Đoàn Tàu Luân Hồi - Khởi Động Lại [Không Giới Hạn]
Chương 5: Phần 1: Làng Phật Cổ - Chương 3
Bốn cụ già cũng không trả lời xác nhận, mà vẻ mặt lại nói rõ tất cả, rất hiển nhiên, Ngũ Hạ Cửu nói đúng.
Làng này tên gọi là làng Phật.
Chờ bốn người già đi rồi, Ngũ Hạ Cửu mở đống chăn đệm được buộc gọn ra, bắt đầu phân chia.
Chăn đệm lâu chưa dùng tới, thoạt nhìn cũ mèm rách rưới, có vài chỗ còn có mụn vá.
Sau khi vừa mở ra, một mùi ẩm mốc bay ra, mặt trên còn có một ít tro bụi, lông động vật.
“Khụ khụ.”
Thân thể A Miêu hơi nghiêng một chút, bị tro bụi làm sặc.
Mặt Mễ Thái đầy ghét bỏ, nhấc một góc chăn lên nói:
“Bao lâu rồi không giặt không phơi nắng? Cũng quá bẩn rồi, thứ này còn có thể cho người đắp sao?”
Mà vào đêm trời trở lạnh, không đắp thì phải chịu rét, chỉ dựa vào quần áo trên người hiển nhiên không đủ giữ ấm.
Bởi vậy có không muốn cũng phải chịu.
Trước khi dùng chăn đệm, tốt nhất nên cố gắng phẩy sạch tro bụi.
Có người cảm thấy đắp tạm là được, liền ôm chăn đệm trở về phòng trải ra.
Ngoài phòng tầng hai, A Miêu không nén nổi nhìn về phía Ngũ Hạ Cửu hỏi:
“Quan chủ, làm sao cậu lại biết tên của ngôi làng này? Chẳng lẽ là bởi vì bên trong ngôi làng có nhiều thứ liên quan đến Phật Tổ?”
Tên làng cũng có thể căn cứ vào tên chùa để gọi, ví dụ như là làng Vạn Tân chẳng hạn, cũng không nhất định phải dùng chữ ‘Phật’.
Ngũ Hạ Cửu thành thục phủi chăn, nghe vậy hơi lùi về phía sau hai bước, tránh né đám bụi bay bay, nói:
“Ừ, tượng Phật bên trong làng hầu hết đều là Phật Thích Ca Mâu Ni.”
“ ‘Phật Tổ’ là phiên âm dịch từ tiếng Phạn, trong tiếng Phạn có nghĩa là Phật Đà, là tôn xưng của tín đồ đạo Phật với đức Phật Thích Ca Mâu Ni.”
“Hơn nữa cụ già kia có nói, bốn ngày sau bên trong làng tổ chức lễ hội Niết Bàn, kết hợp với chữ viết còn sót lại trên đỉnh và các câu chuyện cũ được khắc trên hai trụ đá ở cổng làng, không khó đoán ra.”
Tuy hai chữ kia đã khó nhìn nhận được nhưng manh mối chỉ ra lại có không ít.
Mễ Thái đứng một bên nghe đến sững sờ, sau đó liền mơ hồ, mở miệng hỏi:
“Hai cái trụ đá ngoài cổng làng có kể chuyện xưa hả? Thế lễ hội Niết Bàn lại là lễ hội như thế nào?”
“Sao cậu hiểu nhiều như vậy, cậu là đạo sĩ phải không?”
Lý Thiên Thiên và A Chí cũng không khỏi nhìn sang.
Ngũ Hạ Cửu phúi xong tro bụi liền cẩn thận gấp gọn chăn lại, một tay ôm lấy, nâng mắt nói:
“Lễ hội Niết Bàn là ngày lễ tưởng nhớ ngày Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni qua đời của Phật giáo.”
“Tôi biết nhiều như vậy là bới vì ngày thường đọc nhiều sách."
“Hiểu biết nhiều thì lại làm sao, ở đây cũng không phải chỉ dựa vào đầu óc là được, có vài người thông minh cũng chả sống nổi đến cuối cùng."”
Một tiếng cười nhạo bỗng vang lên từ phía sau.
Ngũ Hạ Cửu quay đầu, đám người Hoàng Nha, Chủ quản từ trong phòng đi ra.
Hoàng Nha:
“Các cô cậu tưởng đi đến đây để du xuân chắc? Làm mấy việc thừa thãi, còn không mau tụ họp!”
Chủ quản đứng phía sau nói:
“Chúng tôi dự định đi đến chùa Vạn Tự xem một chút, tìm xem có manh mối của vé tàu hay không, dù sao làng này cũng có liên hệ với Phật Tổ.”
Nếu như trùng hợp bổ sung được một số thông tin khuyết thiếu, tỷ lệ thu được vé tàu tốt cũng cao hơn một chút.
Ai mà không muốn mình sống lâu hơn.
Tỷ như A Miêu Mễ Thái chẳng hạn, khi vừa nghe Chủ quản nói xong vội vàng chạy vào phòng cất chăn đệm, A Miêu còn thuận tay kéo Ngũ Hạ Cửu đang chậm rề rề đi, khiến động tác của cậu cũng vội theo.
Ngũ Hạ Cửu không từ chối ý tốt của A Miêu.
Phạm vi của làng Phật khá lớn mà người dân trong làng lại thưa thớt, hơn nữa còn toàn là người già, trên đường đi tỷ lệ gặp được người gần như rất ít.
Có cụ già biết được họ muốn đến chùa Vạn Tân, lập tức cười ha hả nói:
"Đi chùa Vạn Tân cúng bái rất tốt nha, cầu xin bồ tát che chở, có thể được bình an.”
Xem ra, mấy cụ già rất gắn bó với chùa Vạn Tân.
Mà Ngũ Hạ Cửu lại dấy lên nghi ngờ, nếu như những người già trong ngôi làng này vẫn vái Phật cầu Phật như trước, vẫn tôn sùng và kính trọng với chùa Vạn Tân, thì tại sao lại hủy đi chữ viết trên đỉnh trại?
Việc này thực sự quá mâu thuẫn, không hợp lý tẹo nào.
Trong khi suy nghĩ, chùa Vạn Tân đã ở ngay trước mắt.
Ngôi chùa này có tường bao sơn màu vàng cam, bên ngoài trồng đầy những cây tùng và cổ thụ xanh biếc, cột trụ hai bên màu than chì, phía trên có khắc rất nhiều đám mây, phù điêu tượng Phật các loại.
Bảng hiệu có chữ ‘Chùa Vạn Tân’ treo lơ lửng, bên dưới là cánh cổng chùa mở rộng.
Hoàng Nha dẫn đầu đi vào tìm một vòng, phát hiện bên trong chùa không có một bóng người.
Ngôi chùa không lớn, chỉ có một pho tượng Phật lớn đặt ở điện chính, bàn thờ, lư hương, mõ gỗ, đệm hương bồ, đều có đủ, chỉ độc không thấy một nén nhang nào cả.
Toàn bộ điện chính trống rỗng, nhưng vẫn khá sạch sẽ, không biết trước kia khi đèn nhang hưng thịnh thì có bộ dạng như thế nào.
Ngũ Hạ Cửu vốn tưởng rằng lần này đến chùa Vạn Tân chắc là công cốc, tìm đi tìm lại vài vòng chẳng có phát hiện gì.
Hoàng Nha đang định rời đi thì ở cổng chùa bỗng nhiên có một ông cụ bước vào.
Trong ngực ông cụ ôm thứ gì đó, nhìn thấy bọn họ liền dừng lại, hỏi:
“Đến bái Phật à?”
Hoàng Nha đứng gần ông lão, bởi vì không thu hoạch được gì nên tâm tình khá nóng nảy:
“Bái Phật cái nỗi gì, một cây nhang cũng không có.”
Ông lão nói:
“Vừa đúng lúc, tôi có mang theo nhang Phật đến đây."
“Trong làng này còn mỗi mình tôi làm người chế tạo nhang, nhang mà mấy cô cậu muốn cũng chỉ có tôi có mà thôi, bình thường tôi cũng là người trông coi chùa Vạn Tân này, ít người đến lắm.”
Ông lão vừa nói vừa đi vào điện chính, giở gói giấy trong ngực ra đặt trên bàn thờ, một bó nhang liền lộ ra.
Ông lão bảo bọn họ tự lấy mà dùng.
“Muốn, muốn bái sao?”
Bình An ấp úng hỏi.
Anh ta muốn bái nhưng đám Hoàng Nha vẫn không động dậy, anh ta cũng không dám tự ý làm.
“Bái chứ, không phải là đảm bảo sẽ bình an sao.”
Mễ Thái nói, tiến lên cầm lấy ba cây nhang.
Sau khi xin lửa đốt lên, Mễ Thái lạy ba lạy, đem nhang cắm vào lư hương, khói lượn lờ bay lên, nháy mắt bên trong điện liền có mấy phần hơi thở nhang đèn.
Mễ Thái lùi sang một bên, lão Đậu tiến lên.
Bình An thấy thế, cũng đuổi theo sát phía sau lấy nhang, những người khác cũng thế.
Tạm thời Mễ Thái không có việc gì để làm, tìm ông lão làm nhang kia hỏi chuyện:
“Xin hỏi ông tên gọi là gì?”
Ông lão:
“Hoàng Kế Hành, gọi tôi là ông Hoàng là được rồi.”
“Chàng trai trẻ này không đi lấy hương cúi đầu bái Phật ư?”
Câu nói sau đương nhiên là không nói với Mễ Thái, cậu ta nhìn theo ánh mắt của ông lão, thì thấy Ngũ Hạ Cữu vẫn đứng tại chỗ không hề nhúc nhích.
Ngũ Ha Cửu nhàn nhạt nói:
“Tôi không bái Phật.”
Mễ Thái:
“Đúng nhỉ, cậu là đạo sĩ, phái không giống nhau.”
“Nhưng mà nếu để bình an thì cũng không cần suy nghĩ nhiều như vây, cúi đầu xuống thì không phân biệt thần tiên hay ma quái… Ôi chao? Cậu đi đâu đấy?”
“Tùy tiện đi loanh quanh thôi.”
Ngũ Hạ Cửu nói.
Mễ Thái vò tóc.
Khi Ngũ Hạ Cửu sắp bước qua ngưỡng cửa chùa, quay đầu lại liếc nhìn môt cái. Ông Hoàng đứng ở giữa điện chính yên lặng nhìn chằm chằm bóng lưng của cậu, sao khi nhìn thẳng vào cậu, ông ta bỗng nứt ra một vệt tươi cười.
Làng này tên gọi là làng Phật.
Chờ bốn người già đi rồi, Ngũ Hạ Cửu mở đống chăn đệm được buộc gọn ra, bắt đầu phân chia.
Chăn đệm lâu chưa dùng tới, thoạt nhìn cũ mèm rách rưới, có vài chỗ còn có mụn vá.
Sau khi vừa mở ra, một mùi ẩm mốc bay ra, mặt trên còn có một ít tro bụi, lông động vật.
“Khụ khụ.”
Thân thể A Miêu hơi nghiêng một chút, bị tro bụi làm sặc.
Mặt Mễ Thái đầy ghét bỏ, nhấc một góc chăn lên nói:
“Bao lâu rồi không giặt không phơi nắng? Cũng quá bẩn rồi, thứ này còn có thể cho người đắp sao?”
Mà vào đêm trời trở lạnh, không đắp thì phải chịu rét, chỉ dựa vào quần áo trên người hiển nhiên không đủ giữ ấm.
Bởi vậy có không muốn cũng phải chịu.
Trước khi dùng chăn đệm, tốt nhất nên cố gắng phẩy sạch tro bụi.
Có người cảm thấy đắp tạm là được, liền ôm chăn đệm trở về phòng trải ra.
Ngoài phòng tầng hai, A Miêu không nén nổi nhìn về phía Ngũ Hạ Cửu hỏi:
“Quan chủ, làm sao cậu lại biết tên của ngôi làng này? Chẳng lẽ là bởi vì bên trong ngôi làng có nhiều thứ liên quan đến Phật Tổ?”
Tên làng cũng có thể căn cứ vào tên chùa để gọi, ví dụ như là làng Vạn Tân chẳng hạn, cũng không nhất định phải dùng chữ ‘Phật’.
Ngũ Hạ Cửu thành thục phủi chăn, nghe vậy hơi lùi về phía sau hai bước, tránh né đám bụi bay bay, nói:
“Ừ, tượng Phật bên trong làng hầu hết đều là Phật Thích Ca Mâu Ni.”
“ ‘Phật Tổ’ là phiên âm dịch từ tiếng Phạn, trong tiếng Phạn có nghĩa là Phật Đà, là tôn xưng của tín đồ đạo Phật với đức Phật Thích Ca Mâu Ni.”
“Hơn nữa cụ già kia có nói, bốn ngày sau bên trong làng tổ chức lễ hội Niết Bàn, kết hợp với chữ viết còn sót lại trên đỉnh và các câu chuyện cũ được khắc trên hai trụ đá ở cổng làng, không khó đoán ra.”
Tuy hai chữ kia đã khó nhìn nhận được nhưng manh mối chỉ ra lại có không ít.
Mễ Thái đứng một bên nghe đến sững sờ, sau đó liền mơ hồ, mở miệng hỏi:
“Hai cái trụ đá ngoài cổng làng có kể chuyện xưa hả? Thế lễ hội Niết Bàn lại là lễ hội như thế nào?”
“Sao cậu hiểu nhiều như vậy, cậu là đạo sĩ phải không?”
Lý Thiên Thiên và A Chí cũng không khỏi nhìn sang.
Ngũ Hạ Cửu phúi xong tro bụi liền cẩn thận gấp gọn chăn lại, một tay ôm lấy, nâng mắt nói:
“Lễ hội Niết Bàn là ngày lễ tưởng nhớ ngày Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni qua đời của Phật giáo.”
“Tôi biết nhiều như vậy là bới vì ngày thường đọc nhiều sách."
“Hiểu biết nhiều thì lại làm sao, ở đây cũng không phải chỉ dựa vào đầu óc là được, có vài người thông minh cũng chả sống nổi đến cuối cùng."”
Một tiếng cười nhạo bỗng vang lên từ phía sau.
Ngũ Hạ Cửu quay đầu, đám người Hoàng Nha, Chủ quản từ trong phòng đi ra.
Hoàng Nha:
“Các cô cậu tưởng đi đến đây để du xuân chắc? Làm mấy việc thừa thãi, còn không mau tụ họp!”
Chủ quản đứng phía sau nói:
“Chúng tôi dự định đi đến chùa Vạn Tự xem một chút, tìm xem có manh mối của vé tàu hay không, dù sao làng này cũng có liên hệ với Phật Tổ.”
Nếu như trùng hợp bổ sung được một số thông tin khuyết thiếu, tỷ lệ thu được vé tàu tốt cũng cao hơn một chút.
Ai mà không muốn mình sống lâu hơn.
Tỷ như A Miêu Mễ Thái chẳng hạn, khi vừa nghe Chủ quản nói xong vội vàng chạy vào phòng cất chăn đệm, A Miêu còn thuận tay kéo Ngũ Hạ Cửu đang chậm rề rề đi, khiến động tác của cậu cũng vội theo.
Ngũ Hạ Cửu không từ chối ý tốt của A Miêu.
Phạm vi của làng Phật khá lớn mà người dân trong làng lại thưa thớt, hơn nữa còn toàn là người già, trên đường đi tỷ lệ gặp được người gần như rất ít.
Có cụ già biết được họ muốn đến chùa Vạn Tân, lập tức cười ha hả nói:
"Đi chùa Vạn Tân cúng bái rất tốt nha, cầu xin bồ tát che chở, có thể được bình an.”
Xem ra, mấy cụ già rất gắn bó với chùa Vạn Tân.
Mà Ngũ Hạ Cửu lại dấy lên nghi ngờ, nếu như những người già trong ngôi làng này vẫn vái Phật cầu Phật như trước, vẫn tôn sùng và kính trọng với chùa Vạn Tân, thì tại sao lại hủy đi chữ viết trên đỉnh trại?
Việc này thực sự quá mâu thuẫn, không hợp lý tẹo nào.
Trong khi suy nghĩ, chùa Vạn Tân đã ở ngay trước mắt.
Ngôi chùa này có tường bao sơn màu vàng cam, bên ngoài trồng đầy những cây tùng và cổ thụ xanh biếc, cột trụ hai bên màu than chì, phía trên có khắc rất nhiều đám mây, phù điêu tượng Phật các loại.
Bảng hiệu có chữ ‘Chùa Vạn Tân’ treo lơ lửng, bên dưới là cánh cổng chùa mở rộng.
Hoàng Nha dẫn đầu đi vào tìm một vòng, phát hiện bên trong chùa không có một bóng người.
Ngôi chùa không lớn, chỉ có một pho tượng Phật lớn đặt ở điện chính, bàn thờ, lư hương, mõ gỗ, đệm hương bồ, đều có đủ, chỉ độc không thấy một nén nhang nào cả.
Toàn bộ điện chính trống rỗng, nhưng vẫn khá sạch sẽ, không biết trước kia khi đèn nhang hưng thịnh thì có bộ dạng như thế nào.
Ngũ Hạ Cửu vốn tưởng rằng lần này đến chùa Vạn Tân chắc là công cốc, tìm đi tìm lại vài vòng chẳng có phát hiện gì.
Hoàng Nha đang định rời đi thì ở cổng chùa bỗng nhiên có một ông cụ bước vào.
Trong ngực ông cụ ôm thứ gì đó, nhìn thấy bọn họ liền dừng lại, hỏi:
“Đến bái Phật à?”
Hoàng Nha đứng gần ông lão, bởi vì không thu hoạch được gì nên tâm tình khá nóng nảy:
“Bái Phật cái nỗi gì, một cây nhang cũng không có.”
Ông lão nói:
“Vừa đúng lúc, tôi có mang theo nhang Phật đến đây."
“Trong làng này còn mỗi mình tôi làm người chế tạo nhang, nhang mà mấy cô cậu muốn cũng chỉ có tôi có mà thôi, bình thường tôi cũng là người trông coi chùa Vạn Tân này, ít người đến lắm.”
Ông lão vừa nói vừa đi vào điện chính, giở gói giấy trong ngực ra đặt trên bàn thờ, một bó nhang liền lộ ra.
Ông lão bảo bọn họ tự lấy mà dùng.
“Muốn, muốn bái sao?”
Bình An ấp úng hỏi.
Anh ta muốn bái nhưng đám Hoàng Nha vẫn không động dậy, anh ta cũng không dám tự ý làm.
“Bái chứ, không phải là đảm bảo sẽ bình an sao.”
Mễ Thái nói, tiến lên cầm lấy ba cây nhang.
Sau khi xin lửa đốt lên, Mễ Thái lạy ba lạy, đem nhang cắm vào lư hương, khói lượn lờ bay lên, nháy mắt bên trong điện liền có mấy phần hơi thở nhang đèn.
Mễ Thái lùi sang một bên, lão Đậu tiến lên.
Bình An thấy thế, cũng đuổi theo sát phía sau lấy nhang, những người khác cũng thế.
Tạm thời Mễ Thái không có việc gì để làm, tìm ông lão làm nhang kia hỏi chuyện:
“Xin hỏi ông tên gọi là gì?”
Ông lão:
“Hoàng Kế Hành, gọi tôi là ông Hoàng là được rồi.”
“Chàng trai trẻ này không đi lấy hương cúi đầu bái Phật ư?”
Câu nói sau đương nhiên là không nói với Mễ Thái, cậu ta nhìn theo ánh mắt của ông lão, thì thấy Ngũ Hạ Cữu vẫn đứng tại chỗ không hề nhúc nhích.
Ngũ Ha Cửu nhàn nhạt nói:
“Tôi không bái Phật.”
Mễ Thái:
“Đúng nhỉ, cậu là đạo sĩ, phái không giống nhau.”
“Nhưng mà nếu để bình an thì cũng không cần suy nghĩ nhiều như vây, cúi đầu xuống thì không phân biệt thần tiên hay ma quái… Ôi chao? Cậu đi đâu đấy?”
“Tùy tiện đi loanh quanh thôi.”
Ngũ Hạ Cửu nói.
Mễ Thái vò tóc.
Khi Ngũ Hạ Cửu sắp bước qua ngưỡng cửa chùa, quay đầu lại liếc nhìn môt cái. Ông Hoàng đứng ở giữa điện chính yên lặng nhìn chằm chằm bóng lưng của cậu, sao khi nhìn thẳng vào cậu, ông ta bỗng nứt ra một vệt tươi cười.
Bình luận truyện