú tôi từ giã ra về. Cô Ursule nhất định mời chúng tôi đến nhà. Tôi cam đoan với cô rằng tôi cũng thích như thế lắm bởi chúng tôi đã rất hiểu và thương yêu nhau.

Cha tôi có cả một bầy ngữa và cả hai mẹ con tôi đều thích rong ruổi trên lưng ngựa. Bây giờ thì Katie đã là một kỵ sĩ giỏi nhưng vào lúc này mối quan tâm chính của nó là vụ thu hoạch nho. Nó thích đi với cha tôi mà ông cũng thích có con bé bên cạnh, thế là tôi có dịp cưỡi ngựa dạo chơi một mình. Tôi biết Katie an toàn và sung sướng bên ông ngoại nó, thế là tôi có thể thả mình vào cái thú tự khám phá vùng quê này. Bốn ngày sau khi chúng tôi đến đây, tôi đã thông thuộc địa hình trong vùng. Cha tôi gợi ý là tôi nên cưỡi con ngựa cái màu hạt dẻ, nó nhỏ, thuần tính nhưng lại rất hăng. Chúng tôi rất hiểu ý nhau và cuối buổi chiều thứ năm ở đây, tôi cưỡi nó đi dạo.

Tôi bất giác đánh ngựa về hướng Villers-Mure. Có một nơi tôi có thể đứng nhìn xuống toàn bộ thung lũng, đó là vùng đồi cao nhất. Chẳng bao lâu nó đã trở thành một địa điểm yêu thích của tôi và tôi biết chẳng chóng thì chày tôi sẽ không cưỡng được ý muốn phóng ngựa xuống cái dốc kia và chạy vào làng.

Đứng từ chỗ này tôi có thể nhìn được những vườn dâu xanh tốt và nhà máy với những ô cửa kính sáng lấp lánh đằng xa. Tuy vậy trong nó không giống một nhà máy. Có một dòng suối chảy ngang qua và một cây cầu duyên dáng bắc ngang khúc sông chảy xiết làm cho phong cảnh rất nên thơ. Tôi có thể nhìn thấy những ngọn tháp vươn lên trên nhà ông nội và tự hỏi không biết giờ này ông đang làm gì, ông có biết là đứa cháu nội lưu lạc của ông đang ở rất gần ông không.

Một ngày kia tôi sẽ phóng ngựa xuống đấy. Tôi sẽ tìm đến ngôi nhà Ngoại tôi đã sống với mẹ tôi. Không biết có bao giờ mẹ tôi đi lên ngọn đồi này, chỗ nào hai người thường gặp nhau và nơi nào tôi được thành hình? Đây là nơi tôi cất tiếng chào đời mà tôi lại bị cấm cửa lối vào đời.

Tôi quay ngựa lại. Hôm ấy, mặt trời đổ nắng rực rỡ từ trên cao. Phía bên tay phải tôi là một cánh rừng râm mát, mời gọi và tôi có thể ngửi thấy mùi thơm của nhựa thông. Thế là tôi quay ngựa về phía cánh rừng. Cây cối càng lúc càng rậm rạp hơn. Khu rừng thật đẹp…mùi đất ẩm dưới những thân cây xòe tán rộng…không gian chợt mát lạnh và thoảng mùi hương của cánh rừng nguyên sinh. Tôi thả hồn mơ mộng và mặc cho ngựa chạy sâu vào rừng. Tôi tự hỏi không hiểu cánh rừng rộng bao nhiêu. Nhìn bên ngoài nó có vẻ nhỏ và tôi chắc nếu cứ tiếc về phía trước thì tôi sẽ vượt qua khỏi khu rừng.

Chợt có tiếng chó sủa rộn lên. Có ai đó cũng đang ở trong rừng hoặc có thể chỉ là một con chó. Tiếng chó sủa gần hơn, có vẻ dữ dội và hung hăng. Rồi bất thình lình hai con chó giống Alsati hiện ra giữa các lùm cây. Khi chúng nhìn thấy tôi chúng sủa nhặng lên một cách đắc thắng và phóng như mũi tên về phía tôi. Bất thình lình chúng đứng lại, nhìn chằm chằm vào tôi và tiếng sủa của chúng trở nên dữ tợn, ác độc. Tôi cảm thấy con ngựa màu hạt dẻ rùng mình. Nó ngoảnh đầu lại, có vẻ bất an.

“Đi đi”, tôi gào lên cố làm cho giọng mình có vẻ quyền uy nhưng dường như nó chỉ làm hai con chó hung hăng thêm bởi vì tiếng sủa của chúng nghe dễ sợ hơn như thể chúng sẵn sàng chồm lên người tôi.

Tôi nhẹ cả người khi thấy một người đàn ông phóng ngựa lại gần. Anh ta đến gần tôi và nhìn tôi một cách thiếu thiện cảm.

“Fidele, Napoleon! Lại đây!”

Lũ chó câm họng ngay lập tức và đi đến đứng bên cạnh chủ. Chỉ trong một vài giây tôi đã ghi nhận được rất nhiều điều về con người này. Người kỵ sĩ ngồi trên lưng con ngữa đen tuyền tuyệt đẹp kia một cách gắn bó như thể anh ta là một phần hữu cơ gắn chặt với nó. Người và ngựa làm tôi nghĩ đến một con quái vật nửa thú nửa người. Đôi mắt anh đen láy, bộ lông mi dày và đôi lông mày rất đậm đầy ấn tượng. Mái tóc dưới chiếc mũ đi ngựa cũng đen tuyền, khuôn mặt dài có nước da rất đẹp là một trong những lý do làm cho anh có một sức hút khó tả. Bởi nó tương phản với đôi mắt và mái tóc đen huyền. Mũi anh có một cái gì đó mà tôi cho là hơi ngạo mạn – dài, rất mực quý phái nhắc tôi nhớ đến những bức ảnh của Francois Premier mà tôi đã thấy. Khuôn miệng của anh là một bộ phận biểu cảm nhất trên khuôn mặt. Tôi có cảm tưởng nó vừa nghiệt ngã lại vừa hài hước. Người đàn ông đang đứng trước mặt tôi là một người có sức hút nhất mà tôi từng gặp, đó là lý do tại sao tôi có thể ghi nhận được ngần ấy ấn tượng trong vòng vài giây.

Tôi nhận ra ngay anh là một người đàn ông của quyền lực, đứng trên nhiều người và quen với sự phục tùng của những người xung quanh như hai con chó dữ tơn đang đứng dưới chân con ngựa của chủ. Anh dò xét tôi, đôi lông mày sắc nết hơi nhướn lên. Cái nhìn của anh như xuyên suốt qua tôi làm tôi cảm thấy gai người. Tôi bồn chồn, bứt rút dưới cái nhìn sắc như dao ấy và tôi không thể che giấu sự khó chịu của mình.

“Tôi cho rằng đây là những con chó của ông.”

“Phải đây là chó của tôi, cánh rừng này cũng là của tôi và cô là người xâm phạm bất hợp pháp.”

“Xin lỗi.”

“Chúng tôi kiện ra tòa những kẻ xâm phạm đấy.”

“Tôi không biết là tôi đã làm một việc như vậy.”

“Ở đây có biển báo.”

“Tôi e là tôi đã không nhìn thấy biển báo. Tôi là người lạ ở đây.”

“Đó không phải là lý do thưa cô.”

“Bà.” Tôi sửa lại.

Anh cúi đầu một cách mỉa mai. “Một ngàn lời xin lỗi thưa Madame. Tôi có thể biết quý danh không?”

“Tôi là bà Sallonger.”

“À họ St.Allengère. Như vậy bà có họ với những người sản xuất lụa.”

“Tôi không nói St. Allengère mà là Sallonger. Đó là họ của chồng tôi.”

“Và chồng bà…ông ấy hiện ở đây với bà?”

“Chồng tôi đang ở trên thiên đường.”

“Xin chia vui cùng ông nhà.”

“Cảm ơn ông. Tôi sẽ rời khỏi khu rừng của ông và xin tha lỗi cho những rắc rối mà tôi gây ra nếu ông và con chó của ông cho phép tôi rút lui.”

“Tôi sẽ tháp tùng bà.”

“Không cần đâu. Tôi chắc tôi sẽ tìm được đường về.”

“Người ta dễ bị lạc trong rừng lắm đấy.”

“Nó không có vẻ quá rộng đối với tôi.”

“Tuy vậy…nếu bà cho phép tôi.”

“Tất nhiên. Ông muốn biết chắc là tôi phải rời khỏi phần dất của ông ngay tức khắc. Tôi chỉ có thể nói là tôi xin lỗi về sự xâm nhập này. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa.”

Anh đi đến gần, tôi vỗ về con ngựa cái và thì thầm mấy câu an ủi nó. Con ngựa vẫn còn hoảng sợ trước lũ chó.

“Nó có vẻ là một con ngựa bất kham, thưa bà.”

“Nó không ưa con Fidele và Napoleon của ông.”

“Đó là những con chó đầy tinh thần trách nhiệm.”

“Trông chúng hung tợn quá.”

“Vâng, quả có thế, nhất là khi chúng đang làm nhiệm vụ.”

“Đó là việc đuổi những kẻ xâm phạm ra khỏi đất của ông?”

“Một trong những việc như thế. Xin bà đi lối này.”

Anh cưỡi ngựa bên cạnh tôi và chúng tôi đi xuyên qua rừng, hai con chó đã dịu đi, chúng chấp nhận tôi và con ngựa theo sự phê chuẩn của ông chủ.

“Xin cho tôi biết, Madame Sallonger, có phải bà đến du lịch ở đây?”

“Tôi đến nhà cha tôi, Henri St.Allengère.”

“Như vậy bà cũng là một người trong bọn họ.”

“Tôi cho là thế.”

“Tôi tin rằng tôi biết chắc bà là ai. Bà chính là cô bé được bà ngoại mang sang Anh nếu căn cứ vào giọng nói của và cái cung cách có vẻ ngoại quốc của bà.”

“Xin lỗi vì cái giọng người Anh của tôi.”

“Xin đừng. Nghe duyên dáng lắm. Bà nói ngôn ngữ của chúng tôi rất trôi chảy, những vẫn có một cái gì đó đã để lộ bà. Tôi thích thế lắm. Cả phong cách ngoại quốc của bà nữa…tôi cũng thích lắm lắm đấy. Sự khác biệt muôn năm.”

Tôi mỉm cười.

“Lúc này chắc bà đang tự hỏi gã đàn ông ngạo mạn đáng ghét kia là ai mà dám tháp tùng ta và đuổi ta ra khỏi cánh rừng của hắn. Có phải vậy không?”

“Vậy hắn là ai?”

“Không phải là một kẻ dễ chịu gì như bà có thể nghĩ thế.”

Anh nhìn tôi chờ đợi nhưng tôi không đáp. Điều đó làm anh thích chí và anh cười vang. Tôi quay sang nhìn người lạ. Lúc này anh trở thành một người khác. Đôi mắt đen ngời sáng…tiếng cười giòn tan sảng khoái. Cái miệng anh cũng thay đổi nó trở nên dịu dàng một cách bất ngờ.

“Và bà đã hoàn toàn đúng. Tôi tên là Gaston de la Tour.”

“Và ông sống ở đàng kia.”

“Phải, rất gần đây.”

“Ông cũng sở hữu cánh rừng mà ông rất tự hào và nóng lòng giữ nó cho riêng mình.”

“Đúng như thế. Tôi không hài lòng khi người khác cũng sử dụng cánh rừng này.”

“Cây cỏ ở đây mới đẹp làm sao. Thật đáng xấu hổ khi ông chỉ muốn giữ nó cho riêng mình.”

“Bởi vì nó đẹp nên tôi muốn nó là của riêng. Bà thấy đấy, tôi chỉ là một kẻ hoàn toàn bần tiện.”

“Người ta có thể làm gì phương hại đến rừng cây của ông?”

“Tôi cho là không nhiều. Để tôi nghĩ coi. Họ có thể chặt cây …đốt lửa. Nhưng lí do thực sự là tôi muốn cái gì của tôi thì chỉ của tôi mà thôi. Bà nghĩ điều này có thể hiểu nổi không?”

“Tôi nghĩ đó là một thói tật thông thường của con người.”

“Bà là một người đang nghiên cứu về tự nhiên?”

“Còn ông thì không à?”

“Tôi là một người tự chiêm nghiệm…thật sự là một tạo vật khó chơi.”

“Ông có một đức tính.”

“Làm ơn nói cho tôi nghe bà tìm thấy điểm tốt nào ở tôi?”

“Ông biết ông là ai..ngôn từ của ông…thật đặc biệt…Tự biết mình là một đức tính tuyệt vời và rất ít người trong chúng ta làm được điều đó.”

“Bà là một kẻ xâm phạm mới quyến rũ làm sao! Tôi lấy làm sung sướng là bà đã bất chợt có ý định vào trong rừng của tôi. Làm ơn cho tôi biết, Madame Sallonger, bà sẽ ở lại đây bao lâu?”

“Chúng tôi đến trong mùa thu hoạch nho.”

“Chúng tôi?”

“Con gái tôi và tôi.”

“Vậy bà có một cô con gái?”

“Phải. Cháu nó 11 tuổi.”

“Chúng ta có một số điểm chung. Tôi có một con trai. Nó 12 tuổi. Thế là cả hai chúng ta đều làm cha mẹ. Còn một điểm nữa. Bà là góa phụ. Tôi mồ côi vợ. Như vậy không thú vị sao?”

“Tôi không biết. Có rất nhiều đàn ông góa vợ, đàn bà góa chồng trên đời này. Tôi cho là họ cũng gặp nhau luôn đấy chứ?”

“Sao mà bà lạnh…tỉnh và …lý trí đến thế. Đó có phải là cái chất Ănglê trong bà?”

“Thực ra tôi sinh ra là người Pháp, mang đặc tính Ănglê như ông nói bởi được nuôi dạy và ăn học ở Anh.”

“Có lẽ điều thứ hai mà bà nói đến, quy định bản chất của một người nhiều hơn điều thứ nhất. Tôi sẽ cho bà biết một điều. Tôi biết một cách chính xác bà là ai. Lúc ấy tôi đã được 8 tuổi. Vì vật mà bây giờ bà biết tôi bao nhiêu tuổi. Ở một nơi như nơi này người nọ biết vanh vách chuyện của người kia. Ở một nơi như nơi này không ai giữ được bí mật chuyện của mìh. Phải có một vụ xì-căng-đan lớn. Henri St.Allengère và một thiếu nữ…một trong những người đẹp nhất vùng…và lão già quỷ ám kia đã hủy hoại cuộc sống của đôi bạn trẻ. Hủy hoại cuộc sống của người khác là thói quen của ông già Alphonse Sr.Allengère. Lão ta là một quái thú trong vùng…thật sự là một tên khổng lồ ăn thịt người.”

“Ông đã đúng trong suy nghĩ về ông nội tôi.”

“Xin chia buồn ở điểm này.”

“Tôi có thể thấy ông không thích ông tôi.”

“Thích lão già ư? Ai mà lại thích được một con rắn đuôi chuông nhỉ? Ông ta nổi tiếng khắp vùng này. Nếu bà đi nhà thờ, bà sẽ được thấy những ô cửa kính hoa văn, món quà của nhà từ thiện Alphonse St.Allengère. Bục làm lễ cũng là của ông ta. Mái nhà thờ thì ở trong tình trạng tuyệt hải. Nhờ ông ta chiến tranh nổ ra chỉ vì một cái chết của một con bọ cam còn nhà thờ và sự sống còn của nó thì trông chờ vào lão già. Đó là một người bạn tốt của Chúa trời và là kẻ thù tệ hại nhất của con người.”

“Có thể như thế được sao?”

“Đó là một cái gì mà, Madame Sallonger thân mến của tôi, với hiểu biết về bản chất con người hẳn bà biết rõ hơn tôi chứ.”

“Con đường dẫn ta khỏi cánh rừng cũng khá xa nhỉ?”

“Tôi hài lòng về điều đó. Nó tạo cho tôi có cơ hội được hầu chuyện với một quý bà thú vị như vậy.”

Đột nhiên tôi cảm thấy nghi ngờ. Rõ ràng quãng đường này dài hơn quãng đường tôi đã đi cho đến lúc gặp lũ chó. Anh bắt gặp cái nhìn của tôi, hiểu suy nghĩ của tôi và cười với tôi một nụ cười đáng yêu một cách bất ngờ.

“Chúng ta sắp ra đến đường cái chứ?”

“Rồi bà sẽ thấy.”

“Tôi còn chưa quen thung quen thổ. Tôi muốn tự mình tìm được đường về nhà.”

“Bà sẽ tuyệt đối an toàn khi ở bên cạnh tôi.”

“Tôi nghĩ tôi phải về nhà ngay. Mọi người sẽ không hiểu chuyện gì đã xảy ra với tôi.”

“Cứ để việc này cho tôi.”

“Dường như tôi không đi xa đến thế.”

“Rừng cây đẹp như tranh vẽ… Bà đã nói thế mà.”

“Vâng . Nhưng tôi không có ý định nấn ná lâu ở đây.”

“Tôi cho phép bà vào rừng của tôi bất cứ khi nào bà thích.”

“Cám ơn. Ông thật hào phóng.”

“Tôi cũng có những điểm tốt của mình chứ.”

“Tôi chắc là vậy.”

“Như vậy tôi đã chứng tỏ được bản thân sau một cuộc nói chuyện ngắn ngủi.”

“Tất nhiên rồi. Ông đã tỏ ra hào phóng nhất trần đời sau phản ứng đầu tiên khi nhìn thấy tôi. Bây giờ nếu ông chỉ đường ra khỏi khu rừng này ngay…tôi sẽ biết ơn ông lắm lắm.”

“Tôi ghi nhận lòng biết ơn của bà. Đi lối này.”

Cây cối thưa dần, chúng tôi ra ngoài bìa rừng và sừng sững trước mắt tôi là tòa lâu đài.

Tôi nín thở nói, “Thật là kỳ vĩ!”

“Lâu đài của bá tước vùng Carsonne đã hàng trăm năm nay.”

“Tôi biết. Tôi đã nghe nói về nó. Tôi thấy nó ngay từ lúc đặt chân đến đây và nó hết sức ấn tượng.”

“Đó là một trong những lâu đài cổ nhất và đẹp nhất của cả miền này.”

“Theo tôi biết, ông bá tước hiện nay thường ở đây.”

“Vâng. Dù vậy ông ta cũng thường ở Paris.”

“Tôi cũng biết thế. Vậy đây là những vườn nho của ông ta?”

“Phải. Thật nhỏ bé so với những vườn nho của ngài St.Allengère, nhưng nó là một phần đặc biệt của một tòa lâu đài.”

“Vâng, đúng thế. Tôi nghĩ tôi biết mình đang ở chỗ nào rồi. Cảm ơn ông vì đã cứu tôi thoát khỏi những con thú dữ của ông.”

“Bà muốn nói những tay vệ sĩ trung thành và tốt đẹp của tôi?”

Tôi gật đầu. “Và cảm ơn ông đã giúp tôi thoát khỏi khu rừng.”

“Bà quả là một phụ nữ duyên dáng rất mực. Tôi cũng có tham vọng được giống như thế. Tôi xin nhắc lại, xin bà vui lòng vào rừng dạo chơi bất cứ khi nào bà muốn.”

“Ông thật tử tế.”

“Có thể là vì tôi sẽ gặp bà ở đây.”

Tôi không đáp. Khi tôi nghĩ anh đưa tôi đi lòng vòng tôi có phần nào cảnh giác còn bây giờ lại thấy tiếc vì cuộc gặp gỡ đã kết thúc.

Chúng tôi dừng lại ở một triền dốc trong khi tôi xoay người nhìn quanh.

“Kia, vườn nho của cha bà ở đằng kia. Đi thẳng lên đồi chạy tắt qua cánh đồng kia, bà sẽ về đến nhà.”

“Tôi thấy rồi, cảm ơn ông. Chào tạm biệt ngày De la Tour.”

“Au revoir, Madame Sallonger.”

Tôi biết anh đứng lại nhìn theo lúc tôi phóng ngựa chạy đi. Chẳng vì lí do gì mà tôi thấy lòng phơi phới nhẹ nhàng. Vâng, đó là một cái gì thật thú vị. Anh đã gây một ấn tượng đậm nét. Tôi không nghĩ là tôi thích con người ấy. Tôi không ngưỡng mộ những người đàn ông hống hách. Philip đặc biệt dịu dàng, và Drake cũng thế. Người đàn ông này khác hẳn, suốt buổi nói chuyện tôi thấy anh ta muốn chọc quê tôi, có một cái gì đó đầy nhục cảm trong cái cách anh ta nhìn tôi – có một cái gì đó rất ngạo mạn trong giọng điệu của anh nữa. Tôi nghĩ anh ta nhận thấy một cái gì đó….rất nhục thể về tôi và trò đùa này dẫn đến một cái gì khác. Anh làm tôi cảm thấy khó chịu đồng thời lại hứng thú và rất kích thích.

Vừa về đến sân nhà, tôi đã thấy cha tôi từ buồng ngựa đi ra.

“Lenore, cha mừng là con đã quay về. Cha đã bắt đầu thấy lo lắng.”

“Có chuyện gì không ổn với Katie ư?”

“Không…không. Con bé vãn ổn thỏa. Cha nghe nói con cưỡi ngựa đi dạo và nghĩ đã đến giờ con quay về.”

“Con có một cuộc phiêu lưu. Cha biết khu rừng…”

“Biết.”

“Con đi vào đó, hai con chó dữ tợn hiện ra. Con nghĩ chúng chuẩn bị tấn công con ấy chứ. Con Marron hơi hoảng.” Tôi vỗ vào cổ ngựa khi nhắc đến tên nó và cảm thấy nó đáp lại cử chỉ của tôi.

“Chó à?”

“Vâng, trông kinh khủng lắm. Nhưng may thay chủ của chúng phóng tới, bắt chúng dừng lại và kết tội con là kẻ xâm phạm. Khu rừng có vẻ là sở hữu của anh ta. Chúng con nói chuyện một lúc, anh ta giới thiệu mình là Gaston de la Tour. Cha biết anh ta không?”

Cha tôi sững người nhìn tôi. “Gaston de la Tour… đó chính là bá tước vùng Carsonne. Khu rừng là của anh ta cũng như hầu hết đất đai ở vùng này.”

“Cha muốn nói người đàn ông ấy chính là bá tước? Anh ta không nói gì…chỉ tự xung Gaton de la Tour.”

“Cha rất tiếc là con đã gặp người ấy.”

“Đó là một cuộc nói chuyện rất thú vị.”

“Tất nhiên anh ta là như thế khi ở trong tâm trạng dễ chịu.”

“Sau khi anh ta quy tội xâm phạm cho con, anh ta trở nên rất thân thiện…”

Cha tôi lo lắng quan sát khuôn mặt đỏ bừng của tôi.

“Tốt nhất là con không nên gặp anh ta lần nữa. Như thế tốt hơn. Anh ta..không phải là người tốt…đối với phụ nữ đâu.”

“Con biết,” tôi bật cười, “con tin là như thế.”

Tôi để lại con Marron cho giám mã, theo chả vào trong nhà, vẫn mãi nghĩ về anh chàng bá tước tiếng tăm nọ.

*

* *

Đã đến lúc thu hoạch nho và quá trình này phải được tiến hành mà không có một sai sót nào. Nho hái xuống được rải đều trên sân để phơi nắng. Mỗi ngày người ta ngước lên nhìn trời với bao nhiêu thắc thỏm, âu lo, nhưng sáng nào mặt trời cũng lên cao rọi ánh nắng vàng như mật lên những trái nho chín mọng nằm trên sân. Tất cả đều tốt đẹp.

Katie càng ngày càng náo nức nóng ruột. Cha tôi đã chỉ cho nó xem những máy nghiền nho lớn mà ông vừa lắp đặt để ép nho. Con bé có phần nào thất vọng, nó trông chờ được thấy cảnh người ta nghiền nho bằng đôi chân trần. Tuy vậy, ông giải thích, ép bằng máy hiệu quả hơn.

Rồi chuyện trục trặc đầu tiên xảy ra. Những nhân công định kỳ hằng năm được thuê thêm cho vụ nho không đến. Cha tôi nổi giận khi biết lí do.

“Bọn họ đang ở đằng lâu đài. Vụ nho của ông bá tước thường chậm hơn của chúng ta khoảng một tuần, chúng ta có nhiều nắng hơn có nghĩa là chúng ta bắt đầu sớm hơn. Năm nay, anh ta quyết định làm cùng một thời điểm với nàh ta – vì thế mà lệnh cho những người vẫnl àm cho chúng ta mọi năm sang bên ấy làm.”

“Ý bố muốn nói là những người làm việc cho bố từ hồi nào đến giờ nay lại bỏ đi chỉ vì anh ta ra lệnh?”

“Đó là một bá tước mà. Anh ta chờ đợi một sự phục tùng tuyệt đối.”

“Nhưng còn lòng trung thành của những người kia đối với bố thì sao?”

“Bố không đổ lỗi cho họ. Họ nhận được lệnh và phải có bổn phận phải tuân lệnh.”

“Con người này quá đáng thật!”

“Anh ta muốn mọi người trong vùng nhận ra ai là chúa tể ở đây. Hầu hết đất đai ở đây thuộc về anh ta. Chỉ có vườn tược của cha và tất nhiên vùng Villers-Mure là ngoài vùng kiểm soát của anh ta. Nhưng anh ta thích nhắc nhở chúng ta nhớ đến quyền lực của mình.”

“Bố không thể giải thích với anh ta là bố cần những nhân công này sao?”

“Bố chẳng dám mơ đến chuyện cầu xin ân huệ của con người ấy. Chúng ta phải xoay sở lấy một mình thôi.”

“Có thể làm được chuyện đó ư?”

“Bố nghĩ chúng ta sẽ cố làm những gì cần phải làm.”

Cha tôi cố thu xếp số nhân công ông có, nhưng rồi lại xảy ra một sự cố đáng buồn. Ông dùng những cỗ xe ngựa để chở người làm từ nơi này đến nơi khác và một trong những chuyến xe ấy gặp tai nạn. Một con ngựa dở chứng lồng lên bứt khỏi càng xe, gẫy một chân và làm cỗ xe lộn mấy vòng.

Người ta buộc lòng phải bắn chết con ngựa; người xà ích gãy một chân, một người làm công gãy tay còn ba người khác thì bị trầy trụa và chảy máu nhiều. Cha tôi mất tinh thần. “Cứ nước này thì tôi mất toi vụ nho này rồi. Cứ như thể có một lời nguyền độc địa.”

Rồi có một việc bất ngờ xảy ra. Trong lúc cha tôi đang tuyệt vọng hoàn toàn và cố vớt vát mọi chuyện, một cỗ xe ngựa chạy tới trong có mười người đàn ông – một vài ngừi trong số đó trước vẫn làm cho chúng tôi nay chuyển sang làm cho bá tước.

Tôi nhìn thấy cỗ xe chạy đến vội vàng đi xuống sân xem chuyện gì xảy ra. Cha tôi cũng chạy theo.

Một người nhảy xuống xe nói. “Chúng tôi đến theo lệnh của bá tước. Ngài nghe nói ông gặp vận xui bèn phái chúng tôi đến đây làm việc cho ông.”

Cha tôi mở tròn mắt trước sự việc khó tin này. “Nhưng”, ông lắp bắp, “tôi không hiểu. Tại sao lúc đầu các anh lại bỏ tôi?”

“Theo lệnh của ngài bá tước mà. Chúng tôi không thể chống lại. Nhưng bây giờ ngài phái chúng tôi đến đây. Ngài nghe tin vụ tai nạn và muốn giúp ông. Khi xong việc ở đây, chúng tôi sẽ quay lại tòa lâu đài.”

Cảm xúc của cha tôi trở nên lẫn lộn. Tôi biết ông đang tự đấu tranh với mình. Ông muốn từ chối lời đề nghị của bá tước nhưng viễn cảnh những người này có thể làm cho ông nhiều việc, thế là lý trí thường tình đã thắng lòng kiêu hãnh nơi ông. Ở đây có cơ hội cứu một vụ nho và sẽ chỉ là ngu ngốc khi từ chối nó.

Ông lầm bầm, “Ngài bá tước thật quý hóa quá.”

“Chúng tôi sẽ vào việc nay, ông St.Allengère ạ.”

Và nói là làm, họ nhảy xuống xe. Họ không cần chỉ thị. Họ biết chính xác việc cần làm.

Tôi theo cha tôi vào trong nhà. Tôi đặt tay lên cánh tay ông. “Thế là tất cả mọi việc đều ổn phải không ạ?”

“Bố không thể hiểu động cơ của anh ta.”

“Anh ta cảm thấy tiếc cho bố… Chắc là có nghe thấy vụ tai nạn và biết tất cả những khó khăn này. Con dám nói là anh ta có sự cảm thông.”

“Con còn chưa biết con người này đấy thôi. Chúng ta là đối thủ của bên ấy. Bố chắc là anh ta sẽ múa tay trong bị khi bố bị mất toi vụ này.”

“Có lẽ bố đánh giá anh ta không đúng rồi.”

Cha tôi lắc đầu, “Anh ta có động cơ để làm thế, bố đoan chắc như vậy. Con người nay không làm gì mà không có mục đích hết.”

Katie đi tới từ lúc nào và đã lắng nghe hết với thói tò mò trẻ con của nó.

“Ông ấy là một tên khổng lồ đáng sợ hả ông ngoại?”

Cha tôi gật gù vẻ nghiêm trọng.

“Cháu muốn được gặp ông ta. Có phải ông ta ở trong tòa lâu đài kia không? Có phải ông ta to khủng khiếp không?”

“Bây giờ làm gì có người khổng lồ nữa, Katie”, tôi nhắc nó.

Katie bĩu môi thất vọng. “Ông ta có ăn thịt người khác không ạ?”

“Trong cách ăn nói hiếp đáp người khác”, cha tôi nói.

“Thôi quên anh ta đi”, tôi nói. “Chúng ta đã có đầy đủ người làm và có thể tiến lên phía trước.”

Cha tôi đồng ý nhưng ông không thích cái sự thật là sự cứu vãn lại đế

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện