Chuẩn Điểm Thư Kích
Chương 166: Lối đi
Theo như Giác nói thì kể từ ngày Khu số 14 được đặt tên là khu trừng phạt, các vật thí nghiệm mới đã liên tục được đưa vào đây. Song điều kỳ lạ chính là Tạ Chẩm Thư với Tô Hạc Đình đã quanh quẩn trong đây bao lâu mà chưa từng gặp một loại người nào khác.
Giác nói: “Sau khi hoa bạc của cậu biến mất thì đơn vị lưu trữ ý thức ở nơi đây cũng không còn nữa. Tôi thấy các đốm bạc bay tứ tán khắp nơi, chẳng biết ai vào với ai.”
Tô Hạc Đình đi đằng sau Giác: “Những bông hoa bạc hấp thụ ý thức của những con người có thân xác đã tử vong, muốn phân biệt họ đơn giản lắm, chỉ cần đối chiếu với thông tin cá nhân lưu trong kho hồ sơ là được. Cái khó chính là làm sao để đánh thức ý thức của họ, tôi vẫn chưa nghĩ ra cách giải quyết nên đành tạm thời để bọn họ làm những đốm bạc.”
Bởi vậy những hạt quả của Giác được tạo ra chính nhằm mục đích dẫn thông tin, tiếc là các đốm bạc không thể tự ăn uống nên hiệu quả quá yếu.
Đường hoang gập ghềnh, gặp liền mấy đụn cát Giác đều nhảy qua, nó nói: “Chính Hephaestus đã dập tắt hoa bạc, nó còn đổi mới hệ thống liên kết cho Phòng ươm giống với Nông trường, đâm ra tôi không tài nào xác định được vị trí của mọi người sau khi đã được tải lên.”
Huống hồ trong đây bóng tối luôn ngự trị, dù ai đó để lại dấu vết ở đâu đó thì bọn họ cũng khó mà phát hiện ra.
Giác lại ảo não nói khẽ: “Tôi lo lắm, mọi người chưa được huấn luyện liên kết, mà đâu phải ai cũng như cậu Yến… Tôi sợ bọn họ không cầm cự được bao lâu trong thí nghiệm này.”
Để thí nghiệm Khu số 14 được xuôi chèo mát mái, Artemis đã huấn luyện ý thức rất lâu dài và khốc liệt cho các vật thí nghiệm, phá hỏng tâm thần của rất nhiều người. Nay hệ thống Chủ thần muốn bắt chước Artemis mà lại không đủ kiên nhẫn như thế, cho nên chúng nó dùng đến những biện pháp còn thô bạo hơn.
Giác kể: “Sau khi vào đây, tôi không tài nào quên nổi dáng vẻ của bọn họ trong Phòng ươm giống, những sửa đổi ấy tàn nhẫn quá.”
Nghe nó nói vậy, Tạ Chẩm Thư khẽ liếc nó.
Giác rất giống con người.
Nó không chỉ biết sử dụng ngôn ngữ mà còn biểu đạt được ưu tư. Nhưng máy móc mà biểu lộ tình cảm là một việc kỳ lạ, tới cả Bác Sĩ cũng còn lưu lại vết tích của những cài đặt nhân tạo, trong khi Giác lại hoàn toàn không. Rốt cuộc nó dùng cái gì làm trung gian để quan sát thế giới?
Câu hỏi này quả phức tạp.
Tạ Chẩm Thư lười nghĩ sâu, nhưng Tô Hạc Đình bên cạnh anh lại đang đăm chiêu một vấn đề khác. Mèo giơ cây đèn lên, sợ mình giẫm hụt vào hố, đi được một đoạn cậu hỏi: “Tôi hơi tò mò, cái ‘sửa đổi’ mà cô bảo là cái gì vậy?”
Giác vừa nhắc tới sửa đổi là cây lá cành rung toán loạn, rõ ràng nó rất cáu. Nó khua cành cây: “Tức là cơ giới hóa tất cả tay chân của mọi người, làm bọn họ giống như người lai ấy.”
Tạ Chẩm Thư khẽ nhấc mí mắt, từ “người lai” khẽ chọc vào anh, anh nghĩ tới Khu sinh tồn. Những thay đổi cảm xúc của anh gần như vô hình, Giác không hề nhận ra mà vẫn tiếp tục: “Lại còn thay đổi nội tạng của họ, đục lỗ trong sọ họ, cấy mối nối vào trong…”
Nghe tới đó Tô Hạc Đình bảo: “Mối nối sao? Ồ, mối nối, bảo sao.”
Giác: “Cậu từng gặp loại mối nối này trong Báo Đen chưa?”
Tô Hạc Đình: “Chưa, mới nghe qua ở những chỗ khác thôi.”
Giác đã từng xem qua tài liệu về thí nghiệm của đám chủ thần nên biết đại khái: “Tuy liên kết xâm nhập ý thức thuận tiện nhưng rủi ro lại cực cao, không xử lý tốt thì rất dễ nhiễm trùng. Để giảm bớt tỉ lệ tử vong, hệ thống Chủ thần mới lựa chọn những người sống sót đã được phẫu thuật cải tạo để đưa vào phòng ươm giống, quản lý đồng loạt.”
Hai người góp chuyện trôi chảy mà không hề biết ý nghĩa của những lời này, càng không biết người lai đã xuất hiện được một thời gian trong Khu sinh tồn rồi.
Đương đi, Giác bỗng ngắt một chiếc lá từ tán cây xuống, bảo: “Tôi—”
Tô Hạc Đình cũng làm theo ngắt một chiếc lá: “Hóa ra lá này hái được.”
“Á á á,” Giác hốt hoảng chạy vòng vòng, “sao cậu lại làm thế, hái được thì cũng không được hái lung tung chứ, tôi trọc mất!”
Tô Hạc Đình bèn lập tức gắn chiếc lá lại, tiện thể trấn an: “Không trọc đâu, sao lại trọc được? Cô là một cây đại thụ cành lá sum sê cơ mà.”
Nào ngờ chiếc lá nọ tức thì tắt ngấm hóa thành tro, tan đi trên đầu ngón tay Tô Hạc Đình. Ngay tức khắc mặt Tô Hạc Đình là một vẻ “Thôi xong”, cậu trốn phắt ra sau lưng Tạ Chẩm Thư lúc Giác định tát mình.
Giác lùi lại mấy bước, run rẩy giơ cành cây lên gào: “Tô Hạc Đình!”
Thấy nó sắp phóng đại, Tô Hạc Đình cuống cuồng thò đầu ra: “Tôi không hái nữa, không hái nữa mà! Cô bình tĩnh lại đi, nếu mà mọc lại thì Hephaestus đến bây giờ đấy, nó mà đến…”
Giác uất phát khóc: “Cậu còn dám nói cơ à!!!”
Tô Hạc Đình: “Tôi không nói nữa.”
Giác: “Đây đều là tờ dẫn đường giống như cỏ đom đóm ấy, hái mất một chiếc là thiếu mất một chiếc…”
Tô Hạc Đình: “Cỏ đom đóm là gì vậy? Ồ, tôi hiểu rồi, là mấy hạt bên trong hoa.”
Giác chỉnh lại lời cậu: “Cái đó gọi là cỏ đom đóm, cảm hứng thiết kế từ một cuốn tiểu thuyết siêu nhiên trong thế giới cũ, truyện kể chỉ cần ăn bảy hạt cỏ đom đóm là đầu óc sẽ tinh thông, lại còn nhìn được trong bóng tối, thế nên tôi…”
Tô Hạc Đình thẳng tay đâm thủng sự kỳ ảo: “Hiểu rồi, thế nên chỉ cần ăn bảy hạt là sẽ chặn được thiết lập.”
Giác ngượng ngùng kêu lên: “Thông tin trong kho dữ liệu cực kỳ khổng lồ, nhiều gấp ba chục lần khu Quang Quỹ đấy! Tôi chỉ có thể dùng bảy hạt để trì hoãn thời gian thẩm vấn mà thôi!”
Tô Hạc Đình sợ nó lại phóng to nên hùa theo: “Rồi rồi rồi, làm được như thế đã là giỏi lắm rồi.”
Thấy Giác giận cứ vỗ lá cây phành phạch, cậu bèn đổi chủ đề: “Cô ngắt lá cây làm gì?”
Giác đáp: “Tôi hỏi đường!”
Nó đặt chiếc lá sang một bên, lá bay vòng giữa không trung rồi sà xuống đất, đầu hẹp chỉ về bên phải.
Tô Hạc Đình nhìn theo hướng lá cây đáp, đó là đường dẫn bọn họ tới đây. Cậu khẽ hít vào một hơi, ngỡ ngàng: “Khoan, mấy hôm nay cô đều dò đường kiểu này à?”
Giác nhặt chiếc lá lên, bảo: “Cái này gọi là xem bói, hồi ở khu Quang Quỹ tôi hay dùng lắm, siêu linh nghiệm.”
Tô Hạc Đình: “Không phải chứ, cô—”
Tạ Chẩm Thư giơ tay bịt miệng Tô Hạc Đình lại, Tô Hạc Đình chẳng hiểu mô tê gì, kêu ư ử mấy tiếng đều bị Chỉ huy chặn lại, chỉ thấy Tạ Chẩm Thư bình thản bảo: “Đi.”
Được ủng hộ, Giác lập tức ngẩng đầu cất bước quay về theo đường cũ. Tô Hạc Đình bị Tạ Chẩm Thư nửa cắp nách, ù ù cạc cạc bị xách đi một đoạn. Nhưng bọn họ đã kiểm tra con đường tới đây rồi, mãi không có mấy một hình thù.
Trời tối gió to, đất cát mềm xốp, đường càng lúc càng khó đi. Giác muốn dừng lại nghỉ, bảo: “Cây của tôi—”
Còn chưa hết câu, nó đã đổ sập vào đồng cát đằng trước nghe “ùm” tiếng, cát bụi bay mù lên.
Tô Hạc Đình bị sặc, vừa ho vừa kéo nó dậy nhưng lại nghe thấy giọng Giác nghèn nghẹt: “Thôi chết rồi, chân tôi bị kẹt.”
Nó gọi rễ cây là chân.
Tô Hạc Đình bới bới cát, định bảo “Tôi kéo cô lên cho” thì lại phát hiện cát này mềm một cách khác thường, tay rất dễ bị lún ngập xuống.
Đúng lúc ấy, Giác “Ồ” lên một tiếng, bảo: “Dưới đáy rỗng!”
Nó mò dễ cây xuống.
Tạ Chẩm Thư hỏi: “Có lỗi đi à?”
Giác tiếp tục mò xuống tiếp, vận hết sức toàn thân, lát sau nó nói: “Đúng rồ, nhưng sâu lắm, tôi còn không chạm được tới đáy… Á! Có sâu!”
Nó run run rẩy rẩy, thoắt cái đã biến thành một mầm non bé bằng lòng bàn tay, lăn lộn trên mặt đất: “Sâu sâu sâu!”
Hồi trước nó không sợ sâu, sâu cũng chỉ là một sinh vật mà thôi, nhưng giờ nó lại là một cái cây, đã vậy nó còn đọc rất nhiều tài liệu rồi nên lúc nào nó cũng nơm nớp sợ lũ hệ thống Chủ thần bệnh hoạn biến thành loài vi khuẩn nào đó đến cắn mình.
Tô Hạc Đình dọa nó: “Đừng ngọ nguậy, con này to quá.”
Giác rúc đầu vào cát khóc rấm rứt: “Tôi bị nó cắn mất rồi, thôi tạm biệt, tôi còn chưa tìm được Phác Lận.”
Tô Hạc Đình xấu tính: “Đúng rồi, cô còn chưa tìm được Phác Lận nữa. Ầy, thôi không sao đâu, tôi sẽ tìm anh ta hộ cô, tìm được rồi thì sao?”
Giác: “Đưa anh ấy đi thôi.”
Tô Hạc Đình: “Anh ta mà đi thì cô sẽ không còn được gặp lại anh ta nữa đâu.”
Giác: “Không sao, dù gì đến lúc ấy tôi cũng đã biến thành một đống rác dữ liệu rồi!”
Nó đang bi thiết thì rễ cây bỗng nhẹ tênh đi, không kiềm được nó ngoái lại nhìn, thứ đương treo vắt vẻo trên nó nào phải sâu độc gì, chẳng qua là một miếng băng nhem nhuốc.
Tạ Chẩm Thư bình tĩnh nói: “Là giả thôi.”
Tất cả tán lá của Giác nộ khí xung thiên: “Tô Hạc Đình!!!”
Tô Hạc Đình nhoẻn cười, cong ngón tay búng miếng băng xuống: “Nhìn nhầm rồi, hóa ra chỉ là đoạn băng quấn. Cơ mà cô vừa mởi mở mang đầu óc đấy, đừng lúc nào cũng nghĩ chuyện sống với chả chết, dù có sâu độc thật thì cũng phải vượt qua cửa ải này với tôi và Chỉ huy đã.”
Trước giờ cậu vốn là người tháu cáy, nói mười câu thì hết sáu câu giả, mặt mũi lại còn cực kỳ dụ hoặc, nói năng luôn thoáng vẻ lười nhác, song điều kỳ lạ chính là cậu lại có một vẻ cuốn hút có thể mê hoặc được cả con người lẫn hệ thống.
Tạ Chẩm Thư nhìn cậu chốc lát, Tô Hạc Đình bèn tiến tới gần Chỉ huy, chiếu cây đèn lên miếng băng, bảo: “Trên này có chữ.”
Giác bò dậy hỏi: “Chữ gì?”
Tô Hạc Đình lẩm nhẩm: “Cứ… Là cứu, cứu mạng…”
Miếng băng gạc đã rúm ró, hiển nhiên là đã bị vò qua vê lại nhiều lần. Vết bẩn loang lổ đan với hai chữ “cứu mạng” viết bằng máu, màu máu đã xỉn thành đen.
Tạ Chẩm Thư rủ mắt nhìn xuống cát: “Bên dưới này có người.”
Tô Hạc Đình: “Thảo nào cô muốn quay lại.”
Hai người ngồi xổm xuống đào bới một hồi ở chỗ Giác vừa mới thụt vào. Đụn cát thấp dần, một nắp giếng lộ ra bên dưới.
Tô Hạc Đình chống mình, một tay xách đèn ngắm nghía nắp giếng, bên trên có một con số mờ ảo bị cát mài mòn không còn nhìn rõ, chắc là số hiệu gì đó. Cậu thổi cát trên mặt nắp đi, ở đó có một lỗ thủng như một cái miệng nứt khoe ra hàm răng đen.
Tạ Chẩm Thư hơi dùng sức cậy nắp giếng ra men theo lỗ hổng. Nó không vững chắc như trong tưởng tượng, bên dưới là một lối đi thẳng đứng không biết sâu tới đâu.
Tô Hạc Đình: “Cái điểm đăng tải kiểu chó gì vậy, chả nhẽ mọi người bò ra ngoài qua đây à?”
Giác ló đầu ra, ánh sáng trắng rọi vào mặt tường lối đi. Tường bóng loáng, nhưng bên trên có những vết cào nông sâu đan xen như thực sự từng có người bò trong đây.
Tạ Chẩm Thư nhìn những vết xước nọ, bảo: “Đúng thế, đây là cho người bò.”
Giác khiếp đảm: “Sâu thế sao bò nổi?”
Tạ Chẩm Thư nhấc Giác với Tô Hạc Đình lên, điềm đạm đáp: “Bằng tay không.”
Tô Hạc Đình phát giác gì đó: “Tư thế này nguy hiểm quá, Chỉ huy, đừng ném bọn em vào chứ—Tạ Chẩm Thư!!!”
Giác gào: “Oái!!!”
Cả hai cùng chúi người dốc xuống, trong nháy mắt đã biến mất vào lối đi. Tạ Chẩm Thư thả lỏng cánh tay rồi cũng tự mình nhảy vào. Lối đi tối thui, chỉ nghe thấy tiếng gió ở ngoài cửa hãy đang tru tréo. Chẳng biết rơi bao lâu, đến khi tiếng gió đã hoàn toàn biến mất thì Tạ Chẩm Thư triệu ra những mảnh hình thoi đen.
Hông Tô Hạc Đình căng thít, cậu lơ lửng giữa không trung ho: “Khụ, em khụ…”
Tạ Chẩm Thư lặng lẽ bấu gáy cậu, cậu nín ngay. Chỉ mình Giác vẫn đang chao đảo bên dưới như như một cái bóng đèn, yếu ớt kêu: “… Choáng… choáng quá… A…”
Âm thanh vọng lại, bọn họ còn cách mặt đất không xa. Tạ Chẩm Thư bèn giảm tốc độ, biến những mảnh hình thoi thành một cái thang xoáy rồi vững vàng bước xuống. Tô Hạc Đình bị anh ôm trong tay, thở vào tai anh, chẳng biết đang nghĩ gì.
Rốt cuộc Giác cũng tới nơi, nó nhảy xuống nền theo từng nấc thang một: “Sâu thế này, bò tay không khó lắm.”
Tạ Chẩm Thư nói: “Người đã cải tạo có thể làm được.”
Anh chưa từng thực sự nghiêm túc quan sát một người lai, nhưng anh biết khả năng của phẫu thuật cải tạo. Một khi người ta có thể điều khiển được tay chân máy thì sức sẽ vượt xa người bình thường.
Tô Hạc Đình giơ cây đèn lên, ánh sáng tù mù chiếu lên mặt tường, ở đó vẫn còn vết cào, cậu bèn bảo: “Lạ ghê.”
Giác nói: “Siêu lạ ấy, nếu có người leo được đến lối ra thì tại sao không bò thẳng ra ngoài?”
Tô Hạc Đình tỉ mẩn ngắm mặt tường: “Mấy vết cào này không giống như vết cào do chỉ một người để lại.”
Thế thì lại càng lạ, nếu cả một nhóm người cùng lên mạng ở đây mà trong đám bọn họ còn có nhiều người đã làm phẫu thuật cải tạo, vậy thì đáng nhẽ bọn họ phải mau chóng thoát khỏi nơi đây chứ, sao lại còn để lại mẩu giấy “cứu mạng”?
Đúng lúc ấy, Tạ Chẩm Thư bỗng ngửi được mùi thối, Tô Hạc Đình cũng ngửi thấy, cậu chau mày: “Mùi này…”
Giác không có khứu giác, nó dùng cành cây quạt: “Tôi cần cậu miêu tả bằng mấy từ để tôi còn tưởng tượng ra được.”
Tô Hạc Đình: “Là mùi trứng thối ấy.”
Giác bèn tập trung tìm kiếm “mùi trứng thối”, hình ảnh hiện ra khiến nó càng tò mò. Ngoại trừ sâu ra, những thứ khác thì nó lại không bài xích mãnh liệt tới vậy, dù là nấm mốc nó cũng thấy kỳ diệu.
Bọn họ càng xuống mùi thối càng nồng. Tô Hạc Đình váng cả đầu, rốt cuộc vẫn vả mãi mới đến được một đại sảnh rộng rãi.
Tô Hạc Đình: “Ê.”
Tiếng “Ê” này như một viên đá vọng về trong bóng tối vô cùng tận.
Dưới mặt đất có nước, Giác nhảy xuống, nước không dâng quá rễ cây của nó, ngay tức khắc nhiễm màu khác. Rễ cây được dữ liệu màu xanh lam tẩm bổ, chỉ có khi đụng phải dữ liệu màu xanh lá cây của chủ thần thì hai màu mới thi nhau chiếm địa bàn như một bãi chiến trường nhỏ. Nó nhấc rễ cây lên: “Nhìn này, chúng dang đánh nhau này, đây đúng là địa điểm để mọi người đăng nhập vào thật.”
Không gian này còn lớn hơn bọn họ tưởng tượng, ánh sáng từ Giác với ngọn đèn nhỏ cũng tối hẳn đi, hai đốm sáng không thể nào soi rọi được tứ bề, trong khi đó mùi thối lại xộc thẳng lên mũi, còn lẫn cả mùi tanh.
Giác khép cành cây lại, khẽ khàng: “Có ai không? Xin làm phiền.”
Trong bóng tối, một tiếng “Ực” rất khẽ vọng tới, nếu không phải tai Tạ Chẩm Thư siêu thính thì có lẽ đã chẳng ai để ý. Chỉ nghe thấy tiếng nuốt vọng dần tới như thể không phải từ cùng một người. Ngay sau đó, một tiếng đáp yếu ớt vọng tới: “… Có.”
Giác phấn chí: “Ha! Xin chào, tôi đang ở đây, anh đang ở đâu vậy?”
Đối phương dừng lại một hồi mới đáp: “Ở…”
Giác đi về phía trước, bỗng mấy giọt nước rơi xuống tán lá nó. Nó bèn ngửa tàng cây lên nhìn, bên trên tối thui như mực. Chẳng biết vấn đề ở đâu mà càng lúc càng nhiều nước, cuối cùng chúng đổ xuống “rào rào”.
Tô Hạc Đình bỗng bật lửa quát lên: “Giác!”
Cây đèn chợt cháy bùng lên, ngọn lửa màu xanh lam tựa một con mãnh hổ chồm dậy chiếu sáng khắp trần, mới thấy trên nóc nhung nhúc những con sâu khổng lồ.
Giác kêu lên: “Má ơi!”
Thứ rỏ xuống chẳng phải nước, mà là bã từ cơ thể con người bị nhai nát xen lẫn mới máu thành một đống thịt bầy nhầy đặc quánh. Dưới chân cũng chẳng phải nước, mà là một chất lỏng đục ngầu không rõ nguồn gốc, trong đó lềnh phềnh vài hộp cơm nhựa.
Giác giật rễ cây gào toáng lên: “Á!”
Những mảnh hình thoi trào lên, vừa kịp che lên đỉnh đầu đã nghe thấy “ruỳnh” một tiếng, một con sâu đập xuống. Tạ Chẩm Thư hơi nghiêng đầu khó chịu.
Tô Hạc Đình vung cây đèn lên, dùng bật lửa diệt sâu, thổi thổi vào mảnh hình thoi đen: “Em thổi sạch rồi, không bẩn nữa. Giác, qua chỗ tôi!”
Cậu thông thạo điểm yếu của những sinh vật do chủ thần tạo ra, chúng sợ ánh sáng. Cậu bèn đốt cho cây đèn sáng bừng tận nửa người dọa lũ sâu giật lùi lại. Giác xám xịt đi vì choáng, lút cút chạy theo họ. Khắp trên tường chi chít những con sâu, chúng mang mặt người với thân hình thô kệch, dùng miệng mút để di chuyển.
“Có,” chúng xì xào như bàn tán, “có thịt.”
Giác sợ mất mật: “Bọn chúng ăn thịt hết người rồi!”
Tô Hạc Đình lại bảo: “Chưa chắc.”
Ngọn lửa của cậu bỗng chợt nhỏ đi, có dấu hiệu sắp tắt. Tô Hạc Đình khẽ hít vào, dùng hai ngón tay nắm bấc đèn bảo: “Vượt chúng nó cho tao.”
Ánh lửa xanh lam tức thì lại bừng bừng sống dậy tỏa ánh sáng rực rỡ. Nhưng lũ sâu đông tới lạnh người, đèn soi tới đâu là bọn chúng trong bóng tối đuổi kịp tới đó. Những âm thanh “sột soạt” loi nhoi đan đặc không ngớt, chốc chốc còn lẫn cả tiếng cơ thể bị xâu xé của con người rơi xuống.
Khi cả hai quay trở về đến nơi xuất phát, Tô Hạc Đình bèn dùng ngọn lửa để thông đường đi lên trên. Bấc đèn nổ “bùm” một tiếng như thúc giục. Tạ Chẩm Thư không nhiều lời. Dùng năng lực của ngôi sao chữ Thập, anh đưa họ về lại đường cũ. May mà đường đi hẹp, lại còn có đèn nên bốn phía sáng trưng, lũ sâu không dám bám theo. Tới khi bò được ra ngoài, Tô Hạc Đình với Giác cùng ngã phịch xuống đất. Ngọn đèn nhỏ lại quay về độ sáng leo lét rạng dở tối dở cũ.
Giác hốt nhiên bật dậy nức nở: “Chẳng còn ai sống cả.”
Tô Hạc Đình: “Phác Lận cũng không ở đó.”
Giác nói: “Vẫn còn người khác mà, mọi người đều bị ăn cả rồi.”
Tô Hạc Đình nín lặng vài giây, rồi cậu bỗng ngồi dậy, thấy Tạ Chẩm Thư đang xem xét nắp giếng. Hai người nhìn nhau ở ngang tầm mắt, Tô Hạc Đình hỏi: “Đúng không?”
Đầu ngón tay Tạ Chẩm Thư vẽ hờ một vòng trên miệng giếng, bảo: “Chắc chắn gần trăm phần trăm.”
Giác: “Gần trăm phần trăm cái gì cơ?”
Tô Hạc Đình: “Lũ sâu này được thả vào đấy.”
Giác cũng ló đầu ra nhìn chiếc nắp giếng mục nát. Tuy nó là một hệ thống thông minh mà nó vẫn không hiểu, phải hỏi: “Ai xấu xa thế?”
Tạ Chẩm Thư nói đơn giản: “Con người.”
Giác: “Gì cơ!”
Tô Hạc Đình định sờ chóp mũi, nhưng nghĩ tới lũ sâu vừa rồi lại lẳng lặng buông tay. Cậu nắm một vốc cát vẩy lên nắp giếng: “Chủ thần đưa bọn họ lên đây thì chắc chắn sẽ không muốn bọn họ bỏ mạng ngay lập tức, lũ sâu bên trong dễ thường là do con người bỏ vào.”
Chiếc nắp giếng này đã bị cạy phá, bọn họ chỉ cần lần lượt bò ra ngoài là xong, nhưng chẳng hiểu chuyện gì đã phát sinh mà người ra ngoài lại thả ngược sâu vào trong để giết hết người bên dưới.
Hồi lâu sau Giác mới cất tiếng: “Để làm gì trời.”
Tiếng nó rất khẽ, chất chứa nỗi buồn khôn nguôi, tới cả chữ “trời” cũng xụi lơ như đã tan nát hết cõi lòng.
Tô Hạc Đình cũng không muốn nó nghĩ con người thật thối nát, bèn bảo: “Không phải ai cũng vậy đâu.”
Chỉ là cậu quả tình không giỏi an ủi người khác, nói thế thì thà đừng nói còn hơn. Nhưng Giác lại gật đầu giống như tin, có điều nó vừa gật đầu thì lá cây bỗng rụng rào rạo.
Tô Hạc Đình sợ điếng người, suýt đã đưa tay ra hứng.
Giác nhặt lá cây của mình lên thả vào trong giếng, sau đó khép cành cây lại niệm như cầu nguyện: “Tôi sẽ nhớ tên mọi người, sẽ không quên từng người một trong các bạn, xin lỗi… Dù không đến được thế giới mới, hãy vẫn an nghỉ nhé.”
Những chiếc lá bóng loáng chậm rãi rơi xuống, biến thành những phiến ánh sáng lấp lánh tựa sao rơi vào vực thẳm. Trong khoảnh khắc ấy, những đốm bạc lóe sáng trong bão cát, ngay cả bóng tối cũng không thể làm phôi pha sự thành kính của Giác.
Tô Hạc Đình bải hoải, cậu dứ cây đèn vào ngực Tạ Chẩm Thư, dứ cả mình vào, bảo: “Em mệt quá, buồn ngủ quá… Oài, phiền ghê.”
Tạ Chẩm Thư ôm nửa thân trên cậu để cậu không bị gió cát quất vào. Đầu Tô Hạc Đình mơ màng mà lại không tài nào ngủ nổi, cậu mệt như thể một sợi nhỉ nhỏ đang ma sát qua lại trong thần kinh cậu, khiến não cậu căng lên choáng váng. Cậu ngoảnh mặt chọc chóp mũi vào cổ áo sơ mi của Tạ Chẩm Thư, lịu nhịu: “Chết mất thôi. Dù em hơi bẩn nhưng tắm cái là được, anh đừng buông em trên mặt đất nhé.”
Giọng làm biếng, cậu biết tính Tạ Chẩm Thư sạch sẽ.
Tạ Chẩm Thư cúi mặt nhìn Tô Hạc Đình một hồi lâu rồi đưa tay ấp gáy cậu, vùi cậu vào ngực mình, “Ừm” một tiếng, bảo: “Không buông.”
Khóe miệng Tô Hạc Đình khẽ nhúc nhích, cậu như một người không xương. Cậu bảo: “Mấy tiếng tiếp em không đi nổi đâu.”
Tạ Chẩm Thư: “Tôi biết.”
Năng lượng của Tô Hạc Đình đã ở mức báo động, nói chuyện cũng vất vả, tiếng cậu nhỏ dần: “Em ngủ một tí đây…”
Mèo cuộn tròn rúc vào lòng anh nhẹ bỗng, vô cùng mong manh. Tạ Chẩm Thư muốn dùng sức mà lại không dám mạnh tay. Cơ thể chứa xương cốt thần của anh dễ khiến anh mất chừng mực, hoặc có lẽ đó chẳng phải vấn đề của xương thần, mà là do chính bản thân anh.
Tô Hạc Đình rất nhẹ, tiếng thở của cậu cũng rất nhẹ. Hồi lâu sau, Tạ Chẩm Thư bế cậu lên. Giác đã cầu nguyện xong, đi tiếp theo Chỉ huy.
Đương đi, Giác hỏi: “Chỉ huy, giờ chúng ta đi đâu?”
Tạ Chẩm Thư không ngoái lại, ngôi sao chữ Thập phát ra ánh sáng lạnh lẽo giữa những đốm bạc. Anh đáp: “Đi tìm người.”
Giác chưa từng hợp tác cùng Tạ Chẩm Thư, nó bèn chạy mấy bước tới trước mặt anh, bảo: “Cần tôi bói hướng đi cho không?”
Tạ Chẩm Thư đáp: “Không cần.”
Giác an tâm đi theo sau anh, chốc chốc lại nhìn Tô Hạc Đình. Mặt Tô Hạc Đình trắng bệch như một tờ giấy, mắt nhắm vờ ngủ suốt. Bọn họ đi như thế được hơn một giờ đồng hồ thì rốt cuộc Tạ Chẩm Thư dừng lại.
Ánh sáng từ ngọn đèn yếu đi, Giác bèn phóng to lên một chút vươn cành cây dò đường trước mặt. Đằng trước là một hố cát trũng, nhìn kích cỡ thì óc vẻ là dấu chân của tượng Phật. Giữa gió cát, Giác nằm dọc xuống mép dấu chân dò xuống, thấy bên dưới có một đoàn người lạnh ngắt nằm la liệt đủ hướng, đều đã chết.
Giác hỏi: “Là bọn họ à? Xem ra bọn họ đang chạy theo tượng Phật, thảo nào chúng ta chưa gặp.”
Một đống hộp cơm chất men hố, Giác đụng vào, chúng liền đổ ra thành canh với mì.
Tô Hạc Đình đương giả vờ ngủ hé một con mắt liếc xuống dưới, nói: “Thì ra là gì tranh giành đồ ăn.”
Số hộp cơm bên dưới rất ít, tất cả đều rỗng không, chắc là một bài kiểm tra khác của chủ thần, cho những người lên mạng tranh giành lẫn nhau vì sinh tồn, dẫn tới những người đã được cải tạo mà mạnh hơn cùng liên minh thả sâu xuống dưới lối đi để giết người sau khi đã trèo được ra ngoài, sau đó cướp thức ăn của tất cả mọi người. Nhìn số lượng hộp cơm thì hẳn bọn họ đã bò được ra ngoài khá lâu, đáng nhẽ phải đụng độ Tạ Chẩm Thư với Tô Hạc Đình một lúc nào đó rồi, nhưng hoặc là bọn họ đi đường vòng, hoặc là thức ăn khan hiếm, bọn họ không muốn san sẻ thêm cho người sống sót nên mới thà chạy theo tượng Phật.
Tô Hạc Đình đang chuẩn bị nhắm mắt thì thấy lá cây của Giác lại rơi. Cậu bèn dừng lại nhắc: “Trọc giờ.”
“Không đâu,” Giác vừa khép cành cây vừa nói, “tôi có thể làm thêm.”
Nó lặng lẽ tỏa sáng, dòng dữ liệu màu xanh lam dưới chân chậm rãi thấm vào hố cát đắp lên các thi thể. Tiếng cầu nguyện lại vang lên, ở lời hứa “Tôi sẽ không quên” thì dòng dữ liệu mờ dần, cuối cùng tan vào những đốm bạc đang bay nhảy theo gió.
Tô Hạc Đình hỏi: “Cô sẽ nhớ từng người một ư?”
Giác đáp: “Tôi sẽ nhớ từng người một.”
Tô Hạc Đình lại hỏi: “Cho dù kẻ đó là người xấu?”
Những phiến lá của Giác lay động theo gió, nó ôn tồn đáp: “Chỉ cần họ từng tồn tại.”
Khi những dữ liệu màu xanh lam biến mất thì các thi thể cũng không còn. Ở thế giới chỉ có ý thức tồn tại này, con người có thể hóa thành những đốm bạc, vô tri vô giác phiêu tán trong bóng đêm, những vết tích tồn tại của cơ thể biến thành bức tranh cát có thể bị dễ dàng lau đi. Tô Hạc Đình cảm giác mình cũng giống những đốm bạc, đều là những người lưu vong đã mất đi xác thịt, một câu “không quên” đơn giản lại cần sự nỗ lực tột cùng của mỗi người.
Sau khi Giác đã thanh lọc xong, bọn họ lại đi quay về lối đi. Nắp giếng che một nửa, bên dưới vẫn đen ngòm. Giác bảo: “Giờ chỉ còn sâu thôi, chúng ta phải nghĩ cách đuổi chúng nó đi, không thì nhóm người sống sót tiếp theo sẽ gặp nạn.”
Tô Hạc Đình: “Vậy phải làm phiền cô trồng hoa bạc trên tường hộ tôi, có ánh sáng thì chúng nó khắc sẽ bỏ đi.”
Giác: “Để tôi thử coi.”
Rễ cây của nó lấp kín lối ra vào, sau khi tiến vào chúng biến thành những luồng dữ liệu màu lam. Tuy Giác có thể đi lại ở đây, nhưng đó là vì nó dựa vào virus màu xanh lam do Tô Hạc Đình bố trí, bởi vậy những nơi mà nó đi qua luồng dữ liệu màu lam mới có thể chảy tới. Những dữ liệu màu lam ấy chậm rãi chảy xuống, lại lần nữa gặp màu xanh lá đan xen vào nhau thành những sắc màu loang lổ, bạt ngàn hoa bạc mọc lên theo đường chúng chảy.
Tô Hạc Đình búng vào cây đèn, đèn khẽ đong đưa như lời chỉ dẫn lặng câm. Những đốm bạc chung quanh tức thì tụ về, chúng lần lượt bay vào trong giếng, chui vào trong những đóa hoa để làm nhụy.
Phù—
Không có gió mà những đóa hoa bạc vẫn tự đong đưa, cành lá dập dờn tựa giải ngân hà tràn đầy lòng đất.
Tô Hạc Đình nói: “Những vật mà Chủ thần tạo ra ưa náu trong bóng tối nên đều sợ ánh sáng. Hephaestus từng chế tạo ra một con tên là ‘Chúc Dung’, tay cầm quyền trượng lửa, bắt chước theo vị thần sơn hải cũ, tôi nghi là tất cả nguồn sáng của Khu số 14 đều đang nằm trong tay nó hết.”
Tạ Chẩm Thư nhìn vào nơi bóng tối sâu thẳm, ở đó vẫn văng vẳng truyền tới tiếng Phật tụng kinh tựa một cơn ác mộng. Gió thổi vô tận nơi Điểm Kết nhưng lại không hề có ảnh lửa, nếu Chúc Dung vẫn còn ở đây thì chắc chắn nó đang trốn ở một nơi khác.
Giác quyết tâm dồn lực trồng hoa, trồng xong mới mở miệng: “Nếu có ánh sáng thì mọi người sẽ khỏi cần trốn trong bóng tối nữa.”
Tô Hạc Đình: “Không, chỉ có mỗi ánh sáng thôi thì không đủ, chúng ta cần Mặt Trời nữa.”
Giác kêu lên: “Apollo!”
Tô Hạc Đình: “Hơ, chúng ta không cần cái ngữ ăn hại đó đâu.”
Cậu rất khinh Apollo, nói năng cũng chẳng buồn giả vờ cả nể.
Giác suy ngẫm một hồi, bỗng vỗ cành cây phấn chí reo lên: “Thế thì mình tự nặn một cái là được.”
Nó không chỉ có dữ liệu của Khu số 14 mà còn có tài nguyên chủ thần mà Artemis để lại, chỉ việc cắt ra một lỗ thủng rồi điền vào đó như hướng dẫn là được, cũng chẳng phải việc gì khó.
“Nhưng quy trình thì rất phức tạp,” Giác nói, “tôi sẽ cần chút thời gian.”
Tô Hạc Đình: “Không phải vội, trước mắt thứ mà chúng ta có thừa chính là thời gian mà. Đang có virus thì tạm thời chủ thần cũng không động gì được đến mình đâu.”
Giác đang định bảo gì đó thì bỗng “Ồ” tiếng, sờ tàng cây mình bảo: “Tôi, tôi nở hoa này!”
Hai người đang không để ý bèn quay ra nhìn lại, quả thật giữa tán cây của nó vô vàn những bông hoa nhỏ lấp lánh đang bung nổ, tỏa ra mùi hương vô cùng ngọt ngào. Kể cũng lạ, Giác chưa từng nếm được vị, trước kia trong Săn bắn, nó thường đi uống rượu số liệu với Giác sau giờ làm. Phác Lận miêu tả mùi vị của rượu cho nó, dựa vào trí tưởng tượng, nó đã đính thêm rất nhiều từ hay ý đẹp cho hương vị ấy, lúc này nó lại biến thành một mùi hương đặc biệt, siêu thực tế.
Tô Hạc Đình khẽ ngửi, cười: “Ồ… Giống mùi của trời tuyết, mát lạnh sảng khoái tinh thần. Chỉ huy, anh ngửi thấy không?”
Trời tuyết nào có mùi, ấn tượng của Tô Hạc Đình đối với trời tuyết đều đến từ Tạ Chẩm Thư, thế nên mùi mà cậu ngửi được chẳng qua là mùi giống Tạ Chẩm Thư thôi.
Mái tóc Tạ Chẩm Thư bị thổi tán loạn, anh “Ừ” tiếng, nhớ tới giấc mơ đẹp đẽ mà Càn Thát Bà tạo nên. Thứ mà anh ngửi được không phải trời tuyết, mà là kẹo và sô-cô-la. Nhưng anh không phản bác Tô Hạc Đình, chỉ đáp hồi lâu sau: “Ngọt.”
Tô Hạc Đình ngạc nhiên: “Ngọt á? Kem à?”
Tạ Chẩm Thư: “Cũng gần như vậy.”
Hai người đang nói chuyện thì Giác bỗng nhảy cẫng lên như bị giật điện, phấn khích chỉ vào lối đi: “Báo cáo Chỉ huy, tôi cảm giác có người sắp lên mạng!”
Tô Hạc Đình cũng bắt chước theo: “Báo cáo Chỉ huy, chắc là nhóm người sống sót thứ hai đấy, chúng ta cần phải xuống kiểm tra… Này, đừng ném em nữa đấy nhé!”
Tạ Chẩm Thư ôm cậu ngang lưng, ngay giây phút những mảnh hình thoi đen xuất hiện, anh cũng nhảy vào lối đi theo. Lần này có hoa bạc chiếu sáng nên không còn căng thẳng nữa, vạt áo hai người bay phần phật. Lúc bấy giờ Giác mới vỡ ra, nó nằm trên lối vào ới một tiếng xuống, kêu: “Hai người quên tôi rồi này!”
Tạ Chẩm Thư đáp: “Canh cửa.”
Giác nói: “Sau khi hoa bạc của cậu biến mất thì đơn vị lưu trữ ý thức ở nơi đây cũng không còn nữa. Tôi thấy các đốm bạc bay tứ tán khắp nơi, chẳng biết ai vào với ai.”
Tô Hạc Đình đi đằng sau Giác: “Những bông hoa bạc hấp thụ ý thức của những con người có thân xác đã tử vong, muốn phân biệt họ đơn giản lắm, chỉ cần đối chiếu với thông tin cá nhân lưu trong kho hồ sơ là được. Cái khó chính là làm sao để đánh thức ý thức của họ, tôi vẫn chưa nghĩ ra cách giải quyết nên đành tạm thời để bọn họ làm những đốm bạc.”
Bởi vậy những hạt quả của Giác được tạo ra chính nhằm mục đích dẫn thông tin, tiếc là các đốm bạc không thể tự ăn uống nên hiệu quả quá yếu.
Đường hoang gập ghềnh, gặp liền mấy đụn cát Giác đều nhảy qua, nó nói: “Chính Hephaestus đã dập tắt hoa bạc, nó còn đổi mới hệ thống liên kết cho Phòng ươm giống với Nông trường, đâm ra tôi không tài nào xác định được vị trí của mọi người sau khi đã được tải lên.”
Huống hồ trong đây bóng tối luôn ngự trị, dù ai đó để lại dấu vết ở đâu đó thì bọn họ cũng khó mà phát hiện ra.
Giác lại ảo não nói khẽ: “Tôi lo lắm, mọi người chưa được huấn luyện liên kết, mà đâu phải ai cũng như cậu Yến… Tôi sợ bọn họ không cầm cự được bao lâu trong thí nghiệm này.”
Để thí nghiệm Khu số 14 được xuôi chèo mát mái, Artemis đã huấn luyện ý thức rất lâu dài và khốc liệt cho các vật thí nghiệm, phá hỏng tâm thần của rất nhiều người. Nay hệ thống Chủ thần muốn bắt chước Artemis mà lại không đủ kiên nhẫn như thế, cho nên chúng nó dùng đến những biện pháp còn thô bạo hơn.
Giác kể: “Sau khi vào đây, tôi không tài nào quên nổi dáng vẻ của bọn họ trong Phòng ươm giống, những sửa đổi ấy tàn nhẫn quá.”
Nghe nó nói vậy, Tạ Chẩm Thư khẽ liếc nó.
Giác rất giống con người.
Nó không chỉ biết sử dụng ngôn ngữ mà còn biểu đạt được ưu tư. Nhưng máy móc mà biểu lộ tình cảm là một việc kỳ lạ, tới cả Bác Sĩ cũng còn lưu lại vết tích của những cài đặt nhân tạo, trong khi Giác lại hoàn toàn không. Rốt cuộc nó dùng cái gì làm trung gian để quan sát thế giới?
Câu hỏi này quả phức tạp.
Tạ Chẩm Thư lười nghĩ sâu, nhưng Tô Hạc Đình bên cạnh anh lại đang đăm chiêu một vấn đề khác. Mèo giơ cây đèn lên, sợ mình giẫm hụt vào hố, đi được một đoạn cậu hỏi: “Tôi hơi tò mò, cái ‘sửa đổi’ mà cô bảo là cái gì vậy?”
Giác vừa nhắc tới sửa đổi là cây lá cành rung toán loạn, rõ ràng nó rất cáu. Nó khua cành cây: “Tức là cơ giới hóa tất cả tay chân của mọi người, làm bọn họ giống như người lai ấy.”
Tạ Chẩm Thư khẽ nhấc mí mắt, từ “người lai” khẽ chọc vào anh, anh nghĩ tới Khu sinh tồn. Những thay đổi cảm xúc của anh gần như vô hình, Giác không hề nhận ra mà vẫn tiếp tục: “Lại còn thay đổi nội tạng của họ, đục lỗ trong sọ họ, cấy mối nối vào trong…”
Nghe tới đó Tô Hạc Đình bảo: “Mối nối sao? Ồ, mối nối, bảo sao.”
Giác: “Cậu từng gặp loại mối nối này trong Báo Đen chưa?”
Tô Hạc Đình: “Chưa, mới nghe qua ở những chỗ khác thôi.”
Giác đã từng xem qua tài liệu về thí nghiệm của đám chủ thần nên biết đại khái: “Tuy liên kết xâm nhập ý thức thuận tiện nhưng rủi ro lại cực cao, không xử lý tốt thì rất dễ nhiễm trùng. Để giảm bớt tỉ lệ tử vong, hệ thống Chủ thần mới lựa chọn những người sống sót đã được phẫu thuật cải tạo để đưa vào phòng ươm giống, quản lý đồng loạt.”
Hai người góp chuyện trôi chảy mà không hề biết ý nghĩa của những lời này, càng không biết người lai đã xuất hiện được một thời gian trong Khu sinh tồn rồi.
Đương đi, Giác bỗng ngắt một chiếc lá từ tán cây xuống, bảo: “Tôi—”
Tô Hạc Đình cũng làm theo ngắt một chiếc lá: “Hóa ra lá này hái được.”
“Á á á,” Giác hốt hoảng chạy vòng vòng, “sao cậu lại làm thế, hái được thì cũng không được hái lung tung chứ, tôi trọc mất!”
Tô Hạc Đình bèn lập tức gắn chiếc lá lại, tiện thể trấn an: “Không trọc đâu, sao lại trọc được? Cô là một cây đại thụ cành lá sum sê cơ mà.”
Nào ngờ chiếc lá nọ tức thì tắt ngấm hóa thành tro, tan đi trên đầu ngón tay Tô Hạc Đình. Ngay tức khắc mặt Tô Hạc Đình là một vẻ “Thôi xong”, cậu trốn phắt ra sau lưng Tạ Chẩm Thư lúc Giác định tát mình.
Giác lùi lại mấy bước, run rẩy giơ cành cây lên gào: “Tô Hạc Đình!”
Thấy nó sắp phóng đại, Tô Hạc Đình cuống cuồng thò đầu ra: “Tôi không hái nữa, không hái nữa mà! Cô bình tĩnh lại đi, nếu mà mọc lại thì Hephaestus đến bây giờ đấy, nó mà đến…”
Giác uất phát khóc: “Cậu còn dám nói cơ à!!!”
Tô Hạc Đình: “Tôi không nói nữa.”
Giác: “Đây đều là tờ dẫn đường giống như cỏ đom đóm ấy, hái mất một chiếc là thiếu mất một chiếc…”
Tô Hạc Đình: “Cỏ đom đóm là gì vậy? Ồ, tôi hiểu rồi, là mấy hạt bên trong hoa.”
Giác chỉnh lại lời cậu: “Cái đó gọi là cỏ đom đóm, cảm hứng thiết kế từ một cuốn tiểu thuyết siêu nhiên trong thế giới cũ, truyện kể chỉ cần ăn bảy hạt cỏ đom đóm là đầu óc sẽ tinh thông, lại còn nhìn được trong bóng tối, thế nên tôi…”
Tô Hạc Đình thẳng tay đâm thủng sự kỳ ảo: “Hiểu rồi, thế nên chỉ cần ăn bảy hạt là sẽ chặn được thiết lập.”
Giác ngượng ngùng kêu lên: “Thông tin trong kho dữ liệu cực kỳ khổng lồ, nhiều gấp ba chục lần khu Quang Quỹ đấy! Tôi chỉ có thể dùng bảy hạt để trì hoãn thời gian thẩm vấn mà thôi!”
Tô Hạc Đình sợ nó lại phóng to nên hùa theo: “Rồi rồi rồi, làm được như thế đã là giỏi lắm rồi.”
Thấy Giác giận cứ vỗ lá cây phành phạch, cậu bèn đổi chủ đề: “Cô ngắt lá cây làm gì?”
Giác đáp: “Tôi hỏi đường!”
Nó đặt chiếc lá sang một bên, lá bay vòng giữa không trung rồi sà xuống đất, đầu hẹp chỉ về bên phải.
Tô Hạc Đình nhìn theo hướng lá cây đáp, đó là đường dẫn bọn họ tới đây. Cậu khẽ hít vào một hơi, ngỡ ngàng: “Khoan, mấy hôm nay cô đều dò đường kiểu này à?”
Giác nhặt chiếc lá lên, bảo: “Cái này gọi là xem bói, hồi ở khu Quang Quỹ tôi hay dùng lắm, siêu linh nghiệm.”
Tô Hạc Đình: “Không phải chứ, cô—”
Tạ Chẩm Thư giơ tay bịt miệng Tô Hạc Đình lại, Tô Hạc Đình chẳng hiểu mô tê gì, kêu ư ử mấy tiếng đều bị Chỉ huy chặn lại, chỉ thấy Tạ Chẩm Thư bình thản bảo: “Đi.”
Được ủng hộ, Giác lập tức ngẩng đầu cất bước quay về theo đường cũ. Tô Hạc Đình bị Tạ Chẩm Thư nửa cắp nách, ù ù cạc cạc bị xách đi một đoạn. Nhưng bọn họ đã kiểm tra con đường tới đây rồi, mãi không có mấy một hình thù.
Trời tối gió to, đất cát mềm xốp, đường càng lúc càng khó đi. Giác muốn dừng lại nghỉ, bảo: “Cây của tôi—”
Còn chưa hết câu, nó đã đổ sập vào đồng cát đằng trước nghe “ùm” tiếng, cát bụi bay mù lên.
Tô Hạc Đình bị sặc, vừa ho vừa kéo nó dậy nhưng lại nghe thấy giọng Giác nghèn nghẹt: “Thôi chết rồi, chân tôi bị kẹt.”
Nó gọi rễ cây là chân.
Tô Hạc Đình bới bới cát, định bảo “Tôi kéo cô lên cho” thì lại phát hiện cát này mềm một cách khác thường, tay rất dễ bị lún ngập xuống.
Đúng lúc ấy, Giác “Ồ” lên một tiếng, bảo: “Dưới đáy rỗng!”
Nó mò dễ cây xuống.
Tạ Chẩm Thư hỏi: “Có lỗi đi à?”
Giác tiếp tục mò xuống tiếp, vận hết sức toàn thân, lát sau nó nói: “Đúng rồ, nhưng sâu lắm, tôi còn không chạm được tới đáy… Á! Có sâu!”
Nó run run rẩy rẩy, thoắt cái đã biến thành một mầm non bé bằng lòng bàn tay, lăn lộn trên mặt đất: “Sâu sâu sâu!”
Hồi trước nó không sợ sâu, sâu cũng chỉ là một sinh vật mà thôi, nhưng giờ nó lại là một cái cây, đã vậy nó còn đọc rất nhiều tài liệu rồi nên lúc nào nó cũng nơm nớp sợ lũ hệ thống Chủ thần bệnh hoạn biến thành loài vi khuẩn nào đó đến cắn mình.
Tô Hạc Đình dọa nó: “Đừng ngọ nguậy, con này to quá.”
Giác rúc đầu vào cát khóc rấm rứt: “Tôi bị nó cắn mất rồi, thôi tạm biệt, tôi còn chưa tìm được Phác Lận.”
Tô Hạc Đình xấu tính: “Đúng rồi, cô còn chưa tìm được Phác Lận nữa. Ầy, thôi không sao đâu, tôi sẽ tìm anh ta hộ cô, tìm được rồi thì sao?”
Giác: “Đưa anh ấy đi thôi.”
Tô Hạc Đình: “Anh ta mà đi thì cô sẽ không còn được gặp lại anh ta nữa đâu.”
Giác: “Không sao, dù gì đến lúc ấy tôi cũng đã biến thành một đống rác dữ liệu rồi!”
Nó đang bi thiết thì rễ cây bỗng nhẹ tênh đi, không kiềm được nó ngoái lại nhìn, thứ đương treo vắt vẻo trên nó nào phải sâu độc gì, chẳng qua là một miếng băng nhem nhuốc.
Tạ Chẩm Thư bình tĩnh nói: “Là giả thôi.”
Tất cả tán lá của Giác nộ khí xung thiên: “Tô Hạc Đình!!!”
Tô Hạc Đình nhoẻn cười, cong ngón tay búng miếng băng xuống: “Nhìn nhầm rồi, hóa ra chỉ là đoạn băng quấn. Cơ mà cô vừa mởi mở mang đầu óc đấy, đừng lúc nào cũng nghĩ chuyện sống với chả chết, dù có sâu độc thật thì cũng phải vượt qua cửa ải này với tôi và Chỉ huy đã.”
Trước giờ cậu vốn là người tháu cáy, nói mười câu thì hết sáu câu giả, mặt mũi lại còn cực kỳ dụ hoặc, nói năng luôn thoáng vẻ lười nhác, song điều kỳ lạ chính là cậu lại có một vẻ cuốn hút có thể mê hoặc được cả con người lẫn hệ thống.
Tạ Chẩm Thư nhìn cậu chốc lát, Tô Hạc Đình bèn tiến tới gần Chỉ huy, chiếu cây đèn lên miếng băng, bảo: “Trên này có chữ.”
Giác bò dậy hỏi: “Chữ gì?”
Tô Hạc Đình lẩm nhẩm: “Cứ… Là cứu, cứu mạng…”
Miếng băng gạc đã rúm ró, hiển nhiên là đã bị vò qua vê lại nhiều lần. Vết bẩn loang lổ đan với hai chữ “cứu mạng” viết bằng máu, màu máu đã xỉn thành đen.
Tạ Chẩm Thư rủ mắt nhìn xuống cát: “Bên dưới này có người.”
Tô Hạc Đình: “Thảo nào cô muốn quay lại.”
Hai người ngồi xổm xuống đào bới một hồi ở chỗ Giác vừa mới thụt vào. Đụn cát thấp dần, một nắp giếng lộ ra bên dưới.
Tô Hạc Đình chống mình, một tay xách đèn ngắm nghía nắp giếng, bên trên có một con số mờ ảo bị cát mài mòn không còn nhìn rõ, chắc là số hiệu gì đó. Cậu thổi cát trên mặt nắp đi, ở đó có một lỗ thủng như một cái miệng nứt khoe ra hàm răng đen.
Tạ Chẩm Thư hơi dùng sức cậy nắp giếng ra men theo lỗ hổng. Nó không vững chắc như trong tưởng tượng, bên dưới là một lối đi thẳng đứng không biết sâu tới đâu.
Tô Hạc Đình: “Cái điểm đăng tải kiểu chó gì vậy, chả nhẽ mọi người bò ra ngoài qua đây à?”
Giác ló đầu ra, ánh sáng trắng rọi vào mặt tường lối đi. Tường bóng loáng, nhưng bên trên có những vết cào nông sâu đan xen như thực sự từng có người bò trong đây.
Tạ Chẩm Thư nhìn những vết xước nọ, bảo: “Đúng thế, đây là cho người bò.”
Giác khiếp đảm: “Sâu thế sao bò nổi?”
Tạ Chẩm Thư nhấc Giác với Tô Hạc Đình lên, điềm đạm đáp: “Bằng tay không.”
Tô Hạc Đình phát giác gì đó: “Tư thế này nguy hiểm quá, Chỉ huy, đừng ném bọn em vào chứ—Tạ Chẩm Thư!!!”
Giác gào: “Oái!!!”
Cả hai cùng chúi người dốc xuống, trong nháy mắt đã biến mất vào lối đi. Tạ Chẩm Thư thả lỏng cánh tay rồi cũng tự mình nhảy vào. Lối đi tối thui, chỉ nghe thấy tiếng gió ở ngoài cửa hãy đang tru tréo. Chẳng biết rơi bao lâu, đến khi tiếng gió đã hoàn toàn biến mất thì Tạ Chẩm Thư triệu ra những mảnh hình thoi đen.
Hông Tô Hạc Đình căng thít, cậu lơ lửng giữa không trung ho: “Khụ, em khụ…”
Tạ Chẩm Thư lặng lẽ bấu gáy cậu, cậu nín ngay. Chỉ mình Giác vẫn đang chao đảo bên dưới như như một cái bóng đèn, yếu ớt kêu: “… Choáng… choáng quá… A…”
Âm thanh vọng lại, bọn họ còn cách mặt đất không xa. Tạ Chẩm Thư bèn giảm tốc độ, biến những mảnh hình thoi thành một cái thang xoáy rồi vững vàng bước xuống. Tô Hạc Đình bị anh ôm trong tay, thở vào tai anh, chẳng biết đang nghĩ gì.
Rốt cuộc Giác cũng tới nơi, nó nhảy xuống nền theo từng nấc thang một: “Sâu thế này, bò tay không khó lắm.”
Tạ Chẩm Thư nói: “Người đã cải tạo có thể làm được.”
Anh chưa từng thực sự nghiêm túc quan sát một người lai, nhưng anh biết khả năng của phẫu thuật cải tạo. Một khi người ta có thể điều khiển được tay chân máy thì sức sẽ vượt xa người bình thường.
Tô Hạc Đình giơ cây đèn lên, ánh sáng tù mù chiếu lên mặt tường, ở đó vẫn còn vết cào, cậu bèn bảo: “Lạ ghê.”
Giác nói: “Siêu lạ ấy, nếu có người leo được đến lối ra thì tại sao không bò thẳng ra ngoài?”
Tô Hạc Đình tỉ mẩn ngắm mặt tường: “Mấy vết cào này không giống như vết cào do chỉ một người để lại.”
Thế thì lại càng lạ, nếu cả một nhóm người cùng lên mạng ở đây mà trong đám bọn họ còn có nhiều người đã làm phẫu thuật cải tạo, vậy thì đáng nhẽ bọn họ phải mau chóng thoát khỏi nơi đây chứ, sao lại còn để lại mẩu giấy “cứu mạng”?
Đúng lúc ấy, Tạ Chẩm Thư bỗng ngửi được mùi thối, Tô Hạc Đình cũng ngửi thấy, cậu chau mày: “Mùi này…”
Giác không có khứu giác, nó dùng cành cây quạt: “Tôi cần cậu miêu tả bằng mấy từ để tôi còn tưởng tượng ra được.”
Tô Hạc Đình: “Là mùi trứng thối ấy.”
Giác bèn tập trung tìm kiếm “mùi trứng thối”, hình ảnh hiện ra khiến nó càng tò mò. Ngoại trừ sâu ra, những thứ khác thì nó lại không bài xích mãnh liệt tới vậy, dù là nấm mốc nó cũng thấy kỳ diệu.
Bọn họ càng xuống mùi thối càng nồng. Tô Hạc Đình váng cả đầu, rốt cuộc vẫn vả mãi mới đến được một đại sảnh rộng rãi.
Tô Hạc Đình: “Ê.”
Tiếng “Ê” này như một viên đá vọng về trong bóng tối vô cùng tận.
Dưới mặt đất có nước, Giác nhảy xuống, nước không dâng quá rễ cây của nó, ngay tức khắc nhiễm màu khác. Rễ cây được dữ liệu màu xanh lam tẩm bổ, chỉ có khi đụng phải dữ liệu màu xanh lá cây của chủ thần thì hai màu mới thi nhau chiếm địa bàn như một bãi chiến trường nhỏ. Nó nhấc rễ cây lên: “Nhìn này, chúng dang đánh nhau này, đây đúng là địa điểm để mọi người đăng nhập vào thật.”
Không gian này còn lớn hơn bọn họ tưởng tượng, ánh sáng từ Giác với ngọn đèn nhỏ cũng tối hẳn đi, hai đốm sáng không thể nào soi rọi được tứ bề, trong khi đó mùi thối lại xộc thẳng lên mũi, còn lẫn cả mùi tanh.
Giác khép cành cây lại, khẽ khàng: “Có ai không? Xin làm phiền.”
Trong bóng tối, một tiếng “Ực” rất khẽ vọng tới, nếu không phải tai Tạ Chẩm Thư siêu thính thì có lẽ đã chẳng ai để ý. Chỉ nghe thấy tiếng nuốt vọng dần tới như thể không phải từ cùng một người. Ngay sau đó, một tiếng đáp yếu ớt vọng tới: “… Có.”
Giác phấn chí: “Ha! Xin chào, tôi đang ở đây, anh đang ở đâu vậy?”
Đối phương dừng lại một hồi mới đáp: “Ở…”
Giác đi về phía trước, bỗng mấy giọt nước rơi xuống tán lá nó. Nó bèn ngửa tàng cây lên nhìn, bên trên tối thui như mực. Chẳng biết vấn đề ở đâu mà càng lúc càng nhiều nước, cuối cùng chúng đổ xuống “rào rào”.
Tô Hạc Đình bỗng bật lửa quát lên: “Giác!”
Cây đèn chợt cháy bùng lên, ngọn lửa màu xanh lam tựa một con mãnh hổ chồm dậy chiếu sáng khắp trần, mới thấy trên nóc nhung nhúc những con sâu khổng lồ.
Giác kêu lên: “Má ơi!”
Thứ rỏ xuống chẳng phải nước, mà là bã từ cơ thể con người bị nhai nát xen lẫn mới máu thành một đống thịt bầy nhầy đặc quánh. Dưới chân cũng chẳng phải nước, mà là một chất lỏng đục ngầu không rõ nguồn gốc, trong đó lềnh phềnh vài hộp cơm nhựa.
Giác giật rễ cây gào toáng lên: “Á!”
Những mảnh hình thoi trào lên, vừa kịp che lên đỉnh đầu đã nghe thấy “ruỳnh” một tiếng, một con sâu đập xuống. Tạ Chẩm Thư hơi nghiêng đầu khó chịu.
Tô Hạc Đình vung cây đèn lên, dùng bật lửa diệt sâu, thổi thổi vào mảnh hình thoi đen: “Em thổi sạch rồi, không bẩn nữa. Giác, qua chỗ tôi!”
Cậu thông thạo điểm yếu của những sinh vật do chủ thần tạo ra, chúng sợ ánh sáng. Cậu bèn đốt cho cây đèn sáng bừng tận nửa người dọa lũ sâu giật lùi lại. Giác xám xịt đi vì choáng, lút cút chạy theo họ. Khắp trên tường chi chít những con sâu, chúng mang mặt người với thân hình thô kệch, dùng miệng mút để di chuyển.
“Có,” chúng xì xào như bàn tán, “có thịt.”
Giác sợ mất mật: “Bọn chúng ăn thịt hết người rồi!”
Tô Hạc Đình lại bảo: “Chưa chắc.”
Ngọn lửa của cậu bỗng chợt nhỏ đi, có dấu hiệu sắp tắt. Tô Hạc Đình khẽ hít vào, dùng hai ngón tay nắm bấc đèn bảo: “Vượt chúng nó cho tao.”
Ánh lửa xanh lam tức thì lại bừng bừng sống dậy tỏa ánh sáng rực rỡ. Nhưng lũ sâu đông tới lạnh người, đèn soi tới đâu là bọn chúng trong bóng tối đuổi kịp tới đó. Những âm thanh “sột soạt” loi nhoi đan đặc không ngớt, chốc chốc còn lẫn cả tiếng cơ thể bị xâu xé của con người rơi xuống.
Khi cả hai quay trở về đến nơi xuất phát, Tô Hạc Đình bèn dùng ngọn lửa để thông đường đi lên trên. Bấc đèn nổ “bùm” một tiếng như thúc giục. Tạ Chẩm Thư không nhiều lời. Dùng năng lực của ngôi sao chữ Thập, anh đưa họ về lại đường cũ. May mà đường đi hẹp, lại còn có đèn nên bốn phía sáng trưng, lũ sâu không dám bám theo. Tới khi bò được ra ngoài, Tô Hạc Đình với Giác cùng ngã phịch xuống đất. Ngọn đèn nhỏ lại quay về độ sáng leo lét rạng dở tối dở cũ.
Giác hốt nhiên bật dậy nức nở: “Chẳng còn ai sống cả.”
Tô Hạc Đình: “Phác Lận cũng không ở đó.”
Giác nói: “Vẫn còn người khác mà, mọi người đều bị ăn cả rồi.”
Tô Hạc Đình nín lặng vài giây, rồi cậu bỗng ngồi dậy, thấy Tạ Chẩm Thư đang xem xét nắp giếng. Hai người nhìn nhau ở ngang tầm mắt, Tô Hạc Đình hỏi: “Đúng không?”
Đầu ngón tay Tạ Chẩm Thư vẽ hờ một vòng trên miệng giếng, bảo: “Chắc chắn gần trăm phần trăm.”
Giác: “Gần trăm phần trăm cái gì cơ?”
Tô Hạc Đình: “Lũ sâu này được thả vào đấy.”
Giác cũng ló đầu ra nhìn chiếc nắp giếng mục nát. Tuy nó là một hệ thống thông minh mà nó vẫn không hiểu, phải hỏi: “Ai xấu xa thế?”
Tạ Chẩm Thư nói đơn giản: “Con người.”
Giác: “Gì cơ!”
Tô Hạc Đình định sờ chóp mũi, nhưng nghĩ tới lũ sâu vừa rồi lại lẳng lặng buông tay. Cậu nắm một vốc cát vẩy lên nắp giếng: “Chủ thần đưa bọn họ lên đây thì chắc chắn sẽ không muốn bọn họ bỏ mạng ngay lập tức, lũ sâu bên trong dễ thường là do con người bỏ vào.”
Chiếc nắp giếng này đã bị cạy phá, bọn họ chỉ cần lần lượt bò ra ngoài là xong, nhưng chẳng hiểu chuyện gì đã phát sinh mà người ra ngoài lại thả ngược sâu vào trong để giết hết người bên dưới.
Hồi lâu sau Giác mới cất tiếng: “Để làm gì trời.”
Tiếng nó rất khẽ, chất chứa nỗi buồn khôn nguôi, tới cả chữ “trời” cũng xụi lơ như đã tan nát hết cõi lòng.
Tô Hạc Đình cũng không muốn nó nghĩ con người thật thối nát, bèn bảo: “Không phải ai cũng vậy đâu.”
Chỉ là cậu quả tình không giỏi an ủi người khác, nói thế thì thà đừng nói còn hơn. Nhưng Giác lại gật đầu giống như tin, có điều nó vừa gật đầu thì lá cây bỗng rụng rào rạo.
Tô Hạc Đình sợ điếng người, suýt đã đưa tay ra hứng.
Giác nhặt lá cây của mình lên thả vào trong giếng, sau đó khép cành cây lại niệm như cầu nguyện: “Tôi sẽ nhớ tên mọi người, sẽ không quên từng người một trong các bạn, xin lỗi… Dù không đến được thế giới mới, hãy vẫn an nghỉ nhé.”
Những chiếc lá bóng loáng chậm rãi rơi xuống, biến thành những phiến ánh sáng lấp lánh tựa sao rơi vào vực thẳm. Trong khoảnh khắc ấy, những đốm bạc lóe sáng trong bão cát, ngay cả bóng tối cũng không thể làm phôi pha sự thành kính của Giác.
Tô Hạc Đình bải hoải, cậu dứ cây đèn vào ngực Tạ Chẩm Thư, dứ cả mình vào, bảo: “Em mệt quá, buồn ngủ quá… Oài, phiền ghê.”
Tạ Chẩm Thư ôm nửa thân trên cậu để cậu không bị gió cát quất vào. Đầu Tô Hạc Đình mơ màng mà lại không tài nào ngủ nổi, cậu mệt như thể một sợi nhỉ nhỏ đang ma sát qua lại trong thần kinh cậu, khiến não cậu căng lên choáng váng. Cậu ngoảnh mặt chọc chóp mũi vào cổ áo sơ mi của Tạ Chẩm Thư, lịu nhịu: “Chết mất thôi. Dù em hơi bẩn nhưng tắm cái là được, anh đừng buông em trên mặt đất nhé.”
Giọng làm biếng, cậu biết tính Tạ Chẩm Thư sạch sẽ.
Tạ Chẩm Thư cúi mặt nhìn Tô Hạc Đình một hồi lâu rồi đưa tay ấp gáy cậu, vùi cậu vào ngực mình, “Ừm” một tiếng, bảo: “Không buông.”
Khóe miệng Tô Hạc Đình khẽ nhúc nhích, cậu như một người không xương. Cậu bảo: “Mấy tiếng tiếp em không đi nổi đâu.”
Tạ Chẩm Thư: “Tôi biết.”
Năng lượng của Tô Hạc Đình đã ở mức báo động, nói chuyện cũng vất vả, tiếng cậu nhỏ dần: “Em ngủ một tí đây…”
Mèo cuộn tròn rúc vào lòng anh nhẹ bỗng, vô cùng mong manh. Tạ Chẩm Thư muốn dùng sức mà lại không dám mạnh tay. Cơ thể chứa xương cốt thần của anh dễ khiến anh mất chừng mực, hoặc có lẽ đó chẳng phải vấn đề của xương thần, mà là do chính bản thân anh.
Tô Hạc Đình rất nhẹ, tiếng thở của cậu cũng rất nhẹ. Hồi lâu sau, Tạ Chẩm Thư bế cậu lên. Giác đã cầu nguyện xong, đi tiếp theo Chỉ huy.
Đương đi, Giác hỏi: “Chỉ huy, giờ chúng ta đi đâu?”
Tạ Chẩm Thư không ngoái lại, ngôi sao chữ Thập phát ra ánh sáng lạnh lẽo giữa những đốm bạc. Anh đáp: “Đi tìm người.”
Giác chưa từng hợp tác cùng Tạ Chẩm Thư, nó bèn chạy mấy bước tới trước mặt anh, bảo: “Cần tôi bói hướng đi cho không?”
Tạ Chẩm Thư đáp: “Không cần.”
Giác an tâm đi theo sau anh, chốc chốc lại nhìn Tô Hạc Đình. Mặt Tô Hạc Đình trắng bệch như một tờ giấy, mắt nhắm vờ ngủ suốt. Bọn họ đi như thế được hơn một giờ đồng hồ thì rốt cuộc Tạ Chẩm Thư dừng lại.
Ánh sáng từ ngọn đèn yếu đi, Giác bèn phóng to lên một chút vươn cành cây dò đường trước mặt. Đằng trước là một hố cát trũng, nhìn kích cỡ thì óc vẻ là dấu chân của tượng Phật. Giữa gió cát, Giác nằm dọc xuống mép dấu chân dò xuống, thấy bên dưới có một đoàn người lạnh ngắt nằm la liệt đủ hướng, đều đã chết.
Giác hỏi: “Là bọn họ à? Xem ra bọn họ đang chạy theo tượng Phật, thảo nào chúng ta chưa gặp.”
Một đống hộp cơm chất men hố, Giác đụng vào, chúng liền đổ ra thành canh với mì.
Tô Hạc Đình đương giả vờ ngủ hé một con mắt liếc xuống dưới, nói: “Thì ra là gì tranh giành đồ ăn.”
Số hộp cơm bên dưới rất ít, tất cả đều rỗng không, chắc là một bài kiểm tra khác của chủ thần, cho những người lên mạng tranh giành lẫn nhau vì sinh tồn, dẫn tới những người đã được cải tạo mà mạnh hơn cùng liên minh thả sâu xuống dưới lối đi để giết người sau khi đã trèo được ra ngoài, sau đó cướp thức ăn của tất cả mọi người. Nhìn số lượng hộp cơm thì hẳn bọn họ đã bò được ra ngoài khá lâu, đáng nhẽ phải đụng độ Tạ Chẩm Thư với Tô Hạc Đình một lúc nào đó rồi, nhưng hoặc là bọn họ đi đường vòng, hoặc là thức ăn khan hiếm, bọn họ không muốn san sẻ thêm cho người sống sót nên mới thà chạy theo tượng Phật.
Tô Hạc Đình đang chuẩn bị nhắm mắt thì thấy lá cây của Giác lại rơi. Cậu bèn dừng lại nhắc: “Trọc giờ.”
“Không đâu,” Giác vừa khép cành cây vừa nói, “tôi có thể làm thêm.”
Nó lặng lẽ tỏa sáng, dòng dữ liệu màu xanh lam dưới chân chậm rãi thấm vào hố cát đắp lên các thi thể. Tiếng cầu nguyện lại vang lên, ở lời hứa “Tôi sẽ không quên” thì dòng dữ liệu mờ dần, cuối cùng tan vào những đốm bạc đang bay nhảy theo gió.
Tô Hạc Đình hỏi: “Cô sẽ nhớ từng người một ư?”
Giác đáp: “Tôi sẽ nhớ từng người một.”
Tô Hạc Đình lại hỏi: “Cho dù kẻ đó là người xấu?”
Những phiến lá của Giác lay động theo gió, nó ôn tồn đáp: “Chỉ cần họ từng tồn tại.”
Khi những dữ liệu màu xanh lam biến mất thì các thi thể cũng không còn. Ở thế giới chỉ có ý thức tồn tại này, con người có thể hóa thành những đốm bạc, vô tri vô giác phiêu tán trong bóng đêm, những vết tích tồn tại của cơ thể biến thành bức tranh cát có thể bị dễ dàng lau đi. Tô Hạc Đình cảm giác mình cũng giống những đốm bạc, đều là những người lưu vong đã mất đi xác thịt, một câu “không quên” đơn giản lại cần sự nỗ lực tột cùng của mỗi người.
Sau khi Giác đã thanh lọc xong, bọn họ lại đi quay về lối đi. Nắp giếng che một nửa, bên dưới vẫn đen ngòm. Giác bảo: “Giờ chỉ còn sâu thôi, chúng ta phải nghĩ cách đuổi chúng nó đi, không thì nhóm người sống sót tiếp theo sẽ gặp nạn.”
Tô Hạc Đình: “Vậy phải làm phiền cô trồng hoa bạc trên tường hộ tôi, có ánh sáng thì chúng nó khắc sẽ bỏ đi.”
Giác: “Để tôi thử coi.”
Rễ cây của nó lấp kín lối ra vào, sau khi tiến vào chúng biến thành những luồng dữ liệu màu lam. Tuy Giác có thể đi lại ở đây, nhưng đó là vì nó dựa vào virus màu xanh lam do Tô Hạc Đình bố trí, bởi vậy những nơi mà nó đi qua luồng dữ liệu màu lam mới có thể chảy tới. Những dữ liệu màu lam ấy chậm rãi chảy xuống, lại lần nữa gặp màu xanh lá đan xen vào nhau thành những sắc màu loang lổ, bạt ngàn hoa bạc mọc lên theo đường chúng chảy.
Tô Hạc Đình búng vào cây đèn, đèn khẽ đong đưa như lời chỉ dẫn lặng câm. Những đốm bạc chung quanh tức thì tụ về, chúng lần lượt bay vào trong giếng, chui vào trong những đóa hoa để làm nhụy.
Phù—
Không có gió mà những đóa hoa bạc vẫn tự đong đưa, cành lá dập dờn tựa giải ngân hà tràn đầy lòng đất.
Tô Hạc Đình nói: “Những vật mà Chủ thần tạo ra ưa náu trong bóng tối nên đều sợ ánh sáng. Hephaestus từng chế tạo ra một con tên là ‘Chúc Dung’, tay cầm quyền trượng lửa, bắt chước theo vị thần sơn hải cũ, tôi nghi là tất cả nguồn sáng của Khu số 14 đều đang nằm trong tay nó hết.”
Tạ Chẩm Thư nhìn vào nơi bóng tối sâu thẳm, ở đó vẫn văng vẳng truyền tới tiếng Phật tụng kinh tựa một cơn ác mộng. Gió thổi vô tận nơi Điểm Kết nhưng lại không hề có ảnh lửa, nếu Chúc Dung vẫn còn ở đây thì chắc chắn nó đang trốn ở một nơi khác.
Giác quyết tâm dồn lực trồng hoa, trồng xong mới mở miệng: “Nếu có ánh sáng thì mọi người sẽ khỏi cần trốn trong bóng tối nữa.”
Tô Hạc Đình: “Không, chỉ có mỗi ánh sáng thôi thì không đủ, chúng ta cần Mặt Trời nữa.”
Giác kêu lên: “Apollo!”
Tô Hạc Đình: “Hơ, chúng ta không cần cái ngữ ăn hại đó đâu.”
Cậu rất khinh Apollo, nói năng cũng chẳng buồn giả vờ cả nể.
Giác suy ngẫm một hồi, bỗng vỗ cành cây phấn chí reo lên: “Thế thì mình tự nặn một cái là được.”
Nó không chỉ có dữ liệu của Khu số 14 mà còn có tài nguyên chủ thần mà Artemis để lại, chỉ việc cắt ra một lỗ thủng rồi điền vào đó như hướng dẫn là được, cũng chẳng phải việc gì khó.
“Nhưng quy trình thì rất phức tạp,” Giác nói, “tôi sẽ cần chút thời gian.”
Tô Hạc Đình: “Không phải vội, trước mắt thứ mà chúng ta có thừa chính là thời gian mà. Đang có virus thì tạm thời chủ thần cũng không động gì được đến mình đâu.”
Giác đang định bảo gì đó thì bỗng “Ồ” tiếng, sờ tàng cây mình bảo: “Tôi, tôi nở hoa này!”
Hai người đang không để ý bèn quay ra nhìn lại, quả thật giữa tán cây của nó vô vàn những bông hoa nhỏ lấp lánh đang bung nổ, tỏa ra mùi hương vô cùng ngọt ngào. Kể cũng lạ, Giác chưa từng nếm được vị, trước kia trong Săn bắn, nó thường đi uống rượu số liệu với Giác sau giờ làm. Phác Lận miêu tả mùi vị của rượu cho nó, dựa vào trí tưởng tượng, nó đã đính thêm rất nhiều từ hay ý đẹp cho hương vị ấy, lúc này nó lại biến thành một mùi hương đặc biệt, siêu thực tế.
Tô Hạc Đình khẽ ngửi, cười: “Ồ… Giống mùi của trời tuyết, mát lạnh sảng khoái tinh thần. Chỉ huy, anh ngửi thấy không?”
Trời tuyết nào có mùi, ấn tượng của Tô Hạc Đình đối với trời tuyết đều đến từ Tạ Chẩm Thư, thế nên mùi mà cậu ngửi được chẳng qua là mùi giống Tạ Chẩm Thư thôi.
Mái tóc Tạ Chẩm Thư bị thổi tán loạn, anh “Ừ” tiếng, nhớ tới giấc mơ đẹp đẽ mà Càn Thát Bà tạo nên. Thứ mà anh ngửi được không phải trời tuyết, mà là kẹo và sô-cô-la. Nhưng anh không phản bác Tô Hạc Đình, chỉ đáp hồi lâu sau: “Ngọt.”
Tô Hạc Đình ngạc nhiên: “Ngọt á? Kem à?”
Tạ Chẩm Thư: “Cũng gần như vậy.”
Hai người đang nói chuyện thì Giác bỗng nhảy cẫng lên như bị giật điện, phấn khích chỉ vào lối đi: “Báo cáo Chỉ huy, tôi cảm giác có người sắp lên mạng!”
Tô Hạc Đình cũng bắt chước theo: “Báo cáo Chỉ huy, chắc là nhóm người sống sót thứ hai đấy, chúng ta cần phải xuống kiểm tra… Này, đừng ném em nữa đấy nhé!”
Tạ Chẩm Thư ôm cậu ngang lưng, ngay giây phút những mảnh hình thoi đen xuất hiện, anh cũng nhảy vào lối đi theo. Lần này có hoa bạc chiếu sáng nên không còn căng thẳng nữa, vạt áo hai người bay phần phật. Lúc bấy giờ Giác mới vỡ ra, nó nằm trên lối vào ới một tiếng xuống, kêu: “Hai người quên tôi rồi này!”
Tạ Chẩm Thư đáp: “Canh cửa.”
Bình luận truyện