Eragon 4 (Inheritance) - Di Sản Thừa Kế
Chương 58: Eragon càu nhàu
Họ đi tiếp, chờ đợi mỗi bước tiếp theo sẽ gặp bẫy. Nhưng cả đoạn đường còn lại trong tiền sảnh có vẻ không có chướng ngại nào hết, khi họ tới bên cánh cửa không trắc trở gì.
Eragon nhìn lên mảng vàng tỏa sáng. Dọc cánh cửa được chạm khắc hình cây sồi kích cỡ như thật, vòm lá uống thành hình vòng cung cùng với bộ rễ vẽ nên một vòng tròn quanh thân cây. Từ khoảng giữa thân cây mỗi bên mọc ra hai nhánh cây to đùng. Ở mảng phía trên bên trái chạm hình một đoàn quân tiên nhân cầm thương hành quân ra từ khu rừng rậm. Ở khoảng trên bên phải là con người đang xây lâu đài và rèn gươm. Ở phía dưới bên trái, Urgal – phần lớn là Kull – đốt phá làng mạc và giết người. Ở phía dưới bên phải, người lùn khai mỏ đầy khoáng thạch và vỉa quặng. Giữa thân và cành cây sồi, Eragon nhận thấy ma mèo và Ra’zac, còn có một loài vật nhỏ kì lạ mà nó không nhận ra. Cuộc chính giữa thân cây là một con rồng đang ngậm đuôi như thể cắn chính mình. Cánh cửa được chạm khắc tuyệt đẹp. Nếu ở tình cảnh khác, nó sẵn sàng bỏ cả ngày ra ngồi đây nghiên cứu chúng.
Ánh sáng chói lọi của cánh cổng làm nó dâng lên cảm giác khiếp đảm khi cân nhắc thứ gì phía bên kia. Nếu đó là Galbatorix, thì cuộc đời của họ sẽ thay đổi mãi mãi và không bao giờ như trước nữa – cả cho họ lẫn toàn bộ Alagaësia.
Anh chưa sẵn sàng, Eragon thì thào với Saphira.
Từ khi nào bọn mình sẵn sàng vậy? Cô nàng thè lưỡi đớp không khí. Nó có thể thấy cô nàng đề phòng rất căng thẳng. Galbatorix lẫn Shruikan đều phải bị tiêu diệt, và chúng mình là người duy nhất có thể làm chuyện đó.
Nếu chúng mình không thể thì sao?
Thì không thể thôi, cái gì phải đến sẽ đến.
Nó gật nhẹ đầu, hít sâu một hơi. Anh yêu em, Saphira.
Em cũng yêu anh, anh nhỏ.
Eragon bước lên. “Giờ sao?” Nó hỏi cố giấu sự khó thở. “Ta có nên gõ cửa không?”
“Đầu tiên, cứ xem nó có mở không đã,” Arya nói.
Họ dàn hàng sẵn sàng cho trận đấu. Rồi Arya, bên cạnh Elva, nắm lấy tay cầm cánh cửa bên phải và chuẩn bị kéo.
Ngay lúc đó, một cột ánh sáng lung linh quấn quanh Blödhgarm và mười tiên nhân bên cạnh ông. Eragon thét lên cảnh báo, Saphira rít lên như thể dẫm lên vật nhọn. Các tiên nhân không thể di chuyển trong cột sáng: kể cả mắt họ cũng có vẻ bất động ngay từ lúc phép thuật có tác dụng.
Có tiếng cạch nặng nề vang lên, cánh cửa từ tường bên trái mở ra, các tiên nhân trượt về phía đó như thể những bước tượng trên mặt băng.
Arya lao theo, vươn ngạnh thương ra cố chọc thủng bùa chú trói buộc các tiên nhân, nhưng cô không theo kịp họ.
“Letta!” Eragon la lên. Dừng lại! Pháp thuật đơn giản nhất nó nghĩ có thể giúp được. Nhưng bùa chú ếm lên các tiên nhân có vẻ quá mạnh để nó có thể phá, họ biến mất trong bóng tối, cánh cửa đóng sập lại phía sau.
Cảm giác chán nản dâng trong lòng Eragon. Không có các tiên nhân …
Arya đập mạnh cánh cửa bằng cán thanh Dauthdaert, cố tìm kẽ hở giữa cánh cửa và bức tường bằng ngọn thương – như đã làm với cổng ngoài – nhưng bức tường dường như đặc kín, bất động.
Cô quay lại, vẻ mặt lạnh lẽo điên tiết. Umaroth, cô yêu cầu. Tôi cần sự giúp đỡ của người để mở cửa.
Không, con rồng trắng đáp. Galbatorix chắc chắn giấu những người kia rất kĩ. Cố tìm họ chỉ lãng phí năng lượng và đặt chúng ta vào tình thế nguy hiểm hơn.
Arya nhíu mày giận giữ. Thế thì chúng ta lọt bẫy lão mất, Umaroth-tiền-bối. Lão muốn tách chúng ta ra cho yếu đi. Nếu tiếp tục đi mà không có họ, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta hơn.
Phải rồi, nhóc con. Nhưng ngươi có nghĩ Kẻ Phản Đồ(nguyên văn: Egg-breaker)muốn chúng ta lần theo họ không? Hắn có thể muốn chúng ta quên mất lão ta trong lo lắng, giận dữ, mù quáng nhảy vào một cái bẫy khác.
Sao lão phải lắm chuyện như thế? Lão có thể bắt Eragon, Saphira, người và toàn bộ các Eldunarí hệt như đã tóm mấy người Blödhgarm kia mà, nhưng lão không làm thế.
Có lẽ hắn muốn chúng ta tự kiệt sức trước khi đối mặt hắn hoặc trước khi hắn đánh bại chúng ta.
Aray cúi đầu suy nghĩ, rồi khi ngẩng lên cơn thịnh nộ của cô tan đi – ít ra là bề ngoài – thay bằng vẻ cảnh giác cao độ bình thường. Vậy chúng ta nên làm gì, Ebrithil?
Chúng ta hy vọng Galbatorix sẽ không giết mấy người Blödhgarm, ít ra là ngay lập tức , và tiếp tục cho đến khi tìm thấy nhà vua.
Dù Arya chấp thuận, nhưng Eragon có thể thấy cô thực khó chịu. Nó không thể đổ lỗi cho cô được vì chính nó cũng thấy vậy.
“Sao em không cảm thấy cái bẫy?” Nó nhẹ giọng hỏi Elva. Nó nghĩ mình hiểu, những vẫn muốn nghe lý do từ cô bé.
“Vì nó không làm họ đau,” cô bé nói.
Nó gật nhẹ.
Arya lui về phía cánh cửa vàng, nắm lấy tay cầm bên trái. Elva cũng nắm lấy cán thanh Dauthdaert.
Arya nghiêng người kéo, rồi cánh cửa vĩ đại chầm chậm mở ra. Eragon dam chắc không con người nào đủ sức mở nó, kể cả với sức mạnh của Arya.
Khi cánh cửa chạm bức tường, Arya thả ra, cùng Elva bước theo Eragon phía trước Saphira.
Phía bên kia cổng tò vò là một căn phòng khổng lồ tối tăm. Eragon không dám chắc nó lớn cỡ nào, vì những bức tường mờ ẩn trong bóng tối xám xịt. Một hàng đèn-lồng-không-lửa đặt trên các cột sắt chạy dọc hai bên lối vào, thắp sáng mù mờ sàn nhà chạm trổ, trong khi ánh sáng mù mờ tỏa ra từ những tinh thể gắn trên trần nhà xa xa. Hai hàng đèn lồng dài chừng năm trăm thước tới gần cái bệ rộng, trên đó là ngai vàng. Một bóng dáng duy nhất ngồi đơn độc trong căn phòng, dưới vạt áo hắn là thanh gươm trần trắng dài, đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.
Eragon nuốt nước bọn, nắm chặt thanh Brisingr. Nó gãi nhẹ cằm Saphira bằng cạnh khiên, cô nàng táp lưỡi nhẹ đáp trả. Rồi không nói gì, cả bốn cùng tiến lên.
Khi họ tiến vào phòng, cánh cửa vào đóng sập lại phía sau. Eragon cũng đoán trước được, nhưng tiếng động vẫn làm nó giật mình. m thanh vang vọng nhạt dần nhường chỗ cho sự im lặng tỏa khắp căn phòng lớn, bóng dáng phía trên ngai cựa mình như thức giấc, rồi một giọng nói – thứ giọng Eragon chưa từng nghe: nó trầm và mãnh liệt, thấm đầy uy lực hơn cả Ajihad hay Oromis hay Hrothgar, kể cả tiếng nói của tiên nhân cũng trở nên chói tai khó nghe khi so với nó – vang lên từ phía xa căn phòng.
Giọng nói đó bảo, “À, ta đang chờ mọi người đây. Chào mừng tới tệ xá. Và nhất là cậu đấy, Eragon Khắc tinh của Tà thần, và cho ngươi, Saphira Vảy Sáng. Ta rất mong gặp các cậu. Nhưng ta cũng hân hạnh gặp cô nữa, Arya – ái nữ của Islanzadí, mà cũng là Khắc tinh của Tà thần phải không – cả cô bé nữa, Elva My Rạng (nguyên văn: she of the Shining Brow). Dĩ nhiên, cả Glaedr, Umaroth, Valdr, những người du hành vô hình nữa. Ta tưởng họ đã mất lâu rồi, nhưng giờ thật mừng vì ta đã lầm. Chào mừng tất cả mọi người! Chúng ta phải nói chuyện thật nhiều mới được.”
Trái tim của cuộc chiến
Cùng các binh sĩ trong tiểu đoàn, Roran chiến đấu từ trên tường thành Urû’baen xuống đường phố bên dưới. Họ ngừng một chút tập hợp, anh vừa hô, “Ra cổng!” vừa chĩa búa theo hướng đó.
Anh cùng vài dân làng Carvahall, có cả chú Horst và Delwin, dẫn đầu tấn công về phía lỗ thủng các tiên nhân tạo ra bằng phép thuật. Cung tên bay tán loạn trên đầu họ, nhưng không nhắm thẳng vào họ, anh cũng không nghe thấy ai trong nhóm bị trúng tên cả.
Họ đúng đầu vài tá binh lính trong khoảng ngõ hẹp giữa tường thành và những ngôi nhà đá. Một số ở lại chiến đấu để hầu hết tiếp tục chạy, nhưng kể cả họ cũng sớm rút vào những hẻm gần kề.
Lúc đầu cảm giác cuồng nhiệt được giết chóc và chiến thắng làm mờ mắt Roran. Nhưng rồi khi bọn lính họ gặp bỏ chạy liên tục, cảm giác lo lắng cuộn lên trong Roran, anh bắt đầu nhìn xung quanh đầy cảnh giác, tìm kiếm bất kì thứ gì trông lạ thường.
Có gì đó không ổn. Anh chắc chắn.
“Galbatorix không bỏ rơi chúng dễ vậy chứ”, anh lẩm bẩm.
“Gì thế?” Albriech đứng cạnh anh hỏi.
“Tôi nói, Galbatorix sẽ không bỏ rơi chúng như thế này đâu.” Ngoẹo đầu nhìn quanh, Roran hô lên với cả tiểu đoàn, “Đề cao cảnh giác nào! Tôi cuộc Galbatorix có thể còn nhiều thứ bất ngờ đấy. Chúng ta sẽ không để bị đánh bại mà không hiểu chuyện gì chứ, phải không?”
“Cây Búa Dũng Mãnh!” họ kêu gào đáp trả, vũ khí đặt sát khiên. Tất cả, trừ các tiên nhân. Đã thỏa mãn, anh bước nhanh tới kiểm tra các mái nhà.
Họ nhanh chóng tiến vào một con phố đầy sỏi đá dẫn thẳng đến nơi từng là cổng thành chính. Giờ nó chỉ còn là một cái hố rộng hàng trăm thước, với hàng đống xương vụn dưới đáy. Hàng đoàn chiến binh quân Varden và đồng minh tuôn qua khoảng trống: con người, người lùn, Urgal, tiên nhân và mèo ma lần đâu tiênsát cánh chiến đấu trong lịch sử.
Tên bắn ào ào như mưa lên quân đoàn đang tiến vào thành phố, nhưng phép thuật của các tiên nhân chặn đứng những mũi nhọn chết người trước khi đâm xuống. Nhưng binh lính của Galbatorix thì không được may mắn như vậy: chúc ngã gục tới tấp trước mũi tên của các cung thủ Varden, dù một số có vẻ được bảo vệ bởi pháp thuật. Roran đoán có lẽ đó là những kẻ được Galbatorix sủng ái.
Khi tiểu đoàn của anh nhập vào đoàn quân, Roran trông thấy Jörmundur cưỡi ngựa trong dòng thác chiến binh. Anh hô to chào, ông đáp lại rồi hô lên, “Khi tới đài phun nước” – ông chĩa gươm vào công trình lớn tráng lệ trong khoảng sân phía trước họ mấy trăm bộ - “dẫn lính của cậu về hướng phải. Dọn dẹp mạn Nam thành phố, rồi tập hợp với chúng tôi ở tòa thành.”
Roran gật mạnh đầu để Jörmundur thấy. “Vâng thưa Ngài!”
Giờ anh cảm thấy an toàn hơn khi có sự hỗ trợ của những chiến binh, nhưng cảm giác lo lắng vẫn tiếp tục. Bọn chúng đâu rồi? Anh băn khoăn, nhìn qua những con phố trống trải. Galbatorix đáng ra phải có hàng đoàn quân tại Urû’baen, nhưng Roran vẫn chưa thấy bóng dáng của chúng đâu cả. Chỉ có một số lính nháo loạn trên tường thành thật, và chúng còn bỏ chạy nhanh hơn bình thường nữa.
Hắn đang dụ chúng ta, Roran đột nhiên nhận ra. Tất cả được tạo ra để gạt chúng ta. Cố gọi Jörmundur lần nữa, anh la lên, “Có gì đó không đúng! Binh lính ở đâu rồi?”
Jörmundur tư lự, quay sang vua Orrin và Nữ hoàng Islanzadí, đang phóng ngựa phía trước. Kì cục sao, con trắng đậu trên giáp vai nữ hoàng, móng của nó bám vào khe hở trên chiếc áo giáp vàng của bà.
Quân Varden vẫn tiếp tục tiến sâu hơn vào lòng Urû’baen.
“Có chuyện gì vậy, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm lên tiến tới bên Roran.
Roran liếc nhìn lên gã Kull đầu bự chảng. “Tôi không chắc lắm. Galbatorix …”
Anh quên ngay những gì mình định nói khi tiếng tù và vang lên giữa các tòa nhà phía trước. Tiếng kèn trầm trầm quái gở kéo dài hơn nửa phút khiến quân Varden khựng lại, nhìn quanh lo lắng.
Tim Roran như rụng xuống. “Đây rồi,” anh nói với Albriech. Quay người lại anh vẫy búa, chỉ về phía bên con đường. “Mai phục!” anh rống lên. “Chiu vào các tòa nhà, tránh đi!”
Tiểu đoàn của anh mất thời gian hơn nhiều để thoát ra khỏi đoàn quân. Bực mình, anh la hét, cố khiến họ di chuyển nhanh hơn. “Nhanh lên, mấy tên ngốc này! Nhanh lên!”
Tiếng tù và lại vang lên, rốt cục Jörmundur cũng ra lệnh dừng tiến quân.
Khi đó quân của Roran đã trốn an toàn trong ba con phố, đứng tụm vào trong các ngôi nhà chờ lệnh. Roran đứng sát trong một ngôi nhà cùng với Garzhvog và chú Horst, đứng ở góc cửa nhìn chăm chú xem chuyện gì đang xảy ra.
Rồi một tiếng tù và nữa vang lên, tiếng bước chân nặng nền vang khắp Urû’baen.
Roran kinh hãi khi anh thấy hàng đoàn hàng đoàn binh lính hành quân ra từ các con phố dẫn ra từ tòa thành, nhanh nhẹn, đầy kỉ luật, khuôn mặt không hề có một chút vẻ sợ hãi. Dẫn đần chúng là một gã lùn vai rộng trên con chiến mã màu xám. Hắn khoác bộ giáp sáng bóng phình ra cả tấc như thể cho lọt cái bụng lớn. Tay trái hắn đeo một chiếc khiên có hình tháp công thành trên đỉnh đồi trọc. Tay phải hắn cầm cây chùy đầu nhọn mà người thường khó mang được, nhưng hắn đang vung vẩy nó nhẹ nhàng.
Roran liếm môi. Anh đoán hắn không ai chính là Tướng Barst, nhưng chỉ cần một nữa những gì anh nghe về hắn đúng thôi, thì Barst cũng sẽ không bao giờ đối mặt trực diện với địch trừ khi hắn chắn chắn tiêu diệt được đối phương.
Roran thấy thế là quá đủ. Nhảy ra khỏi góc nhà, anh nói, “Chúng ta không chờ nữa. Gọi những người khác theo.”
“Ý anh là bỏ chạy hả, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm gừ.
“Không,” Roran nói. “Ý tôi là đột kích từ bên sườn. Có rồ mới tấn công đoàn quân như thế này trực diện. Giờ đi!” Anh xô gã Urgal một cái, rồi đi thẳng xuống con đường dẫn đầu các chiến binh. Và có rồ mới chạm trán trực tiếp với kẻ Galbatorix chọn dẫn đầu quân đội của lão.
Khi họ lần qua những ngôi nhà san sát, Roran nghe binh lính bắt đầu hô, “Tướng Barst! Tướng Barst! Tướng Barst!”. Chúng dậm huỳnh huỵch lên mặt đất bằng đôi bốt đinh, vừa gõ gươm vào khiên vang dội.
Càng lúc càng hay, Roran nghĩ, ước gì mình ở bất kì đâu cũng được chứ không phải nơi này.
Rồi quân Varden hô vang đáp trả rộn ràng “Eragon!”, “Kỵ Sỹ Rồng!” thành phố rung chuyển cùng hàng tràng kim khí va chạm và tiếng la hét của binh sĩ bị thương.
Khi tiểu đoàn tiến đến điểm Roran ước chừng ở giữa quân đoàn Đế chế, anh lệnh họ dàn đội ngũ quay về phía địch. “Ở cạnh nhau,” anh ra lệnh. “Tiến lên từ bức tường với khiên phía trước, kiên quyết bảo vệ các pháp sư.”
Họ nhanh chóng nhận thấy binh lính trên con phố - chủ yếu là quân thương – dồn vào nhau khi chúng lê bước tới trận tiền.
Nar Garzhvog gầm lên hung tợn, Roran và các chiến binh khác cũng vậy, họ lao thẳng vào hàng ngũ quân địch. Binh lính hô lên cảnh báo, sự hốt hoảng lan đi khiến chúng dạt lùi lại, dẫm đạp nhau khi cố tìm khoảng trống chiến đấu.
Roran tru lên một tiếng, lao thẳng xuống hàng đầu tiên của địch. Máu bắn tung tóe khoe anh vung búa đập vào xương và kim khí. Lũ binh lính đứng chật chội đến mức chúng gần như vô dụng. Anh giết bốn tên trước khi chúng kịp vung gươm, bị anh đỡ bằng khiên.
Phía cuối con phố, Nar Garzhvog đốn ngã sáu tên chỉ bằng một phát dùi cui. Lũ lính lồm cồm bò dậy, không bận tâm đến vết thương có thể làm chúng tê liệt nếu biết đau, rồi Garzhvog giáng thêm một phát, quăng chúng đi như búp bê.
Roran không còn biết gì khác ngoài những tên lính trước mặt, sức nặng của cây búa trong tay và mặt đất đá trơn tuột vì nhốm máu dưới chân. Anh tàn phá, chiến đấu, anh cúi mình xô đẩy, anh gầm lên la hét, giết, giết, giết – cho đến khi ngạc nhiên phát hiện ra mình đang vung búa vào không khí. Vũ khí đập mạnh xuống nền đá tóe lửa, xóc lên đau đớn cả cánh tay anh.
Roran lắc mạnh đầu, cơn say chiến đấu nhạt dần; anh vất vả trèo qua đống xác của đám binh lính.
Ngoảnh lại, anh thấy phần lớn các chiến binh của mình vẫn chiến đấu với lũ lính. Gầm lên một tiếng nữa, anh lại nhảy bổ vào tiếp tục.
Ba tên lính đứng ngay gần anh: hai tên cầm thương, một tên cầm gươm. Roran nhào tới xô ngã tên cầm gươm, nhưng bị trượt chân khi giẫm phải cái gì đó mềm oặt. Ngay khi ngã, anh vẫn kịp vung búa đập vào mắt cá chân tên gần nhất. Gã lính nhảy lùi lại cố đâm xuống Roran, nhưng một tiên nhân nhảy tới và chỉ cần hai chiêu đã lấy đầu được cả ba tên.
Đó là tiên nữ anh đã la hét phía bên ngoài tường thành, giờ tơi tả với vạt áo đẫm máu. Trước khi anh kịp cảm ơn, bà đã phóng qua, thanh kiếm lượn mờ ảo khi bà hạ gục nhiều tên khác.
Sau khi nhìn họ chiến đấu, Roran kết luận mỗi tiên nhân mạnh ngang ít nhất năm người, chưa kể họ còn có thể phù phép. Đối với các Urgal, anh cố tránh xa khỏi họ, đặc biệt là các Kull. Khi hăng máu lên thì họ chẳng còn phân biệt địch ta gì hết, mà các Kull thì quá lớn, giết ai đó quá đơn giản mà không cần phải để ý. Anh thấy có Kull ép nát một tên lính vào tường nhà mà chẳng hay biết. Rồi anh lại thấy một Kull khác cắt đầu một tên lính khi vô ý xoạc khiên quay lại.
Cuộc đấu kéo dài thêm vài phút, khi những tên lính cuối cùng còn sót lại đều đã chết.
Quẹt mồ hôi trên khóe mắt, Roran nhìn dọc con phố. Xa hơn trong thành phố, anh thấy tàn dư của đội ngũ vừa bị tiêu diệt biết mất trong những ngôi nhà, nhập bọn vào những quân đoàn khác của Galbatorix. Anh định đuổi theo chúng, nhưng trận chiến quá gần rìa thành phố, mà anh thì muốn cắt đứt tuyến giữa của chúng khi đang tấn công.
“Đường này!” anh hét lên, nâng búa chạy dọc xuống con phố.
Một mũi tên cắm thẳng vào cạnh khiên, anh ngước lên thấy một bóng người trượt xuống mái nhà gần đó.
Khi Roran trồi lên từ mấy ngôi nhà sát nhau gần quảng trường trước đống đổ nát của cổng thàng, anh thấy một cảnh tượng làm anh bối rối không biết phải làm sao.
Hai đoàn quân hòa lẫn vào nhau cho đến khi không thể xác định được hàng ngũ gì cả, thậm chí cả không rõ tiền tuyến ở đâu nữa. Quân phục đỏ thẫm của binh lính rải rác khắp quảng trường, có khi lác đác, có khi thành cụm lớn, cuộc chiến lan ra khắp các con phố gần đó, hai đoàn quân tràn ra như vết dầu loang. Giữa những binh sĩ, Roran thấy như đoán trước hàng trăm con mèo – mèo thường, không phải ma mèo – đang tấn công binh lính, anh chưa bao giờ thấy chung hung dữ đáng sợ như vậy. Anh biết lũ mèo được sự chỉ dẫn của ma mèo.
Rồi ở trung tâm quảng trường, Tướng Barst đang cưỡi trên con chiến mã xám, bộ giáp lớn của hắn lóe sáng ảnh lửa đốt cháy những ngôi nhà kế bên. Hắn vung chùy hết lượt này đến lượt khác, nhanh hơn khả năng của con người, mỗi lần hạ gục ít nhất một quân Varden. Tên bắn về phía hắn nhanh chóng bị thiêu rụi trong ngọn lửa da cam, gươm giáo trúng hắn bật ra như thể đập vào đá, kể cả một Kull lao tới cũng không đủ mạnh thúc hắn ra khỏi con ngựa. Roran kinh ngạc thấy chỉ bằng một cú vụt bình thường, hắn có thể làm vỡ sọ và sừng một Kull như thể đập vỏ trứng.
Roran nhăn mặt. Thế quái nào mà hắn nhanh và mạnh như thế được? Câu trả lời thì dĩ nhiên là phép thuật rồi, nhưng kể cả phép thuật cũng phải có nguồn gốc. Không có viên ngọc nào trên cây chùy hay giáp của Barst cả, Roran cũng không tin Galbatorix có thể cung cấp năng lượng cho hắn từ khoảng cách này. Roran nhớ lại cuộc nói chuyện với Eragon trước khi giải cứu Katrina ở Helgrind. Eragon từng nói không thể thay đổi cơ nhục của con người để có sức mạnh và tốc độ như tiên nhân được, kể cả cho dù là Kỵ Sỹ đi nữa – những gì loài rồng làm với Eragon trong Lễ Huyết Thệ cũng quá thần kì. Có vẻ Galbatorix cũng không làm như vậy đối với Barst, khiến Roran băn khoăn, nguồn gốc sức mạnh phi phàm của hắn ở đâu ra vậy?
Barst giật yên cương quay con chiến mã lại. Tia sáng lóe lên trên bề mặt bộ giáp phình ra khiến Roran chú ý.
Miệng Roran khô lại trong cơn tuyệt vọng. Từ những gì anh biết, Barst không béo. Hắn sẽ không khiến cơ thể yếu đuối, mà Galbatorix cũng sẽ không chọn kẻ như vậy bảo vệ Urû’baen. Cách giải thích hợp lý duy nhật là Barst giấu một Eldunarí trong lòng áo giáp có hình dạng kì cục.
Rồi con phố rung chuyển tách ra, một chiếc hố xuất hiện bên dưới Barst và con chiến mã. Miệng hố thừa đủ để nuốt gọn cả hai, nhưng con ngựa vẫn đứng trên không trung như thể trên đất bằng. Một vầng sáng màu lung linh xung quanh Barst như thể hào quang hay một mảnh cầu vồng. Những đợt khí nóng rồi lạnh phát ra từ phía Barst, rồi Roran thấy những lưỡi băng tua tủa mọc lên từ mặt đất, cố quấn quanh chận con chiến mã giữ chặt nó. Nhưng cọc băng không thể bắt con ngựa, bất kể phép thuật nào cũng không có tác dụng gì lên chúng.
Barst lại giật cương ngựa, phi thẳng đến một nhóm tiên nhân đứng gần một ngôi nhà niệm cổ ngữ. Roran đoán có lẽ họ đã phóng bùa chú vào Barst.
Giơ chùy cao quá đầu, Barst phi thẳng vào giữa đám tiên nhân. Họ chạy tán loạn cố tự bảo vệ, nhưng vô nghĩa, Barst đập vỡ khiên và gươm của họ nhẹ nhàng, rồi khi hắn đánh trúng, cái chùy nghiền nát các tiên nhân như thể xương cốt của họ mảnh khảnh rỗng tuếch như của loài chim.
Sao lưới phòng hộ không bảo vệ họ? Roran wondered. Sao họ không tấn công hắn bằng tâm trí? Hắn chỉ có một người, mà chỉ có một Eldunarí.
Cách vài bộ, một tảng đá bự chảng đạp thẳng vào biển người đang chiến đấu, để lại một vệt dài đỏ thẫm, rồibật lên dội vào mặt trước tòa nhá, nghiền nát bức tượng trên khung cửa.
Roran cúi xuống, chửi thề, nhìn về phía những hòn đá phóng ra. Từ phía kia của thành phố, anh thấy lính của Galbatorix đã chiếm được các máy bắn đá trên tường thành. Chúng đang bắn chính thành phố của mình, anh cáu. Chúng đang bắn chính đồng đội của mình.
Gầm lên kinh tởm, anh chạy khỏi quảng trường, đối mặt với khu nội thành. “Chúng ta không làm gì ở đây được!” anh hô lên với tiểu đoàn. “Để Barst lại cho người khác. Chiếm lấy những con phố phía đó!” Anh chỉ sang trái. “Chúng ta sẽ đánh đến tường thành và dừng ở đó!”
Rồi anh phóng vụt đi ngay lập tức, còn không kịp nghe các binh sĩ có phản ứng gì. Phía sau anh, một tảng đá khác lao xuống hai quân đoàn đang chiến đấu, tiếng kêu gào đau đớn còn vang vọng hơn.
Con phố Roran chọn đầy rẫy binh lính, cũng như rất ít thần tiên và ma mèo, lúc này đang túm tụm lại trước cửa hàng mũ, vất vả cầm cũ lũ lượt binh lính vây quanh. Các tiên nhân hét lên, khoảng một tá lính ngã xuống, nhưng số còn lại vẫn đứng được.
Nhảy thằng vào giữa đám lính, Roran lại chìm đắm trong trận chiến đẫm máu. Anh nhảy lên xác một tên lính, hạ búa xuống đầu một tên khác khi quay lưng. Tự tin hắn đã chết, Roran dùng khiên đẩy tên kế tiếp lại, đâm mạnh cán búa chọc thủng cổ họng hắn.
Bên cạnh anh, Delwin bị một thanh thương đâm vào vai, quỳ xuống bằng một chân kêu lên đau đớn. Vung búa nhanh hơn, Roran đẩy lùi gã lính trong khi Delwin rút thương ra đứng lên.
“Lui lại,” Roran gào lên.
Delwin lắc đầu nhe răng. “Không!”
“Lui lại, mẹ kiếp! Đấy là lệnh.”
Delwin chửi thề nhưng vẫn tuân lệnh, chú Horst thế chỗ cậu. Roran để ý người thợ rèn chảy máu từ những vết chém trên tay chân, nhưng chúng không làm ông chậm đi chút nào.
Tránh một cú đâm, Roran bước về phía trước. Có vẻ anh nghe thấy một tiếng soạt nhẹ sau lưng, rồi có tiếng sấm nổ bên tai, bầu trời như quay cuồng, tối sầm đi.
Anh tỉnh dậy đầu vẫn đau nhói. Phía trên anh thấy bầu trời – sáng bừng bởi ánh mặt trời – và mảng tối phía dưới phiến đá nứt nẻ nhô ra.
Rên lên vì đau, anh cố đứng dậy. Anh đang nằm dưới chân của bức tường thành bên ngoài, bên cạnh mảnh đá vỡ dính đầy máu. Cả khiên và búa đều văng mất, khiến anh mụ đi một lúc.
Ngay khi anh cố lấy thăng bằng, một tốp năm tên linh lao thẳng đến, một tên đâm thương vào ngực anh. Mũi thương đẩy anh đập tường, nhưng không chạm vào da.
“Tóm lấy nó!” mấy tên lính la lên, Roran thấy cả tay và chân đều bị giữ chặt. Anh quẫy đạp cố gắng vùng ra, nhưng anh vẫn quá yếu và choáng váng, hơn nữa lại bị quá nhiều tên lính áp đảo.
Bọn lính đánh anh liên tục, anh cảm thấy sức mạnh càng lúc càng giảm khi lớp bảo vệ chắn anh khỏi những đòn đánh. Mọi thứ như xám xịt lại, anh dần thấy ngất đi, cho đến khi một thanh gươm xọc ra từ miệng một tên lính.
Lũ lính thả anh ra, Roran nhìn thấy người phụ nữ tóc đen xoay tít giữa bọn lính, thanh kiếm múa điêu luyện hơn cả những chiến binh dày dặn. Trong vài giây, bà giết sạch cả năm tên, dù gã cuối cùng cắt được một vết nông phía dưới đùi trái bà.
Tiếp đó, bà đưa tay ra đỡ anh nói, “Cây Búa Dũng Mãnh.”
Anh bám chắc tay bà, nhìn lên cổ tay - nơi bao tay không che kín – vằn vện những sẹo, như thể bà từng bị đốt hay quất tới tận xương. Đằng sau bà là một cô bé sắc mặt tái nhợt mặc áo giáo khuyên, và một bé trai nhỏ hơn một hai tuổi gì đó.
“Bà là ai?” anh đứng lên. Khuôn mặt người phụ nữ rất ấn tượng: nó rộng, vững chãi, ánh mắt sắc sảo dạn dày sương gió của người từng trải qua cả cuộc đời giông tố.
“Một kẻ qua đường mà thôi,” bà nói. Bà cúi xuống nhặt lên một thanh thương đưa cho anh.
“Xin cảm ơn.”
Bà gật nhẹ, rồi cùng với hai người đồng hành nhỏ tuổi bước giữa những ngôi nhà, tiến sâu vào lòng thành phố.
Roran nhìn trân trối họ trong nửa giây lo lắng, rồi lắc mạnh đầu, rảo bước về con phố với tiểu đoàn của mình.
Các chiến binh chào đón anh bằng tiếng hô vang kinh ngạc, phấn khích tấn công địch với khi thế dồn dập. Tuy nhiên, khi Roran quay qua các đồng đội từ làng Carvahall, anh nhận ra tảng đá bắn trúng anh còn giết cả Delwin nữa. Nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ, anh chiến đấu điên cuồng hơn bao giờ hết, quyết tâm kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt.
Tên của các tên (The Name of All Names)
Vừa sợ hãi vừa quyết tâm, Eragon bước cùng Arya, Elva và Saphira về phía bệ đá nơi Galbatorix đang ngồi thoải mái trên ngai vàng.
Quãng đường đi đủ dài để Eragon cân nhắc một loạt chiến thuật mà hầu như đều không khả thi tí nào. Nó biết chỉ sức mạnh không thôi chưa đủ để đánh bại nhà vua; phải khôn khéo nữa, mà cái đó thì nó cảm thấy kém nhất. Dù sao nó không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với Galbatorix.
Hai hàng đèn lồng dẫn tới bệ đá rộng đủ cho họ bước cạnh nhau. Eragon cảm thấy mừng, vì Saphira có thể chiến đấu ngay nếu cần thiết.
Khi họ tiến gần ngai vàng, Eragon tiếp tục xem xét căn phòng. Nó nghĩ nơi kì lạ này không giống nơi để vui tiếp khách khứa. Ngoài hướng đi được rọi sáng phía trước, toàn bộ phần còn lại ẩn trong bóng tối xám xịt - còn hơn cả sảnh đường của người lùn dưới lòng Tronjheim và Farrthen Dûr – không khí khô đượm mùi xạ hương quen thuộc, dù nó không nhớ ra ở đâu.
“Shruikan đâu rồi?” nó trầm giọng hỏi.
Saphira khụt khịt. Em có thể ngửi thấy nó, nhưng không nghe thấy gì hết.
Elva cau mày. “Tôi cũng không cảm thấy con rồng.”
Khi chỉ còn cách bệ đá chừng ba mươi thước, họ dừng lại. Phía sau ngai vàng phủ xuống bức màn đen dầy như nhung, treo lên từ mái nhà.
Bóng đen phủ lên Galbatorix, che đi hình hài của lão. Rồi lão ngả người ra ánh sáng, và Eragon nhìn khuôn mặt lão. Nó dài, mảnh khảnh, lông mày sâu, mũi sắc như gươm. Cặp mắt lão sắc như đá, tròng mắt trắng nhờ nhờ. Miệng lão mỏng và khóe hơi chếch xuống, lão để râu cắt tỉa gọn gàng và ria mép, đen như dầu hắc ín y hệt như quần áo lão đang mặc. Nhìn qua lão trạc tầm bốn mươi: độ tuổi đỉnh cao sung mãn, nhưng bên bờ suy sụp. Có những nếp nhăn trên lông mày và hai bên mũi, làn da sạm của lão nhìn có vẻ mỏng tang như thể lão không ăn gì ngoài thịt thỏ và củ cải trong suốt mùa đông. Vai lão rộng và chắc chắn, hông thon gọn.
Trên đầu lão đội một vương miện màu đỏ làm từ vàng đính đủ loại đá quý. Chiếc vương miện nhìn cũ kĩ – còn hơn cả căn phòng, Eragon tự hỏi có phải nó từng thuộc về vua Palancar hàng trăm năm trước hay không.
Thanh gươm của lão nằm trên vạt áo. Đó là một thanh gươm Kỵ Sỹ, hiển nhiên, nhưng Eragon chưa thấy cái như thế bao giờ. Cả lưỡi gươm, cán lẫn đầu nối đều trắng muốt, một viên ngọc đính trên chuôi kiếm trong suốt như nước suối. Nói chung, có gì đó ở thanh gươm khiến Eragon không dễ chịu tí nào. Màu của nó – hay đúng hơn là cái sự thiếu màu sắc– gợi nó nhớ đến những mảnh xương trải qua nắng gió. Đó là màu của cái chết, không phải sự sống, trông còn đáng sợ hơn màu đen nhiều.
Galbatorix xem xét từng người bọn họ bắng ánh mắt sắc lẻm không chớp. “Thế là, các cậu đến đây để giết ta,” lão nói. “Được rồi, bắt đầu chưa?” Lão nhấc thanh gươm rồi dang tay ra như thể chào mời.
Eragon xoải chân, nâng gươm và khiên lên. Lời mời của nhà vua làm nó khó chịu kinh khủng. Lão đang đùa với bọn ta.
Vẫn nắm chặt thanh Dauthdaert, Elva bước lên rồi bắt đầu nói. Nhưng cô bé không thốt ra lời nào, ánh mắt nhìn Eragon cảnh báo.
Eragon cố gắng chạm vào tâm trí cô bé, nhưng nó không cảm thấy tư tưởng của cô bé, nhưng thể cô bé không còn ở trong phòng nữa.
Galbatorix cười ngả, rồi thả lưỡi gươm xuống vạt áo và dựa vào ngai. “Nhóc thực tin rằng ta không để ý đến khả năng của nhóc à? Nhóc thực nghĩ rằng có thể khiến ta khổ sở bằng trò vặt vãnh rõ như ban ngày đó à? Ờ phải, ta không nghi ngờ lời nói của nhóc có thể làm tổn thương mình, nhưng chỉ khi ta nghe chúng thôi.” Vành môi nhợt nhạt của lão cong lên thành nụ cười độc ác, vô cảm. “Điên rồ làm sao. Đây là toàn bộ kế hoạch của các người à? Con bé sẽ không thể nói trừ khi ta cho phép nó rời khỏi đây, một cây thương đáng treo lên tường hơn là mang ra chiến đấu, rồi một đám Eldunarí gần như lẩn thẩn với tuổi tác à? Chậc, chậc. Ta tưởng cô phải khá hơn chứ, Arya. Ông nữa, Glaedr, nhưng ta ngờ cảm xúc của ông đã che mờ trí nhớ từ khi ta cho Murtagh giết Oromis rồi thì phải.”
Glaedr giục Eragon, Saphira và Arya, Giết hắn. Con rồng cảm thấy cực kì bình tĩnh, nhưng trong sự trầm lặng lộ ra cơn giận áp đảo mọi cảm xúc khác.
Eragon liếc mắt với Arya và Saphira, rồi cả ba cùng tiến tới bệ đá, kể cả Glaedr, Umaroth và các Eldunarí cũng cố tấn công trí óc Gallbatorix.
Trước khi Eragon đi được vài bước, nhà vua đứng dậy khỏi chiếc ghế nhung, hô to một Từ. Từ đó vang dội trong trí óc Eragon, từng phần trong cơ thể nó vỗ nhẹ hưởng ứng, như thể nó là một nhạc cụ vừa được người nghệ sĩ gảy nốt. Cho dù có cố gắng thế nào, Eragon cũng không thể nhớ Từ đó được; nó tan ngay trong tâm trí Eragon, chỉ còn sót lại ý nghĩ về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nó.
Galbatorix thốt ra những từ khác sau đó, nhưng không có sức mạnh tương tự, còn Eragon thì mụ người đi không hiểu nổi ý nghĩa của chúng. Nhà vua vừa dứt lời, một lực lượng trói chặt Eragon, ép nó không đi nổi. Lực trói khiến nó kêu lên ngạc nhiên. Nó cố cử động, nhưng cơ thể như bị nhúng vào đá vậy. Tất cả những gì nó có thể làm là thở, nhìn, và nói.
Nó không hiểu nổi: lưới phòng vệ đáng ra phải bảo vệ nó khỏi phép thuật của nhà vua. Chúng đáng lẽ không để nó phải chới với trên bờ vực thẳm như thế này.
Cạnh nó, Saphira, Arya và Elva cũng có vẻ bất động y hệt.
Tức tối vì nhà vua bắt nó quá dễ dàng, Eragon kết nối tâm trí với các Eldunarí lúc này đang chống cự lại tâm thức của Galbatorix. Nó cảm thấy có một lượng lớn tâm trí khác chống lại họ - tất cả đều là rồng, đang than vãn, lảm nhảm, kêu thét điên dại những điệp khúc rời rạc chỉ chứa nỗi đau đỡn và u buồn, Eragon cố thoát ra tránh chúng kéo nó vào cơn điên loạn. Chúng cũng mạnh nữa, như thể ít ra cũng phải ngang Glaedr hoặc lớn hơn.
Lũ rồng cản trở khiến không thể nào trực tiếp tấn công tâm trí Galbatorix được. Cứ mỗi lần Eragon nghĩ nó cảm thấy chạm được vào tư tưởng nhà vua, một con rồng bị giam lại nhảy vào tâm trí nó, lắp bắp liên hồi – buộc nó phải rút lui. Chống cự lũ rồng thực khó, bởi suy nghĩ của chúng hoang dã và không liền mạch; khuất phục bất kì con rồng nào trong số chúng cũng hệt như dí đầu một con sói dại. Hơn nữa, số lượng của chúng quá lớn, hơn nhiều so với số các Kỵ Sỹ giấu ở Thung Lũng Linh Hồn.
Trước khi bên nào chiếm được lợi thế, Galbatorix nói, có vẻ hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi cuộc chiến vô hình, “Ra đây nào, các con yêu, ra gặp khách nào.”
Một bé trai và một bé gái nhô ra từ sau ngai vàng đứng bên tay phải nhà vua. Bé gái tầm sáu tuổi, trong khi bé trai có lẽ tám hay chín. Chúng trông rất giống nhau, Eragon đoán có lẽ là hai anh em. Cả hai đều mặc đồ ngủ. Bé gái cầm tay bé trai núp sau lưng anh, trong khi bé trai có vẻ sợ hãi nhưng cũng quyết tâm. Kể cả khi đang chống lại các Eldunarí của Galbatorix, Eragon cũng cảm nhận được tâm trí của lũ trẻ - cảm thấy nỗi sợ và bối rối của chúng – nó biết chúng có thật.
“Con bé đáng yêu không nào?” Galbatorix nhấc cằm bé gái vuốt nhẹ bằng ngón tay dài. “Đôi mắt to và mái tóc đẹp dường này. Và thằng bé cũng đẹp trai quá chứ?” Lão đặt tay lên vai bé trai. “Con cái, ai đó nói rằng là lời cầu chúc cho tất cả chúng ta. Ta thì không chia sẻ niềm tin đó đâu. Từ kinh nghiệm của ta, mỗi đứa trẻ đều tàn nhẫn và thù hận chẳng kém người lớn. Chúng chỉ thiếu sức mạnh để khuất phục kẻ khác mà thôi.
“Có lẽ các người sẽ đồng ý với ta, có khi không. Dù sao, ta biết mỗi kẻ Varden các người tự hào về đức hạnh của mình lắm. Các người nghĩ mình là kẻ thực thi công lý, kẻ bảo vệ những người vô tội – như thể có ai đó thực sự vô tội. Được thôi; cho ta thấy lòng tin của các người, xem các người có đúng như những gì tuyên bố không nào. Trừ khi các người ngừng tấn công, nếu không ta sẽ giết cả hai” – lão lắc lắc vai bé trai – “và ta sẽ giết chúng nếu các người dám tấn công lần nữa … Thực ra thì nếu các người làm ta bất mãn quá, thì ta cũng cứ giết chúng thôi, nên ta khuyên các người hãy nhã nhặn một chút.” Cả hai đứa bé có vẻ phát bệnh bởi lời lão, nhưng chúng không cố bỏ chạy.
Eragon nhìn Arya, nó cũng thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt cô.
Umaroth! Họ thét lên.
Không, con rồng trắng gầm lên, kể cả khi nó đang vật lộn với tâm trí một Eldunarí khác.
Người phải ngừng lại, Arya cầu khẩn.
Không!
Lão sẽ giết chúng mất, Eragon van.
Không, chúng ta sẽ không từ bỏ. Không phải lúc này!
Đủ rồi đấy! Glaedr gầm lên. Những con chim non đang gặp nguy hiểm!
Và sẽ thêm những con chim non sẽ hiểm nguy nếu chúng ta không giết Kẻ-Phá-Trứng ngay.
Đúng, nhưng bây giờ thì không phải là lúc. Arya nói. Cứ chờ thêm một lúc nữa, có lẽ chúng ta sẽ tìm ra cách tấn công lão mà không phải mạo hiểm tính mạng của bọn trẻ.
Nếu không thì sao? Umaroth hỏi.
Cả Eragon và Arya đều không trả lời nổi.
Thì chúng ta sẽ làm điều cần thiết, Saphira lặng lẽ. Eragon ghét chuyện này, nhưng nó biết cô nàng nói phải. Họ không để đặt tính mạng của hai đứa trẻ lên trước toàn bộ Alagaësia được. Nếu có thể, họ sẽ cố cứu hai đứa bé, nhưng nếu không, họ sẽ cứ tấn công. Không còn lựa chọn nào khác.
Khi Umaroth và các Eldunarí khác miễn cưỡng rút lui, Galbatorix mỉm cười. “Thế, tốt hơn rồi. Giờ hãy nói chuyện như những người văn minh nào, mà không phải lo ai sẽ giết ai nhé.” Lão vỗ nhẹ đầu bé trai rồi chỉ vào bậc thềm của bệ đá. “Ngồi”. Không cự nự gì hết, hai đứa trẻ ngồi ngay xuống bậc thấp nhất, cách xa nhà vua nhất có thể. Rồi Galbatorix tiến lại nói, “Kausta,” Eragon trượt dần về phía bệ đá, cùng với Arya, Elva và Saphira.
Eragon vẫn hoang mang không hiểu tại sao lưới phòng hộ của họ lại không có tác dụng. Nó nghĩ về Từ đó- dù nó là gì – nỗi nghi ngờ khủng khiếp nảy lên trong ý nghĩ nó. Rồi đến tuyệt vọng. Nào là kế hoạch, bàn bạc, lo lắng, đau khổ, bao nhiêu hy sinh, Galbatorix vẫn bắt họ dễ như tóm một ổ mèo con sơ sinh. Nếu nghi ngờ của Eragon chính xác, nhà vua còn ghê gớm hơn cả họ có thể tưởng tượng.
Tuy nhiên họ không mất sạch hy vọng. Tâm trí, đến bây giờ, vẫn là của họ. Nó biết họ có thể dùng pháp thuật … cách này hay cách khác.
Galbatorix nhìn chăm chú Eragon. “Vậy cậu là kẻ gây cho ta bao nhiêu phiền phức đấy à, Eragon, con trai Morzan… Chúng ta đáng lẽ phải gặp nhau lâu rồi. Mẹ câu thật ngốc đã giấu cậu ở Carvahall, cậu lẽ ra phải lớn lên ở Urû’baen này, trong sự vinh quang, giàu có và trách nhiệm kèm theo, hơn là ngày ngày đào bới đất cát.
“Nhưng muộn còn hơn không, giờ cậu đã ở đây, những thứ đó sẽ thuộc về cậu. Chúng là tài sản của cậu, tài sản thừa kế, và ta sẽ giao nó cho cậu.” Lão có vẻ đang xem xét Eragon kĩ lưỡng hơn hết, rồi nói, “Cậu giống mẹ hơn giống cha đấy. Murtagh thì ngược lại. Không thành vấn đề cho lắm. Cậu giống ai cũng được, cậu và anh trai đều phục vụ ta là phải thôi, kể cả cha mẹ cậu nữa.”
“Không bao giờ,” Eragon nghiến răng.
Gương mặt nhà vua lóe lên nụ cười nhạt. “Không bao giờ à? Ta sẽ thấy ngay thôi.” Ánh mắt lão chuyển hướng. “Và người, Saphira. Trong các vị khách hôm nay, ta vui mừng gặp người nhất đấy. Ngươi đã trưởng thành thật tốt nhỉ. Ngươi có nhớ nơi này không? Có nhớ thanh âm của ta hay không? Ta dành nhiều đêm nói chuyện với ngươi và những quả trứng khác trên cương vị của mình, trong bao năm ta củng cố vương quyền trên lãnh thổ Đế chế.”
Tôi… tôi nhớ một chút, Saphira nói, Eragon lặp lại với nhà vua. Cô nàng không muốn tiếp xúc trực tiếp với lão, mà lão cũng không cho phép điều đó. Cách biệt tâm thức là cách tốt nhất đảm bảo tránh được xung đột công khai.
Galbatorix gật gù. “Ta chắc ngươi sẽ nhớ rõ hơn khi ở lại nơi này. Người có thể không hiểu rõ ngay, nhưng hầu hết cuộc đời ngươi đã sống ở một căn phòng gần đây thôi. Đó là nơi ngươi thuộc về. Đó là nơi ngươi sẽ xây tổ và đẻ trứng.”
Đôi mắt Saphira co lại, Eragon nhận thấy khao khát kì lạ dâng lên trong cô nàng, lẫn lộn với lòng căm thù hừng hực.
Nhà vua nhìn tiếp. “Arya Dröttningu. Số phận có vẻ hơi hài hước thì phải, đã ở đây, thậm chí ta đã ra lệnh cô được mang tới rất lâu rồi. Con đường của cô có vẻ quanh co hả, nhưng dù sao cô vẫn tới, mà còn tự giác nữa chứ. Ta thấy hơi buồn cười đấy. Cô có thấy thế không?”
Arya mím môi không trả lời.
Galbatorix cười khúc khích. “Ta thừa nhận cô là cái gai trong mắt cũng lâu rồi đấy. Cô không gây nhiều phiền phức như gã lăng xăng vụng về Brom, nhưng cô chẳng ngồi yên tí nào. Ai đó có thể nói toàn bộ vụ này là lỗi của cô, bởi cô đã mang trứng Saphira đến cho Eragon. Tuy nhiên, ta chẳng thù địch gì với cô hết. Nếu không có cô, Saphira sẽ không nở, mà ta cũng không bao giờ lôi được kẻ thủ ra khỏi hang ổ. Vì thế, ta cảm tạ cô.
“Và đây nhóc Elva. Đứa bé mang dấu hiệu Kỵ Sỹ trên trên lông mày. Được rồng in dấu và lời cầu phúc vừa đủ để tiếp nhận mọi nỗi đau và những gì sẽ tổn thương họ. Những đau khổ gì nhóc phải chịu đựng qua bao tháng ngày. Nhóc còn phải chán ghét những kẻ xung quanh bởi sự yếu đuối của chúng, kể cả khi nhóc buộc phải chia sẻ nỗi đau của chúng. Lũ Varden đối xử với nhóc tệ hại thật. Hôm nay ta sẽ kết thục những cuộc chiến đã tra tấn nhóc quá nhiều, nhóc sẽ không bao giờ phải chịu đựng sai lầm và bất hạnh của kẻ khác nữa. Ta hứa đấy. Thi thoảng, ta có lẽ sẽ cần tới năng lực của nhóc, nhưng hầu như nhóc sẽ được sống thoải mái, yên bình.”
Elva cau mày, nhưng hiển nhiên lời đề nghị của nhà vua lôi cuốn cô bé. Eragon nhận ra lắng nghe Galbatorix cũng nguy hiểm không kém lắng nghe Elva vậy.
Galbatorix dừng lại, xoa nhẹ chuôi kiếm bọc dây khi lão chăm chú nhìn họ với anh mắt tăm tối. Rồi lão nhìn thẳng vào khoảng không nơi các Eldunarí đang trôi nổi, và tâm trạng lão có vẻ u ám đi. “Chuyển lời ta đế Umaroth khi ta nói với họ,” lão nói. “Umaroth! Chúng ta lại gặp mặt hơi tệ lần nữa. Ta nghĩ ta đã giết ông ở Vroengard.”
Umaroth đáp lại, Eragon chuyển lời: “Ông ấy nói …”
“… rằng ngươi chỉ giết được thân thể của ông thôi,” Arya tiếp lời.
“Cái đó thì hiển hiên,” Galbatorix cười nhẹ. “Các Kỵ Sỹ đã giấu ông và những người khác ở đâu nhỉ? Vroengard à? Hay nơi nào khác? Ta và các thuộc hạ đã lục soát tàn tích ở Doru Araeba kĩ lắm rồi.”
Eragon chần chừ chuyển câu trả lời của con rồng, rõ là nó sẽ làm nhà vui không vui, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Ông ấy nói … rằng ông sẽ không bao giờ cho người biết khi vẫn còn tỉnh táo.”
Galbatorix nhíu mày. “Giờ thì thế chắc? Tốt, ông ta sẽ nói cho ta hay sớm thôi, dù muốn hay không.” Nhà vua vỗ nhè nhẹ chuôi kiếm trắng chói lọi. “Ta đã lấy thanh gươm từ tay Kỵ Sỹ của ông ta, cậu biết đấy, khi ta giết hắn – khi ta giết Vrael – trên tháp canh ở Thung Lũng Palancar. Vrael thậm chí còn đặt cả tên cho thanh gươm nữa cơ đấy. Hắn gọi nó là Islingr, ‘Light-bringer. Ta nghĩ Vrangr thì có vẻ … hợp lý hơn.
Vrangr có nghĩa “xiên xẹo”, Eragon đồng ý cái tên ấy hợp với thanh gươm hơn nhiều.
Một tiếng ầm trầm đục vang vọng phía sau, Galbatorix mỉm cười. “A, hay lắm. Murtagh và Thorn sẽ nhập bọn ngay thôi, rồi chúng ta có thể bắt đầu tử tế.” Một tiếng động khác vang lên trong căn phòng, khi tiếng ồn rào rạo phát ra từ nhiều phía một lúc. Lão liếc qua vai nói, “Các người hơi bất cẩn tấn công quá sớm lúc bình minh. Ta đã dậy từ trước rồi – ta dậy sớm hơn bình minh nhiều – nhưng các người đánh thức Shruikan. Nó hay phát cáu khi mệt mỏi, mà khi nó phát cáu thì nó khoái ăn con người lắm. Lũ lính gác của ta học từ lâu không dám làm phiền khi nó nghỉ ngơi rồi. Các người đáng ra phải noi gương chúng chứ.”
Khi Galbatorix đang nói, tấm màn phía sau ngai vàng di chuyển, nhấc lên sàn nhà.
Eragon bị sốc, nhận ra đó thực ra là cánh của Shruikan.
Con hắc long nằm cuộn trên nền nhà, đầu ở gần ngai vàng, cơ thể khổng lồ của nó tạo thành một bức tường quá dốc và quá cao để có thể trèo lên mà không dùng phép thuật. Vảy của nó không rạng ngời như Saphira hay Thorn mà lấp lánh mờ ảo ánh đen. Màu như mực khiến chúng dường như mờ đục, cho chúng cái vẻ mạnh mẽ chắc chắn mà Eragon chưa từng thấy ở những cái vảy rồng trước đấy; như thể Shruikan dát đá hay kim loại chứ không phải ngọc.
Con rồng lớn khổng lồ. Đầu tiên Eragon còn không dám nghĩ một hình thù to cỡ đấy là một sinh vật sống. Nó thấy một phần cổ Shruikan buộc dây, và nghĩ nó đã thấy toàn bộ cơ thể của con rồng; nó thấy một mảng phía sau bàn chân Shruikan mà nó ngỡ đó là cẳng chân. Một khúc cánh mà nó tưởng như cả cái cánh. Chỉ khi nó ngước lên thấy những đốt nọn trên sống lưng con rồng, Eragon mới nhận rõ kích thước của Shruikan. Mỗi đốt nhọn rộng như tán cây sồi cổ thụ, hàng vảy bao quanh chúng phải dày cả tấc, nếu không hơn.
Rồi Shruikan mở mắt nhìn xuống họ. Tròng mắt nó có mày trắng lam nhợt nhạt như màu của tảng băng trên núi cao, sáng lấp lánh trên nền vảy đen.
Con mắt khổng lồ lượn qua lại xem xét mặt của họ. Ánh mắt nó có vẻ không chưa gì khác ngoài thịnh nộ và điên dại, Eragon chắc mẩm Shruikan sẽ giết chúng ngay khi Galbatorix cho phép.
Cái nhìn chằm chằm của con mắt vĩ đại – đặc biệt khi nó có vẻ ác ý dường ấy – khiên Eragon muốn chạy trốn biệt vào trong một hang sâu mãi trong lòng đất. Nó tưởng tượng cảm giác của thỏ khi đối mặt với sinh vật to lớn đầy răng.
Bên cạnh nó, Saphira gầm gừ, những cái vảy lượn sóng, dựng đứng như lông cổ.
Đáp lại, một luồn lửa uể oải phụt ra từ lỗ mũi Shruikan, rồi nó cũng gầm gừ át tiếng Saphira, khiến căn phòng vang dội tiếng ầm ầm như núi lở.
Trên bệ đá, hai đứa trẻ kêu the thé, cố gắng cuộn mình lại, rúc vào hai đầu gối.
“Yên nào, Shruikan,” Galbatorix nói, con hắc long nín ngay. Mí mắt nó sụp xuống, nhưng không khép hẳn; con rồng tiếp tục quan sát chúng qua khoảng vài tấc hé mắt, như thể chờ cơ hội vồ lấy.
“Nó không thích các người lắm,” Galbatorix nói. “Nhưng dù sao, nó cũng chẳng thích ai cả… phải không nhỉ, Shruikan?” Con rồng khụt khịt, không khí phang phảng mùi khói.
Nỗi tuyệt vọng lại tràn ngập Eragon. Shruikan có thể giết Saphira với chỉ một cú bạt vuốt. Dù căn phòng có lớn thế này, nó cũng quá nhỏ để Saphira có thể tránh thường con rồng khổng lồ đủ lâu.
Nỗi tuyệt vọng trong nó chuyển dần thành cơn giận chán nản, nó vặn mạnh sợi dây trói vô hình. “Làm sao ngươi có thể làm vậy?” nó thét, cố tận dụng hết từng sợi cơ trong người.
“Tôi cũng muốn biết nữa,” Arya nói.
Đôi mắt Galbatorix dường như lấp lánh dưới hàng lông mày rậm. “Cô không thể đoán sao, tiên nhân?”
“Tôi muốn biết câu trả lời hơn là đoán mò,” cô đáp.
“Tốt thôi. Nhưng trước tiên các người phải làm một chuyện, để biết ta đang nói sự thật. Các người phải thử phóng một bùa chú, cả hai, rồi ta sẽ nói cho.” Khi thấy cả Eragon và Arya đều không mở miệng, nhà vua ra hiệu. “Cứ làm đi, ta hứa sẽ không trừng phát các người đâu. Thử đi nào … ta nài đấy.|
Arya thử trước. “Thrautha,” giọng cô trầm chắc. Eragon đoán cô muốn phóng thanh Dauthdaert vào Galbatorix. Tuy nhiên thanh vũ khí vẫn nằm yên vị trong tay cô.
Rồi Eragon nói: “Brisingr!” Nó nghĩ liên kết với thanh gươm sẽ cho phép nó dùng được phép thuật khi Arya không thể, nhưng nó thất vọng khi thanh gươm vẫn phát sáng nhàn nhạt trong ánh đèn lồng mờ ảo.”
Ánh mắt Galbatorix trở nên sắc lẻm. “Câu trả lời hiển nhiên rồi chứ, tiên nhân. Ta đã mất cả thế kỉ, nhưng rồi cuối cùng ta đã có thứ mình mãi tìm kiếm: phương tiện điều khiển tất cả các pháp sư ở Alagaësia này. Cuộc tìm kiếm không đơn giản đâu, tất cả những người khác đã chán nản, hoặc nếu đủ kiên nhẫn, sợ hãi. Không phải ta. Ta đã tiếp tục. Qua nghiên cứu, ta tìm ra thứ mình đã khao khát từ rất lâu: một bảng đá viết tay ở vùng đất khác, thời đại khác, không phải do tiên nhân, người lùn, con người hay Urgal viết nên. Trên tấm bảng, khắc lên đó một Từ - cái tên các pháp sư mọi thời đại săn lùng nhưng không đạt được gì ngoài thất vọng não nề.” Galbatorix giơ ngón tay. “Tên của các tên. Tên của cổ ngữ.”
Eragon thầm rủa. Nó đã nghĩ đúng. Đó là những gì lũ Ra’zac đã cố nói với mình, nó nhớ lại khi con quái vật hình thù con trùng nói với nó ở Helgrind: “Ông ta đã gầnnnnn tìm ra cái tên… Cái tên đích thực!”
Tuy chán nản về sự bật mí của Galbatorix, Eragon vẫn bám vào ý nghĩ cái tên đó không thể cản nó hay Arya – thậm chí là Arya – sử dụng phép thuật không dùng cổ ngữ. Vòng phòng ngự của nhà vua chắc chắn bảo vệ lão và Shruikan khỏi bất kì bùa chú nào họ phóng. Tuy nhiên, nếu nhà vua không biết rằng có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ, hoặc thậm chí nếu lão biết nhưng cho rằng họ không biết, thì họ có thể gây bất ngờ và đánh lạc hướng lão trong khoảnh khắc, dù Eragon không chắc thế có thể giúp gì.
Galbatorix tiếp tục: “Với Từ đó, ta có thể thay đổi thần chú dễ như một pháp sư điều khiển nguyên tố. Tất cả các thần chú sẽ tùy thuộc vào ta, nhưng ta sẽ không cho phép ai hết, trừ những người ta chọn mà thôi.”
Có lẽ lão không biết, Eragon nghĩ, tia sáng quyết tâm lóe lên trong tim nó.
“Ta sẽ sử dụng tên của các tên để cai trị tất cả các phù thủy trên đất Alagaësia, sẽ không ai có thể phù phép nếu ta không cho phép, kể cả tiên nhân. Lúc này pháp sư trong quân các người chắc đã phát hiện ra sự thật rồi. Một khi chúng tiến đủ sâu vào Urû’baen, qua cổng chính, bùa phép của chúng sẽ mất hiệu quả. Vài phép thuật mất linh hoàn toàn, một sẽ trở quẻ và tác động vào quân Varden thay vì của ta.” Galbatorix nghiêng đầu nhìn chằm chằm ra phía xa, như thể đang nghe ai đó thì thầm bên tai. “Nó đã làm hàng ngũ của chúng rối loạn lắm rồi.”
Eragon cố nén nhổ vào nhà vua. “Không quan trọng,” nó gầm lên. “Bọn ta vẫn sẽ tìm ra cách chặn ngươi lại.”
Galbatorix tỏ vẻ thích thú không kềm được. “Thế hả? Như thế nào? Và vì sao? Nghĩ xem cậu đang nói gì. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội đầu tiên Alagaësia có một hòa bình thực sự chỉ để thỏa mãn cảm giác trả thù thôi hả? Cậu sẽ để các pháp sư khắp nơi tiếp tục làm gì họ muốn, dù có hại tới người khác thế nào ư? Có vẻ điều đó còn tệ hơn bất cứ những gì ta đã làm. Nhưng đây là một cú đầu cơ rỗng túi đấy. Chiến binh mạnh mẽ nhất trong các Kỵ Sỹ cũng không thể đánh bại ta, mà cậu thì còn xa mới tới được đó lắm. Không ai trong các người cả.”
“Tôi đã giết Durza, và tôi đã giết Ra’zac” Eragon đáp. “Sao không phải ông?”
“Vì ta không yếu như những kẻ tôi tớ ấy. Cậu không thể đánh bại Murtagh, mà nó thì chỉ là cái bóng của những cái bóng. Cha Morzan của cậu hùng mạnh hơn cả hai đứa rất nhiều, kể cả hắn cũng không thể chống được ta. Ngoài ra,” Galbatorix gằn giọng, mặt nhốm vẻ tàn nhẫn, “cậu hơi bị nhầm nếu nghĩ cậu đã diệt được loài Ra’zac. Mấy quả trứng ở Dras-Leona không phải là những quả duy nhất ta lấy từ Lthrblaka đâu. Ta vẫn còn nữa, giấu ở những nơi khác. Chúng sẽ nở sớm thôi, rồi ta sẽ lại có Ra’zac dưới tay để sai bảo. Durza hả, lũ Tà thần cũng dễ tạo ra thôi, và chúng thì hay gây phiền toái nhiều hơn ích lợi. Thế nên, cậu chẳng thắng được cái gì hết, nhóc con – chỉ một vài chiến thắng giả dối.”
Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự tự mãn của Galbatorix lẫn sự vượt trội tuyệt đối của lão. Nó muốn phát khùng với nhà vua, nguyền rủa lão với mọi lời thề nó biết, nhưng vì sự an toàn của lũ trẻ, nó cố kìm miệng lại.
Em có ý tưởng gì không? Nó hỏi Saphira, Arya và Glaedr.
Không, Saphira nói. Những người khác im lặng.
Umaroth?
Chỉ có tấn công khi vẫn có thể thôi.
Một phút im lặng trôi qua. Galbatorix tựa lên khuỷu tay, chống cằm tiếp tục quan sát họ. Dưới chân lão, hai đứa trẻ khóc rấm rức. Phía trên, mắt Shruikan vẫn nhắm vào Eragon, trông như ngọn đèn lồng màu lục khổng lồ.
Rồi họ nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng mở ra rồi đóng lại, tiếng bước chân lại gần – của cả người và rồng.
Murtagh và Thorn xuất hiện trong tầm mắt. Chúng dừng lại bên cạnh Saphira, Murtagh cúi mình. “Thưa Ngài.”
Nhà vua ra hiệu, Murtagh và Thorn bước sang bên phải ngai vàng.
Khi Murtagh nhìn vào nó, Eragon cảm thấy hắn nhìn nó kinh tởm; rồi hắn chắp tay ra sau nhìn chăm chăm về phía xa căn phòng, bàng quan nó.
“Cậu mất nhiều thời gian hơn ta tưởng đấy,” giọng nói nhẹ nhàng dối trá của Galbatorix vang lên.
Không nhìn sang, Murtagh đáp, “Cánh cổng bị hư hại hơn tôi nghĩ, thưa ngài, bùa chú ngài ếm lên khiến sửa chúng khó hơn.”
“Ý của cậu là bởi lỗi của ta mà cậu lề mề à?
Murtagh nghiến răng. “Không thưa ngài. Tôi chỉ muốn giải thích. Hơn nữa, một phần tiền sảnh khá … lộn xộn, khiến chúng tôi chậm lại.”
“Ta hiểu. Chúng ta sẽ nói về nó sau, bây giờ có việc khác cần kíp hơn. Giờ đây các vị khách đã gặp thành viên cuối cùng của bữa tiệc. Hơn nữa, tốt hơn chúng ta nên được chiếu sáng tử tế một chút.”
Galbatorix đập nhẹ thanh gươm lên tay ngai vàng, trầm giọng hô, “Naina!”
Theo lệnh lão, hàng trăm chiếc đèn được thắp sáng khắp các bức tường quanh phòng, tỏa ánh sáng chan hòa như nến. Những góc phòng vẫn hơi tối, nhưng lần đầu tiên Eragon có thể nhìn rõ chi tiết xunh quanh. Hàng trăm cây cột và ô cửa dọc bức tường, những bức tượng, tranh vẽ và lớp hoa văn mạ vàng. Vàng bạc được dùng thừa thãi, Eragon lướt qua thấy tia lấp lánh của đá quý. Một cảnh tượng giàu sang đáng kinh ngạc, kể cả so với sự giàu có của Tronjheim hay Ellesméra.
Sau khoảnh khắc, nó chú ý tới thứ khác: một đống đá xám – có lẽ là granite – cao tám thước, ngay phía bên phải họ, nơi ánh đèn lúc trước không chiếu tới. Bị xích đứng vào đống đá là Nasuada, mặc một chiếc áo khoác trắng. Cô đang mở to mắt quan sát họ, dù không thể nói gì, vì mảnh vài quấn ngang miệng. Trông cô mòn mỏi kiệt sức, nhưng dù sao vẫn khỏe.
Một tia an ủi dâng trong lòng Eragon. Nó không dám nghĩ có thấy tìm được cô vẫn còn sống. “Nasuada!” nó thét. “Cô có ổn không?”
Cô gật đầu.
“Lão có ép cô thề trung thành với lão không?”
Cô lắc đầu.
“Cậu nghĩ ta sẽ để cô ta nói cho cậu biết nếu ta thực sự làm thế sao?” Galbatorix hỏi. Khi Eragon nhìn lại nhà vua, nó thấy Murtagh liếc nhìn nhanh tỏ vẻ quan tâm về phía Nasuada, và nó băn khoăn ý nghĩa của chuyện đó.
“Tốt, thế ông có làm vậy không?” Eragon hỏi thách thức.
“Như chuyện phải thế thôi, không. Ta quyết định nên chờ đến khi tập trung tất cả mọi người ở đây. Giờ thì tốt rồi, các người s
Eragon nhìn lên mảng vàng tỏa sáng. Dọc cánh cửa được chạm khắc hình cây sồi kích cỡ như thật, vòm lá uống thành hình vòng cung cùng với bộ rễ vẽ nên một vòng tròn quanh thân cây. Từ khoảng giữa thân cây mỗi bên mọc ra hai nhánh cây to đùng. Ở mảng phía trên bên trái chạm hình một đoàn quân tiên nhân cầm thương hành quân ra từ khu rừng rậm. Ở khoảng trên bên phải là con người đang xây lâu đài và rèn gươm. Ở phía dưới bên trái, Urgal – phần lớn là Kull – đốt phá làng mạc và giết người. Ở phía dưới bên phải, người lùn khai mỏ đầy khoáng thạch và vỉa quặng. Giữa thân và cành cây sồi, Eragon nhận thấy ma mèo và Ra’zac, còn có một loài vật nhỏ kì lạ mà nó không nhận ra. Cuộc chính giữa thân cây là một con rồng đang ngậm đuôi như thể cắn chính mình. Cánh cửa được chạm khắc tuyệt đẹp. Nếu ở tình cảnh khác, nó sẵn sàng bỏ cả ngày ra ngồi đây nghiên cứu chúng.
Ánh sáng chói lọi của cánh cổng làm nó dâng lên cảm giác khiếp đảm khi cân nhắc thứ gì phía bên kia. Nếu đó là Galbatorix, thì cuộc đời của họ sẽ thay đổi mãi mãi và không bao giờ như trước nữa – cả cho họ lẫn toàn bộ Alagaësia.
Anh chưa sẵn sàng, Eragon thì thào với Saphira.
Từ khi nào bọn mình sẵn sàng vậy? Cô nàng thè lưỡi đớp không khí. Nó có thể thấy cô nàng đề phòng rất căng thẳng. Galbatorix lẫn Shruikan đều phải bị tiêu diệt, và chúng mình là người duy nhất có thể làm chuyện đó.
Nếu chúng mình không thể thì sao?
Thì không thể thôi, cái gì phải đến sẽ đến.
Nó gật nhẹ đầu, hít sâu một hơi. Anh yêu em, Saphira.
Em cũng yêu anh, anh nhỏ.
Eragon bước lên. “Giờ sao?” Nó hỏi cố giấu sự khó thở. “Ta có nên gõ cửa không?”
“Đầu tiên, cứ xem nó có mở không đã,” Arya nói.
Họ dàn hàng sẵn sàng cho trận đấu. Rồi Arya, bên cạnh Elva, nắm lấy tay cầm cánh cửa bên phải và chuẩn bị kéo.
Ngay lúc đó, một cột ánh sáng lung linh quấn quanh Blödhgarm và mười tiên nhân bên cạnh ông. Eragon thét lên cảnh báo, Saphira rít lên như thể dẫm lên vật nhọn. Các tiên nhân không thể di chuyển trong cột sáng: kể cả mắt họ cũng có vẻ bất động ngay từ lúc phép thuật có tác dụng.
Có tiếng cạch nặng nề vang lên, cánh cửa từ tường bên trái mở ra, các tiên nhân trượt về phía đó như thể những bước tượng trên mặt băng.
Arya lao theo, vươn ngạnh thương ra cố chọc thủng bùa chú trói buộc các tiên nhân, nhưng cô không theo kịp họ.
“Letta!” Eragon la lên. Dừng lại! Pháp thuật đơn giản nhất nó nghĩ có thể giúp được. Nhưng bùa chú ếm lên các tiên nhân có vẻ quá mạnh để nó có thể phá, họ biến mất trong bóng tối, cánh cửa đóng sập lại phía sau.
Cảm giác chán nản dâng trong lòng Eragon. Không có các tiên nhân …
Arya đập mạnh cánh cửa bằng cán thanh Dauthdaert, cố tìm kẽ hở giữa cánh cửa và bức tường bằng ngọn thương – như đã làm với cổng ngoài – nhưng bức tường dường như đặc kín, bất động.
Cô quay lại, vẻ mặt lạnh lẽo điên tiết. Umaroth, cô yêu cầu. Tôi cần sự giúp đỡ của người để mở cửa.
Không, con rồng trắng đáp. Galbatorix chắc chắn giấu những người kia rất kĩ. Cố tìm họ chỉ lãng phí năng lượng và đặt chúng ta vào tình thế nguy hiểm hơn.
Arya nhíu mày giận giữ. Thế thì chúng ta lọt bẫy lão mất, Umaroth-tiền-bối. Lão muốn tách chúng ta ra cho yếu đi. Nếu tiếp tục đi mà không có họ, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta hơn.
Phải rồi, nhóc con. Nhưng ngươi có nghĩ Kẻ Phản Đồ(nguyên văn: Egg-breaker)muốn chúng ta lần theo họ không? Hắn có thể muốn chúng ta quên mất lão ta trong lo lắng, giận dữ, mù quáng nhảy vào một cái bẫy khác.
Sao lão phải lắm chuyện như thế? Lão có thể bắt Eragon, Saphira, người và toàn bộ các Eldunarí hệt như đã tóm mấy người Blödhgarm kia mà, nhưng lão không làm thế.
Có lẽ hắn muốn chúng ta tự kiệt sức trước khi đối mặt hắn hoặc trước khi hắn đánh bại chúng ta.
Aray cúi đầu suy nghĩ, rồi khi ngẩng lên cơn thịnh nộ của cô tan đi – ít ra là bề ngoài – thay bằng vẻ cảnh giác cao độ bình thường. Vậy chúng ta nên làm gì, Ebrithil?
Chúng ta hy vọng Galbatorix sẽ không giết mấy người Blödhgarm, ít ra là ngay lập tức , và tiếp tục cho đến khi tìm thấy nhà vua.
Dù Arya chấp thuận, nhưng Eragon có thể thấy cô thực khó chịu. Nó không thể đổ lỗi cho cô được vì chính nó cũng thấy vậy.
“Sao em không cảm thấy cái bẫy?” Nó nhẹ giọng hỏi Elva. Nó nghĩ mình hiểu, những vẫn muốn nghe lý do từ cô bé.
“Vì nó không làm họ đau,” cô bé nói.
Nó gật nhẹ.
Arya lui về phía cánh cửa vàng, nắm lấy tay cầm bên trái. Elva cũng nắm lấy cán thanh Dauthdaert.
Arya nghiêng người kéo, rồi cánh cửa vĩ đại chầm chậm mở ra. Eragon dam chắc không con người nào đủ sức mở nó, kể cả với sức mạnh của Arya.
Khi cánh cửa chạm bức tường, Arya thả ra, cùng Elva bước theo Eragon phía trước Saphira.
Phía bên kia cổng tò vò là một căn phòng khổng lồ tối tăm. Eragon không dám chắc nó lớn cỡ nào, vì những bức tường mờ ẩn trong bóng tối xám xịt. Một hàng đèn-lồng-không-lửa đặt trên các cột sắt chạy dọc hai bên lối vào, thắp sáng mù mờ sàn nhà chạm trổ, trong khi ánh sáng mù mờ tỏa ra từ những tinh thể gắn trên trần nhà xa xa. Hai hàng đèn lồng dài chừng năm trăm thước tới gần cái bệ rộng, trên đó là ngai vàng. Một bóng dáng duy nhất ngồi đơn độc trong căn phòng, dưới vạt áo hắn là thanh gươm trần trắng dài, đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.
Eragon nuốt nước bọn, nắm chặt thanh Brisingr. Nó gãi nhẹ cằm Saphira bằng cạnh khiên, cô nàng táp lưỡi nhẹ đáp trả. Rồi không nói gì, cả bốn cùng tiến lên.
Khi họ tiến vào phòng, cánh cửa vào đóng sập lại phía sau. Eragon cũng đoán trước được, nhưng tiếng động vẫn làm nó giật mình. m thanh vang vọng nhạt dần nhường chỗ cho sự im lặng tỏa khắp căn phòng lớn, bóng dáng phía trên ngai cựa mình như thức giấc, rồi một giọng nói – thứ giọng Eragon chưa từng nghe: nó trầm và mãnh liệt, thấm đầy uy lực hơn cả Ajihad hay Oromis hay Hrothgar, kể cả tiếng nói của tiên nhân cũng trở nên chói tai khó nghe khi so với nó – vang lên từ phía xa căn phòng.
Giọng nói đó bảo, “À, ta đang chờ mọi người đây. Chào mừng tới tệ xá. Và nhất là cậu đấy, Eragon Khắc tinh của Tà thần, và cho ngươi, Saphira Vảy Sáng. Ta rất mong gặp các cậu. Nhưng ta cũng hân hạnh gặp cô nữa, Arya – ái nữ của Islanzadí, mà cũng là Khắc tinh của Tà thần phải không – cả cô bé nữa, Elva My Rạng (nguyên văn: she of the Shining Brow). Dĩ nhiên, cả Glaedr, Umaroth, Valdr, những người du hành vô hình nữa. Ta tưởng họ đã mất lâu rồi, nhưng giờ thật mừng vì ta đã lầm. Chào mừng tất cả mọi người! Chúng ta phải nói chuyện thật nhiều mới được.”
Trái tim của cuộc chiến
Cùng các binh sĩ trong tiểu đoàn, Roran chiến đấu từ trên tường thành Urû’baen xuống đường phố bên dưới. Họ ngừng một chút tập hợp, anh vừa hô, “Ra cổng!” vừa chĩa búa theo hướng đó.
Anh cùng vài dân làng Carvahall, có cả chú Horst và Delwin, dẫn đầu tấn công về phía lỗ thủng các tiên nhân tạo ra bằng phép thuật. Cung tên bay tán loạn trên đầu họ, nhưng không nhắm thẳng vào họ, anh cũng không nghe thấy ai trong nhóm bị trúng tên cả.
Họ đúng đầu vài tá binh lính trong khoảng ngõ hẹp giữa tường thành và những ngôi nhà đá. Một số ở lại chiến đấu để hầu hết tiếp tục chạy, nhưng kể cả họ cũng sớm rút vào những hẻm gần kề.
Lúc đầu cảm giác cuồng nhiệt được giết chóc và chiến thắng làm mờ mắt Roran. Nhưng rồi khi bọn lính họ gặp bỏ chạy liên tục, cảm giác lo lắng cuộn lên trong Roran, anh bắt đầu nhìn xung quanh đầy cảnh giác, tìm kiếm bất kì thứ gì trông lạ thường.
Có gì đó không ổn. Anh chắc chắn.
“Galbatorix không bỏ rơi chúng dễ vậy chứ”, anh lẩm bẩm.
“Gì thế?” Albriech đứng cạnh anh hỏi.
“Tôi nói, Galbatorix sẽ không bỏ rơi chúng như thế này đâu.” Ngoẹo đầu nhìn quanh, Roran hô lên với cả tiểu đoàn, “Đề cao cảnh giác nào! Tôi cuộc Galbatorix có thể còn nhiều thứ bất ngờ đấy. Chúng ta sẽ không để bị đánh bại mà không hiểu chuyện gì chứ, phải không?”
“Cây Búa Dũng Mãnh!” họ kêu gào đáp trả, vũ khí đặt sát khiên. Tất cả, trừ các tiên nhân. Đã thỏa mãn, anh bước nhanh tới kiểm tra các mái nhà.
Họ nhanh chóng tiến vào một con phố đầy sỏi đá dẫn thẳng đến nơi từng là cổng thành chính. Giờ nó chỉ còn là một cái hố rộng hàng trăm thước, với hàng đống xương vụn dưới đáy. Hàng đoàn chiến binh quân Varden và đồng minh tuôn qua khoảng trống: con người, người lùn, Urgal, tiên nhân và mèo ma lần đâu tiênsát cánh chiến đấu trong lịch sử.
Tên bắn ào ào như mưa lên quân đoàn đang tiến vào thành phố, nhưng phép thuật của các tiên nhân chặn đứng những mũi nhọn chết người trước khi đâm xuống. Nhưng binh lính của Galbatorix thì không được may mắn như vậy: chúc ngã gục tới tấp trước mũi tên của các cung thủ Varden, dù một số có vẻ được bảo vệ bởi pháp thuật. Roran đoán có lẽ đó là những kẻ được Galbatorix sủng ái.
Khi tiểu đoàn của anh nhập vào đoàn quân, Roran trông thấy Jörmundur cưỡi ngựa trong dòng thác chiến binh. Anh hô to chào, ông đáp lại rồi hô lên, “Khi tới đài phun nước” – ông chĩa gươm vào công trình lớn tráng lệ trong khoảng sân phía trước họ mấy trăm bộ - “dẫn lính của cậu về hướng phải. Dọn dẹp mạn Nam thành phố, rồi tập hợp với chúng tôi ở tòa thành.”
Roran gật mạnh đầu để Jörmundur thấy. “Vâng thưa Ngài!”
Giờ anh cảm thấy an toàn hơn khi có sự hỗ trợ của những chiến binh, nhưng cảm giác lo lắng vẫn tiếp tục. Bọn chúng đâu rồi? Anh băn khoăn, nhìn qua những con phố trống trải. Galbatorix đáng ra phải có hàng đoàn quân tại Urû’baen, nhưng Roran vẫn chưa thấy bóng dáng của chúng đâu cả. Chỉ có một số lính nháo loạn trên tường thành thật, và chúng còn bỏ chạy nhanh hơn bình thường nữa.
Hắn đang dụ chúng ta, Roran đột nhiên nhận ra. Tất cả được tạo ra để gạt chúng ta. Cố gọi Jörmundur lần nữa, anh la lên, “Có gì đó không đúng! Binh lính ở đâu rồi?”
Jörmundur tư lự, quay sang vua Orrin và Nữ hoàng Islanzadí, đang phóng ngựa phía trước. Kì cục sao, con trắng đậu trên giáp vai nữ hoàng, móng của nó bám vào khe hở trên chiếc áo giáp vàng của bà.
Quân Varden vẫn tiếp tục tiến sâu hơn vào lòng Urû’baen.
“Có chuyện gì vậy, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm lên tiến tới bên Roran.
Roran liếc nhìn lên gã Kull đầu bự chảng. “Tôi không chắc lắm. Galbatorix …”
Anh quên ngay những gì mình định nói khi tiếng tù và vang lên giữa các tòa nhà phía trước. Tiếng kèn trầm trầm quái gở kéo dài hơn nửa phút khiến quân Varden khựng lại, nhìn quanh lo lắng.
Tim Roran như rụng xuống. “Đây rồi,” anh nói với Albriech. Quay người lại anh vẫy búa, chỉ về phía bên con đường. “Mai phục!” anh rống lên. “Chiu vào các tòa nhà, tránh đi!”
Tiểu đoàn của anh mất thời gian hơn nhiều để thoát ra khỏi đoàn quân. Bực mình, anh la hét, cố khiến họ di chuyển nhanh hơn. “Nhanh lên, mấy tên ngốc này! Nhanh lên!”
Tiếng tù và lại vang lên, rốt cục Jörmundur cũng ra lệnh dừng tiến quân.
Khi đó quân của Roran đã trốn an toàn trong ba con phố, đứng tụm vào trong các ngôi nhà chờ lệnh. Roran đứng sát trong một ngôi nhà cùng với Garzhvog và chú Horst, đứng ở góc cửa nhìn chăm chú xem chuyện gì đang xảy ra.
Rồi một tiếng tù và nữa vang lên, tiếng bước chân nặng nền vang khắp Urû’baen.
Roran kinh hãi khi anh thấy hàng đoàn hàng đoàn binh lính hành quân ra từ các con phố dẫn ra từ tòa thành, nhanh nhẹn, đầy kỉ luật, khuôn mặt không hề có một chút vẻ sợ hãi. Dẫn đần chúng là một gã lùn vai rộng trên con chiến mã màu xám. Hắn khoác bộ giáp sáng bóng phình ra cả tấc như thể cho lọt cái bụng lớn. Tay trái hắn đeo một chiếc khiên có hình tháp công thành trên đỉnh đồi trọc. Tay phải hắn cầm cây chùy đầu nhọn mà người thường khó mang được, nhưng hắn đang vung vẩy nó nhẹ nhàng.
Roran liếm môi. Anh đoán hắn không ai chính là Tướng Barst, nhưng chỉ cần một nữa những gì anh nghe về hắn đúng thôi, thì Barst cũng sẽ không bao giờ đối mặt trực diện với địch trừ khi hắn chắn chắn tiêu diệt được đối phương.
Roran thấy thế là quá đủ. Nhảy ra khỏi góc nhà, anh nói, “Chúng ta không chờ nữa. Gọi những người khác theo.”
“Ý anh là bỏ chạy hả, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm gừ.
“Không,” Roran nói. “Ý tôi là đột kích từ bên sườn. Có rồ mới tấn công đoàn quân như thế này trực diện. Giờ đi!” Anh xô gã Urgal một cái, rồi đi thẳng xuống con đường dẫn đầu các chiến binh. Và có rồ mới chạm trán trực tiếp với kẻ Galbatorix chọn dẫn đầu quân đội của lão.
Khi họ lần qua những ngôi nhà san sát, Roran nghe binh lính bắt đầu hô, “Tướng Barst! Tướng Barst! Tướng Barst!”. Chúng dậm huỳnh huỵch lên mặt đất bằng đôi bốt đinh, vừa gõ gươm vào khiên vang dội.
Càng lúc càng hay, Roran nghĩ, ước gì mình ở bất kì đâu cũng được chứ không phải nơi này.
Rồi quân Varden hô vang đáp trả rộn ràng “Eragon!”, “Kỵ Sỹ Rồng!” thành phố rung chuyển cùng hàng tràng kim khí va chạm và tiếng la hét của binh sĩ bị thương.
Khi tiểu đoàn tiến đến điểm Roran ước chừng ở giữa quân đoàn Đế chế, anh lệnh họ dàn đội ngũ quay về phía địch. “Ở cạnh nhau,” anh ra lệnh. “Tiến lên từ bức tường với khiên phía trước, kiên quyết bảo vệ các pháp sư.”
Họ nhanh chóng nhận thấy binh lính trên con phố - chủ yếu là quân thương – dồn vào nhau khi chúng lê bước tới trận tiền.
Nar Garzhvog gầm lên hung tợn, Roran và các chiến binh khác cũng vậy, họ lao thẳng vào hàng ngũ quân địch. Binh lính hô lên cảnh báo, sự hốt hoảng lan đi khiến chúng dạt lùi lại, dẫm đạp nhau khi cố tìm khoảng trống chiến đấu.
Roran tru lên một tiếng, lao thẳng xuống hàng đầu tiên của địch. Máu bắn tung tóe khoe anh vung búa đập vào xương và kim khí. Lũ binh lính đứng chật chội đến mức chúng gần như vô dụng. Anh giết bốn tên trước khi chúng kịp vung gươm, bị anh đỡ bằng khiên.
Phía cuối con phố, Nar Garzhvog đốn ngã sáu tên chỉ bằng một phát dùi cui. Lũ lính lồm cồm bò dậy, không bận tâm đến vết thương có thể làm chúng tê liệt nếu biết đau, rồi Garzhvog giáng thêm một phát, quăng chúng đi như búp bê.
Roran không còn biết gì khác ngoài những tên lính trước mặt, sức nặng của cây búa trong tay và mặt đất đá trơn tuột vì nhốm máu dưới chân. Anh tàn phá, chiến đấu, anh cúi mình xô đẩy, anh gầm lên la hét, giết, giết, giết – cho đến khi ngạc nhiên phát hiện ra mình đang vung búa vào không khí. Vũ khí đập mạnh xuống nền đá tóe lửa, xóc lên đau đớn cả cánh tay anh.
Roran lắc mạnh đầu, cơn say chiến đấu nhạt dần; anh vất vả trèo qua đống xác của đám binh lính.
Ngoảnh lại, anh thấy phần lớn các chiến binh của mình vẫn chiến đấu với lũ lính. Gầm lên một tiếng nữa, anh lại nhảy bổ vào tiếp tục.
Ba tên lính đứng ngay gần anh: hai tên cầm thương, một tên cầm gươm. Roran nhào tới xô ngã tên cầm gươm, nhưng bị trượt chân khi giẫm phải cái gì đó mềm oặt. Ngay khi ngã, anh vẫn kịp vung búa đập vào mắt cá chân tên gần nhất. Gã lính nhảy lùi lại cố đâm xuống Roran, nhưng một tiên nhân nhảy tới và chỉ cần hai chiêu đã lấy đầu được cả ba tên.
Đó là tiên nữ anh đã la hét phía bên ngoài tường thành, giờ tơi tả với vạt áo đẫm máu. Trước khi anh kịp cảm ơn, bà đã phóng qua, thanh kiếm lượn mờ ảo khi bà hạ gục nhiều tên khác.
Sau khi nhìn họ chiến đấu, Roran kết luận mỗi tiên nhân mạnh ngang ít nhất năm người, chưa kể họ còn có thể phù phép. Đối với các Urgal, anh cố tránh xa khỏi họ, đặc biệt là các Kull. Khi hăng máu lên thì họ chẳng còn phân biệt địch ta gì hết, mà các Kull thì quá lớn, giết ai đó quá đơn giản mà không cần phải để ý. Anh thấy có Kull ép nát một tên lính vào tường nhà mà chẳng hay biết. Rồi anh lại thấy một Kull khác cắt đầu một tên lính khi vô ý xoạc khiên quay lại.
Cuộc đấu kéo dài thêm vài phút, khi những tên lính cuối cùng còn sót lại đều đã chết.
Quẹt mồ hôi trên khóe mắt, Roran nhìn dọc con phố. Xa hơn trong thành phố, anh thấy tàn dư của đội ngũ vừa bị tiêu diệt biết mất trong những ngôi nhà, nhập bọn vào những quân đoàn khác của Galbatorix. Anh định đuổi theo chúng, nhưng trận chiến quá gần rìa thành phố, mà anh thì muốn cắt đứt tuyến giữa của chúng khi đang tấn công.
“Đường này!” anh hét lên, nâng búa chạy dọc xuống con phố.
Một mũi tên cắm thẳng vào cạnh khiên, anh ngước lên thấy một bóng người trượt xuống mái nhà gần đó.
Khi Roran trồi lên từ mấy ngôi nhà sát nhau gần quảng trường trước đống đổ nát của cổng thàng, anh thấy một cảnh tượng làm anh bối rối không biết phải làm sao.
Hai đoàn quân hòa lẫn vào nhau cho đến khi không thể xác định được hàng ngũ gì cả, thậm chí cả không rõ tiền tuyến ở đâu nữa. Quân phục đỏ thẫm của binh lính rải rác khắp quảng trường, có khi lác đác, có khi thành cụm lớn, cuộc chiến lan ra khắp các con phố gần đó, hai đoàn quân tràn ra như vết dầu loang. Giữa những binh sĩ, Roran thấy như đoán trước hàng trăm con mèo – mèo thường, không phải ma mèo – đang tấn công binh lính, anh chưa bao giờ thấy chung hung dữ đáng sợ như vậy. Anh biết lũ mèo được sự chỉ dẫn của ma mèo.
Rồi ở trung tâm quảng trường, Tướng Barst đang cưỡi trên con chiến mã xám, bộ giáp lớn của hắn lóe sáng ảnh lửa đốt cháy những ngôi nhà kế bên. Hắn vung chùy hết lượt này đến lượt khác, nhanh hơn khả năng của con người, mỗi lần hạ gục ít nhất một quân Varden. Tên bắn về phía hắn nhanh chóng bị thiêu rụi trong ngọn lửa da cam, gươm giáo trúng hắn bật ra như thể đập vào đá, kể cả một Kull lao tới cũng không đủ mạnh thúc hắn ra khỏi con ngựa. Roran kinh ngạc thấy chỉ bằng một cú vụt bình thường, hắn có thể làm vỡ sọ và sừng một Kull như thể đập vỏ trứng.
Roran nhăn mặt. Thế quái nào mà hắn nhanh và mạnh như thế được? Câu trả lời thì dĩ nhiên là phép thuật rồi, nhưng kể cả phép thuật cũng phải có nguồn gốc. Không có viên ngọc nào trên cây chùy hay giáp của Barst cả, Roran cũng không tin Galbatorix có thể cung cấp năng lượng cho hắn từ khoảng cách này. Roran nhớ lại cuộc nói chuyện với Eragon trước khi giải cứu Katrina ở Helgrind. Eragon từng nói không thể thay đổi cơ nhục của con người để có sức mạnh và tốc độ như tiên nhân được, kể cả cho dù là Kỵ Sỹ đi nữa – những gì loài rồng làm với Eragon trong Lễ Huyết Thệ cũng quá thần kì. Có vẻ Galbatorix cũng không làm như vậy đối với Barst, khiến Roran băn khoăn, nguồn gốc sức mạnh phi phàm của hắn ở đâu ra vậy?
Barst giật yên cương quay con chiến mã lại. Tia sáng lóe lên trên bề mặt bộ giáp phình ra khiến Roran chú ý.
Miệng Roran khô lại trong cơn tuyệt vọng. Từ những gì anh biết, Barst không béo. Hắn sẽ không khiến cơ thể yếu đuối, mà Galbatorix cũng sẽ không chọn kẻ như vậy bảo vệ Urû’baen. Cách giải thích hợp lý duy nhật là Barst giấu một Eldunarí trong lòng áo giáp có hình dạng kì cục.
Rồi con phố rung chuyển tách ra, một chiếc hố xuất hiện bên dưới Barst và con chiến mã. Miệng hố thừa đủ để nuốt gọn cả hai, nhưng con ngựa vẫn đứng trên không trung như thể trên đất bằng. Một vầng sáng màu lung linh xung quanh Barst như thể hào quang hay một mảnh cầu vồng. Những đợt khí nóng rồi lạnh phát ra từ phía Barst, rồi Roran thấy những lưỡi băng tua tủa mọc lên từ mặt đất, cố quấn quanh chận con chiến mã giữ chặt nó. Nhưng cọc băng không thể bắt con ngựa, bất kể phép thuật nào cũng không có tác dụng gì lên chúng.
Barst lại giật cương ngựa, phi thẳng đến một nhóm tiên nhân đứng gần một ngôi nhà niệm cổ ngữ. Roran đoán có lẽ họ đã phóng bùa chú vào Barst.
Giơ chùy cao quá đầu, Barst phi thẳng vào giữa đám tiên nhân. Họ chạy tán loạn cố tự bảo vệ, nhưng vô nghĩa, Barst đập vỡ khiên và gươm của họ nhẹ nhàng, rồi khi hắn đánh trúng, cái chùy nghiền nát các tiên nhân như thể xương cốt của họ mảnh khảnh rỗng tuếch như của loài chim.
Sao lưới phòng hộ không bảo vệ họ? Roran wondered. Sao họ không tấn công hắn bằng tâm trí? Hắn chỉ có một người, mà chỉ có một Eldunarí.
Cách vài bộ, một tảng đá bự chảng đạp thẳng vào biển người đang chiến đấu, để lại một vệt dài đỏ thẫm, rồibật lên dội vào mặt trước tòa nhá, nghiền nát bức tượng trên khung cửa.
Roran cúi xuống, chửi thề, nhìn về phía những hòn đá phóng ra. Từ phía kia của thành phố, anh thấy lính của Galbatorix đã chiếm được các máy bắn đá trên tường thành. Chúng đang bắn chính thành phố của mình, anh cáu. Chúng đang bắn chính đồng đội của mình.
Gầm lên kinh tởm, anh chạy khỏi quảng trường, đối mặt với khu nội thành. “Chúng ta không làm gì ở đây được!” anh hô lên với tiểu đoàn. “Để Barst lại cho người khác. Chiếm lấy những con phố phía đó!” Anh chỉ sang trái. “Chúng ta sẽ đánh đến tường thành và dừng ở đó!”
Rồi anh phóng vụt đi ngay lập tức, còn không kịp nghe các binh sĩ có phản ứng gì. Phía sau anh, một tảng đá khác lao xuống hai quân đoàn đang chiến đấu, tiếng kêu gào đau đớn còn vang vọng hơn.
Con phố Roran chọn đầy rẫy binh lính, cũng như rất ít thần tiên và ma mèo, lúc này đang túm tụm lại trước cửa hàng mũ, vất vả cầm cũ lũ lượt binh lính vây quanh. Các tiên nhân hét lên, khoảng một tá lính ngã xuống, nhưng số còn lại vẫn đứng được.
Nhảy thằng vào giữa đám lính, Roran lại chìm đắm trong trận chiến đẫm máu. Anh nhảy lên xác một tên lính, hạ búa xuống đầu một tên khác khi quay lưng. Tự tin hắn đã chết, Roran dùng khiên đẩy tên kế tiếp lại, đâm mạnh cán búa chọc thủng cổ họng hắn.
Bên cạnh anh, Delwin bị một thanh thương đâm vào vai, quỳ xuống bằng một chân kêu lên đau đớn. Vung búa nhanh hơn, Roran đẩy lùi gã lính trong khi Delwin rút thương ra đứng lên.
“Lui lại,” Roran gào lên.
Delwin lắc đầu nhe răng. “Không!”
“Lui lại, mẹ kiếp! Đấy là lệnh.”
Delwin chửi thề nhưng vẫn tuân lệnh, chú Horst thế chỗ cậu. Roran để ý người thợ rèn chảy máu từ những vết chém trên tay chân, nhưng chúng không làm ông chậm đi chút nào.
Tránh một cú đâm, Roran bước về phía trước. Có vẻ anh nghe thấy một tiếng soạt nhẹ sau lưng, rồi có tiếng sấm nổ bên tai, bầu trời như quay cuồng, tối sầm đi.
Anh tỉnh dậy đầu vẫn đau nhói. Phía trên anh thấy bầu trời – sáng bừng bởi ánh mặt trời – và mảng tối phía dưới phiến đá nứt nẻ nhô ra.
Rên lên vì đau, anh cố đứng dậy. Anh đang nằm dưới chân của bức tường thành bên ngoài, bên cạnh mảnh đá vỡ dính đầy máu. Cả khiên và búa đều văng mất, khiến anh mụ đi một lúc.
Ngay khi anh cố lấy thăng bằng, một tốp năm tên linh lao thẳng đến, một tên đâm thương vào ngực anh. Mũi thương đẩy anh đập tường, nhưng không chạm vào da.
“Tóm lấy nó!” mấy tên lính la lên, Roran thấy cả tay và chân đều bị giữ chặt. Anh quẫy đạp cố gắng vùng ra, nhưng anh vẫn quá yếu và choáng váng, hơn nữa lại bị quá nhiều tên lính áp đảo.
Bọn lính đánh anh liên tục, anh cảm thấy sức mạnh càng lúc càng giảm khi lớp bảo vệ chắn anh khỏi những đòn đánh. Mọi thứ như xám xịt lại, anh dần thấy ngất đi, cho đến khi một thanh gươm xọc ra từ miệng một tên lính.
Lũ lính thả anh ra, Roran nhìn thấy người phụ nữ tóc đen xoay tít giữa bọn lính, thanh kiếm múa điêu luyện hơn cả những chiến binh dày dặn. Trong vài giây, bà giết sạch cả năm tên, dù gã cuối cùng cắt được một vết nông phía dưới đùi trái bà.
Tiếp đó, bà đưa tay ra đỡ anh nói, “Cây Búa Dũng Mãnh.”
Anh bám chắc tay bà, nhìn lên cổ tay - nơi bao tay không che kín – vằn vện những sẹo, như thể bà từng bị đốt hay quất tới tận xương. Đằng sau bà là một cô bé sắc mặt tái nhợt mặc áo giáo khuyên, và một bé trai nhỏ hơn một hai tuổi gì đó.
“Bà là ai?” anh đứng lên. Khuôn mặt người phụ nữ rất ấn tượng: nó rộng, vững chãi, ánh mắt sắc sảo dạn dày sương gió của người từng trải qua cả cuộc đời giông tố.
“Một kẻ qua đường mà thôi,” bà nói. Bà cúi xuống nhặt lên một thanh thương đưa cho anh.
“Xin cảm ơn.”
Bà gật nhẹ, rồi cùng với hai người đồng hành nhỏ tuổi bước giữa những ngôi nhà, tiến sâu vào lòng thành phố.
Roran nhìn trân trối họ trong nửa giây lo lắng, rồi lắc mạnh đầu, rảo bước về con phố với tiểu đoàn của mình.
Các chiến binh chào đón anh bằng tiếng hô vang kinh ngạc, phấn khích tấn công địch với khi thế dồn dập. Tuy nhiên, khi Roran quay qua các đồng đội từ làng Carvahall, anh nhận ra tảng đá bắn trúng anh còn giết cả Delwin nữa. Nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ, anh chiến đấu điên cuồng hơn bao giờ hết, quyết tâm kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt.
Tên của các tên (The Name of All Names)
Vừa sợ hãi vừa quyết tâm, Eragon bước cùng Arya, Elva và Saphira về phía bệ đá nơi Galbatorix đang ngồi thoải mái trên ngai vàng.
Quãng đường đi đủ dài để Eragon cân nhắc một loạt chiến thuật mà hầu như đều không khả thi tí nào. Nó biết chỉ sức mạnh không thôi chưa đủ để đánh bại nhà vua; phải khôn khéo nữa, mà cái đó thì nó cảm thấy kém nhất. Dù sao nó không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với Galbatorix.
Hai hàng đèn lồng dẫn tới bệ đá rộng đủ cho họ bước cạnh nhau. Eragon cảm thấy mừng, vì Saphira có thể chiến đấu ngay nếu cần thiết.
Khi họ tiến gần ngai vàng, Eragon tiếp tục xem xét căn phòng. Nó nghĩ nơi kì lạ này không giống nơi để vui tiếp khách khứa. Ngoài hướng đi được rọi sáng phía trước, toàn bộ phần còn lại ẩn trong bóng tối xám xịt - còn hơn cả sảnh đường của người lùn dưới lòng Tronjheim và Farrthen Dûr – không khí khô đượm mùi xạ hương quen thuộc, dù nó không nhớ ra ở đâu.
“Shruikan đâu rồi?” nó trầm giọng hỏi.
Saphira khụt khịt. Em có thể ngửi thấy nó, nhưng không nghe thấy gì hết.
Elva cau mày. “Tôi cũng không cảm thấy con rồng.”
Khi chỉ còn cách bệ đá chừng ba mươi thước, họ dừng lại. Phía sau ngai vàng phủ xuống bức màn đen dầy như nhung, treo lên từ mái nhà.
Bóng đen phủ lên Galbatorix, che đi hình hài của lão. Rồi lão ngả người ra ánh sáng, và Eragon nhìn khuôn mặt lão. Nó dài, mảnh khảnh, lông mày sâu, mũi sắc như gươm. Cặp mắt lão sắc như đá, tròng mắt trắng nhờ nhờ. Miệng lão mỏng và khóe hơi chếch xuống, lão để râu cắt tỉa gọn gàng và ria mép, đen như dầu hắc ín y hệt như quần áo lão đang mặc. Nhìn qua lão trạc tầm bốn mươi: độ tuổi đỉnh cao sung mãn, nhưng bên bờ suy sụp. Có những nếp nhăn trên lông mày và hai bên mũi, làn da sạm của lão nhìn có vẻ mỏng tang như thể lão không ăn gì ngoài thịt thỏ và củ cải trong suốt mùa đông. Vai lão rộng và chắc chắn, hông thon gọn.
Trên đầu lão đội một vương miện màu đỏ làm từ vàng đính đủ loại đá quý. Chiếc vương miện nhìn cũ kĩ – còn hơn cả căn phòng, Eragon tự hỏi có phải nó từng thuộc về vua Palancar hàng trăm năm trước hay không.
Thanh gươm của lão nằm trên vạt áo. Đó là một thanh gươm Kỵ Sỹ, hiển nhiên, nhưng Eragon chưa thấy cái như thế bao giờ. Cả lưỡi gươm, cán lẫn đầu nối đều trắng muốt, một viên ngọc đính trên chuôi kiếm trong suốt như nước suối. Nói chung, có gì đó ở thanh gươm khiến Eragon không dễ chịu tí nào. Màu của nó – hay đúng hơn là cái sự thiếu màu sắc– gợi nó nhớ đến những mảnh xương trải qua nắng gió. Đó là màu của cái chết, không phải sự sống, trông còn đáng sợ hơn màu đen nhiều.
Galbatorix xem xét từng người bọn họ bắng ánh mắt sắc lẻm không chớp. “Thế là, các cậu đến đây để giết ta,” lão nói. “Được rồi, bắt đầu chưa?” Lão nhấc thanh gươm rồi dang tay ra như thể chào mời.
Eragon xoải chân, nâng gươm và khiên lên. Lời mời của nhà vua làm nó khó chịu kinh khủng. Lão đang đùa với bọn ta.
Vẫn nắm chặt thanh Dauthdaert, Elva bước lên rồi bắt đầu nói. Nhưng cô bé không thốt ra lời nào, ánh mắt nhìn Eragon cảnh báo.
Eragon cố gắng chạm vào tâm trí cô bé, nhưng nó không cảm thấy tư tưởng của cô bé, nhưng thể cô bé không còn ở trong phòng nữa.
Galbatorix cười ngả, rồi thả lưỡi gươm xuống vạt áo và dựa vào ngai. “Nhóc thực tin rằng ta không để ý đến khả năng của nhóc à? Nhóc thực nghĩ rằng có thể khiến ta khổ sở bằng trò vặt vãnh rõ như ban ngày đó à? Ờ phải, ta không nghi ngờ lời nói của nhóc có thể làm tổn thương mình, nhưng chỉ khi ta nghe chúng thôi.” Vành môi nhợt nhạt của lão cong lên thành nụ cười độc ác, vô cảm. “Điên rồ làm sao. Đây là toàn bộ kế hoạch của các người à? Con bé sẽ không thể nói trừ khi ta cho phép nó rời khỏi đây, một cây thương đáng treo lên tường hơn là mang ra chiến đấu, rồi một đám Eldunarí gần như lẩn thẩn với tuổi tác à? Chậc, chậc. Ta tưởng cô phải khá hơn chứ, Arya. Ông nữa, Glaedr, nhưng ta ngờ cảm xúc của ông đã che mờ trí nhớ từ khi ta cho Murtagh giết Oromis rồi thì phải.”
Glaedr giục Eragon, Saphira và Arya, Giết hắn. Con rồng cảm thấy cực kì bình tĩnh, nhưng trong sự trầm lặng lộ ra cơn giận áp đảo mọi cảm xúc khác.
Eragon liếc mắt với Arya và Saphira, rồi cả ba cùng tiến tới bệ đá, kể cả Glaedr, Umaroth và các Eldunarí cũng cố tấn công trí óc Gallbatorix.
Trước khi Eragon đi được vài bước, nhà vua đứng dậy khỏi chiếc ghế nhung, hô to một Từ. Từ đó vang dội trong trí óc Eragon, từng phần trong cơ thể nó vỗ nhẹ hưởng ứng, như thể nó là một nhạc cụ vừa được người nghệ sĩ gảy nốt. Cho dù có cố gắng thế nào, Eragon cũng không thể nhớ Từ đó được; nó tan ngay trong tâm trí Eragon, chỉ còn sót lại ý nghĩ về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nó.
Galbatorix thốt ra những từ khác sau đó, nhưng không có sức mạnh tương tự, còn Eragon thì mụ người đi không hiểu nổi ý nghĩa của chúng. Nhà vua vừa dứt lời, một lực lượng trói chặt Eragon, ép nó không đi nổi. Lực trói khiến nó kêu lên ngạc nhiên. Nó cố cử động, nhưng cơ thể như bị nhúng vào đá vậy. Tất cả những gì nó có thể làm là thở, nhìn, và nói.
Nó không hiểu nổi: lưới phòng vệ đáng ra phải bảo vệ nó khỏi phép thuật của nhà vua. Chúng đáng lẽ không để nó phải chới với trên bờ vực thẳm như thế này.
Cạnh nó, Saphira, Arya và Elva cũng có vẻ bất động y hệt.
Tức tối vì nhà vua bắt nó quá dễ dàng, Eragon kết nối tâm trí với các Eldunarí lúc này đang chống cự lại tâm thức của Galbatorix. Nó cảm thấy có một lượng lớn tâm trí khác chống lại họ - tất cả đều là rồng, đang than vãn, lảm nhảm, kêu thét điên dại những điệp khúc rời rạc chỉ chứa nỗi đau đỡn và u buồn, Eragon cố thoát ra tránh chúng kéo nó vào cơn điên loạn. Chúng cũng mạnh nữa, như thể ít ra cũng phải ngang Glaedr hoặc lớn hơn.
Lũ rồng cản trở khiến không thể nào trực tiếp tấn công tâm trí Galbatorix được. Cứ mỗi lần Eragon nghĩ nó cảm thấy chạm được vào tư tưởng nhà vua, một con rồng bị giam lại nhảy vào tâm trí nó, lắp bắp liên hồi – buộc nó phải rút lui. Chống cự lũ rồng thực khó, bởi suy nghĩ của chúng hoang dã và không liền mạch; khuất phục bất kì con rồng nào trong số chúng cũng hệt như dí đầu một con sói dại. Hơn nữa, số lượng của chúng quá lớn, hơn nhiều so với số các Kỵ Sỹ giấu ở Thung Lũng Linh Hồn.
Trước khi bên nào chiếm được lợi thế, Galbatorix nói, có vẻ hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi cuộc chiến vô hình, “Ra đây nào, các con yêu, ra gặp khách nào.”
Một bé trai và một bé gái nhô ra từ sau ngai vàng đứng bên tay phải nhà vua. Bé gái tầm sáu tuổi, trong khi bé trai có lẽ tám hay chín. Chúng trông rất giống nhau, Eragon đoán có lẽ là hai anh em. Cả hai đều mặc đồ ngủ. Bé gái cầm tay bé trai núp sau lưng anh, trong khi bé trai có vẻ sợ hãi nhưng cũng quyết tâm. Kể cả khi đang chống lại các Eldunarí của Galbatorix, Eragon cũng cảm nhận được tâm trí của lũ trẻ - cảm thấy nỗi sợ và bối rối của chúng – nó biết chúng có thật.
“Con bé đáng yêu không nào?” Galbatorix nhấc cằm bé gái vuốt nhẹ bằng ngón tay dài. “Đôi mắt to và mái tóc đẹp dường này. Và thằng bé cũng đẹp trai quá chứ?” Lão đặt tay lên vai bé trai. “Con cái, ai đó nói rằng là lời cầu chúc cho tất cả chúng ta. Ta thì không chia sẻ niềm tin đó đâu. Từ kinh nghiệm của ta, mỗi đứa trẻ đều tàn nhẫn và thù hận chẳng kém người lớn. Chúng chỉ thiếu sức mạnh để khuất phục kẻ khác mà thôi.
“Có lẽ các người sẽ đồng ý với ta, có khi không. Dù sao, ta biết mỗi kẻ Varden các người tự hào về đức hạnh của mình lắm. Các người nghĩ mình là kẻ thực thi công lý, kẻ bảo vệ những người vô tội – như thể có ai đó thực sự vô tội. Được thôi; cho ta thấy lòng tin của các người, xem các người có đúng như những gì tuyên bố không nào. Trừ khi các người ngừng tấn công, nếu không ta sẽ giết cả hai” – lão lắc lắc vai bé trai – “và ta sẽ giết chúng nếu các người dám tấn công lần nữa … Thực ra thì nếu các người làm ta bất mãn quá, thì ta cũng cứ giết chúng thôi, nên ta khuyên các người hãy nhã nhặn một chút.” Cả hai đứa bé có vẻ phát bệnh bởi lời lão, nhưng chúng không cố bỏ chạy.
Eragon nhìn Arya, nó cũng thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt cô.
Umaroth! Họ thét lên.
Không, con rồng trắng gầm lên, kể cả khi nó đang vật lộn với tâm trí một Eldunarí khác.
Người phải ngừng lại, Arya cầu khẩn.
Không!
Lão sẽ giết chúng mất, Eragon van.
Không, chúng ta sẽ không từ bỏ. Không phải lúc này!
Đủ rồi đấy! Glaedr gầm lên. Những con chim non đang gặp nguy hiểm!
Và sẽ thêm những con chim non sẽ hiểm nguy nếu chúng ta không giết Kẻ-Phá-Trứng ngay.
Đúng, nhưng bây giờ thì không phải là lúc. Arya nói. Cứ chờ thêm một lúc nữa, có lẽ chúng ta sẽ tìm ra cách tấn công lão mà không phải mạo hiểm tính mạng của bọn trẻ.
Nếu không thì sao? Umaroth hỏi.
Cả Eragon và Arya đều không trả lời nổi.
Thì chúng ta sẽ làm điều cần thiết, Saphira lặng lẽ. Eragon ghét chuyện này, nhưng nó biết cô nàng nói phải. Họ không để đặt tính mạng của hai đứa trẻ lên trước toàn bộ Alagaësia được. Nếu có thể, họ sẽ cố cứu hai đứa bé, nhưng nếu không, họ sẽ cứ tấn công. Không còn lựa chọn nào khác.
Khi Umaroth và các Eldunarí khác miễn cưỡng rút lui, Galbatorix mỉm cười. “Thế, tốt hơn rồi. Giờ hãy nói chuyện như những người văn minh nào, mà không phải lo ai sẽ giết ai nhé.” Lão vỗ nhẹ đầu bé trai rồi chỉ vào bậc thềm của bệ đá. “Ngồi”. Không cự nự gì hết, hai đứa trẻ ngồi ngay xuống bậc thấp nhất, cách xa nhà vua nhất có thể. Rồi Galbatorix tiến lại nói, “Kausta,” Eragon trượt dần về phía bệ đá, cùng với Arya, Elva và Saphira.
Eragon vẫn hoang mang không hiểu tại sao lưới phòng hộ của họ lại không có tác dụng. Nó nghĩ về Từ đó- dù nó là gì – nỗi nghi ngờ khủng khiếp nảy lên trong ý nghĩ nó. Rồi đến tuyệt vọng. Nào là kế hoạch, bàn bạc, lo lắng, đau khổ, bao nhiêu hy sinh, Galbatorix vẫn bắt họ dễ như tóm một ổ mèo con sơ sinh. Nếu nghi ngờ của Eragon chính xác, nhà vua còn ghê gớm hơn cả họ có thể tưởng tượng.
Tuy nhiên họ không mất sạch hy vọng. Tâm trí, đến bây giờ, vẫn là của họ. Nó biết họ có thể dùng pháp thuật … cách này hay cách khác.
Galbatorix nhìn chăm chú Eragon. “Vậy cậu là kẻ gây cho ta bao nhiêu phiền phức đấy à, Eragon, con trai Morzan… Chúng ta đáng lẽ phải gặp nhau lâu rồi. Mẹ câu thật ngốc đã giấu cậu ở Carvahall, cậu lẽ ra phải lớn lên ở Urû’baen này, trong sự vinh quang, giàu có và trách nhiệm kèm theo, hơn là ngày ngày đào bới đất cát.
“Nhưng muộn còn hơn không, giờ cậu đã ở đây, những thứ đó sẽ thuộc về cậu. Chúng là tài sản của cậu, tài sản thừa kế, và ta sẽ giao nó cho cậu.” Lão có vẻ đang xem xét Eragon kĩ lưỡng hơn hết, rồi nói, “Cậu giống mẹ hơn giống cha đấy. Murtagh thì ngược lại. Không thành vấn đề cho lắm. Cậu giống ai cũng được, cậu và anh trai đều phục vụ ta là phải thôi, kể cả cha mẹ cậu nữa.”
“Không bao giờ,” Eragon nghiến răng.
Gương mặt nhà vua lóe lên nụ cười nhạt. “Không bao giờ à? Ta sẽ thấy ngay thôi.” Ánh mắt lão chuyển hướng. “Và người, Saphira. Trong các vị khách hôm nay, ta vui mừng gặp người nhất đấy. Ngươi đã trưởng thành thật tốt nhỉ. Ngươi có nhớ nơi này không? Có nhớ thanh âm của ta hay không? Ta dành nhiều đêm nói chuyện với ngươi và những quả trứng khác trên cương vị của mình, trong bao năm ta củng cố vương quyền trên lãnh thổ Đế chế.”
Tôi… tôi nhớ một chút, Saphira nói, Eragon lặp lại với nhà vua. Cô nàng không muốn tiếp xúc trực tiếp với lão, mà lão cũng không cho phép điều đó. Cách biệt tâm thức là cách tốt nhất đảm bảo tránh được xung đột công khai.
Galbatorix gật gù. “Ta chắc ngươi sẽ nhớ rõ hơn khi ở lại nơi này. Người có thể không hiểu rõ ngay, nhưng hầu hết cuộc đời ngươi đã sống ở một căn phòng gần đây thôi. Đó là nơi ngươi thuộc về. Đó là nơi ngươi sẽ xây tổ và đẻ trứng.”
Đôi mắt Saphira co lại, Eragon nhận thấy khao khát kì lạ dâng lên trong cô nàng, lẫn lộn với lòng căm thù hừng hực.
Nhà vua nhìn tiếp. “Arya Dröttningu. Số phận có vẻ hơi hài hước thì phải, đã ở đây, thậm chí ta đã ra lệnh cô được mang tới rất lâu rồi. Con đường của cô có vẻ quanh co hả, nhưng dù sao cô vẫn tới, mà còn tự giác nữa chứ. Ta thấy hơi buồn cười đấy. Cô có thấy thế không?”
Arya mím môi không trả lời.
Galbatorix cười khúc khích. “Ta thừa nhận cô là cái gai trong mắt cũng lâu rồi đấy. Cô không gây nhiều phiền phức như gã lăng xăng vụng về Brom, nhưng cô chẳng ngồi yên tí nào. Ai đó có thể nói toàn bộ vụ này là lỗi của cô, bởi cô đã mang trứng Saphira đến cho Eragon. Tuy nhiên, ta chẳng thù địch gì với cô hết. Nếu không có cô, Saphira sẽ không nở, mà ta cũng không bao giờ lôi được kẻ thủ ra khỏi hang ổ. Vì thế, ta cảm tạ cô.
“Và đây nhóc Elva. Đứa bé mang dấu hiệu Kỵ Sỹ trên trên lông mày. Được rồng in dấu và lời cầu phúc vừa đủ để tiếp nhận mọi nỗi đau và những gì sẽ tổn thương họ. Những đau khổ gì nhóc phải chịu đựng qua bao tháng ngày. Nhóc còn phải chán ghét những kẻ xung quanh bởi sự yếu đuối của chúng, kể cả khi nhóc buộc phải chia sẻ nỗi đau của chúng. Lũ Varden đối xử với nhóc tệ hại thật. Hôm nay ta sẽ kết thục những cuộc chiến đã tra tấn nhóc quá nhiều, nhóc sẽ không bao giờ phải chịu đựng sai lầm và bất hạnh của kẻ khác nữa. Ta hứa đấy. Thi thoảng, ta có lẽ sẽ cần tới năng lực của nhóc, nhưng hầu như nhóc sẽ được sống thoải mái, yên bình.”
Elva cau mày, nhưng hiển nhiên lời đề nghị của nhà vua lôi cuốn cô bé. Eragon nhận ra lắng nghe Galbatorix cũng nguy hiểm không kém lắng nghe Elva vậy.
Galbatorix dừng lại, xoa nhẹ chuôi kiếm bọc dây khi lão chăm chú nhìn họ với anh mắt tăm tối. Rồi lão nhìn thẳng vào khoảng không nơi các Eldunarí đang trôi nổi, và tâm trạng lão có vẻ u ám đi. “Chuyển lời ta đế Umaroth khi ta nói với họ,” lão nói. “Umaroth! Chúng ta lại gặp mặt hơi tệ lần nữa. Ta nghĩ ta đã giết ông ở Vroengard.”
Umaroth đáp lại, Eragon chuyển lời: “Ông ấy nói …”
“… rằng ngươi chỉ giết được thân thể của ông thôi,” Arya tiếp lời.
“Cái đó thì hiển hiên,” Galbatorix cười nhẹ. “Các Kỵ Sỹ đã giấu ông và những người khác ở đâu nhỉ? Vroengard à? Hay nơi nào khác? Ta và các thuộc hạ đã lục soát tàn tích ở Doru Araeba kĩ lắm rồi.”
Eragon chần chừ chuyển câu trả lời của con rồng, rõ là nó sẽ làm nhà vui không vui, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Ông ấy nói … rằng ông sẽ không bao giờ cho người biết khi vẫn còn tỉnh táo.”
Galbatorix nhíu mày. “Giờ thì thế chắc? Tốt, ông ta sẽ nói cho ta hay sớm thôi, dù muốn hay không.” Nhà vua vỗ nhè nhẹ chuôi kiếm trắng chói lọi. “Ta đã lấy thanh gươm từ tay Kỵ Sỹ của ông ta, cậu biết đấy, khi ta giết hắn – khi ta giết Vrael – trên tháp canh ở Thung Lũng Palancar. Vrael thậm chí còn đặt cả tên cho thanh gươm nữa cơ đấy. Hắn gọi nó là Islingr, ‘Light-bringer. Ta nghĩ Vrangr thì có vẻ … hợp lý hơn.
Vrangr có nghĩa “xiên xẹo”, Eragon đồng ý cái tên ấy hợp với thanh gươm hơn nhiều.
Một tiếng ầm trầm đục vang vọng phía sau, Galbatorix mỉm cười. “A, hay lắm. Murtagh và Thorn sẽ nhập bọn ngay thôi, rồi chúng ta có thể bắt đầu tử tế.” Một tiếng động khác vang lên trong căn phòng, khi tiếng ồn rào rạo phát ra từ nhiều phía một lúc. Lão liếc qua vai nói, “Các người hơi bất cẩn tấn công quá sớm lúc bình minh. Ta đã dậy từ trước rồi – ta dậy sớm hơn bình minh nhiều – nhưng các người đánh thức Shruikan. Nó hay phát cáu khi mệt mỏi, mà khi nó phát cáu thì nó khoái ăn con người lắm. Lũ lính gác của ta học từ lâu không dám làm phiền khi nó nghỉ ngơi rồi. Các người đáng ra phải noi gương chúng chứ.”
Khi Galbatorix đang nói, tấm màn phía sau ngai vàng di chuyển, nhấc lên sàn nhà.
Eragon bị sốc, nhận ra đó thực ra là cánh của Shruikan.
Con hắc long nằm cuộn trên nền nhà, đầu ở gần ngai vàng, cơ thể khổng lồ của nó tạo thành một bức tường quá dốc và quá cao để có thể trèo lên mà không dùng phép thuật. Vảy của nó không rạng ngời như Saphira hay Thorn mà lấp lánh mờ ảo ánh đen. Màu như mực khiến chúng dường như mờ đục, cho chúng cái vẻ mạnh mẽ chắc chắn mà Eragon chưa từng thấy ở những cái vảy rồng trước đấy; như thể Shruikan dát đá hay kim loại chứ không phải ngọc.
Con rồng lớn khổng lồ. Đầu tiên Eragon còn không dám nghĩ một hình thù to cỡ đấy là một sinh vật sống. Nó thấy một phần cổ Shruikan buộc dây, và nghĩ nó đã thấy toàn bộ cơ thể của con rồng; nó thấy một mảng phía sau bàn chân Shruikan mà nó ngỡ đó là cẳng chân. Một khúc cánh mà nó tưởng như cả cái cánh. Chỉ khi nó ngước lên thấy những đốt nọn trên sống lưng con rồng, Eragon mới nhận rõ kích thước của Shruikan. Mỗi đốt nhọn rộng như tán cây sồi cổ thụ, hàng vảy bao quanh chúng phải dày cả tấc, nếu không hơn.
Rồi Shruikan mở mắt nhìn xuống họ. Tròng mắt nó có mày trắng lam nhợt nhạt như màu của tảng băng trên núi cao, sáng lấp lánh trên nền vảy đen.
Con mắt khổng lồ lượn qua lại xem xét mặt của họ. Ánh mắt nó có vẻ không chưa gì khác ngoài thịnh nộ và điên dại, Eragon chắc mẩm Shruikan sẽ giết chúng ngay khi Galbatorix cho phép.
Cái nhìn chằm chằm của con mắt vĩ đại – đặc biệt khi nó có vẻ ác ý dường ấy – khiên Eragon muốn chạy trốn biệt vào trong một hang sâu mãi trong lòng đất. Nó tưởng tượng cảm giác của thỏ khi đối mặt với sinh vật to lớn đầy răng.
Bên cạnh nó, Saphira gầm gừ, những cái vảy lượn sóng, dựng đứng như lông cổ.
Đáp lại, một luồn lửa uể oải phụt ra từ lỗ mũi Shruikan, rồi nó cũng gầm gừ át tiếng Saphira, khiến căn phòng vang dội tiếng ầm ầm như núi lở.
Trên bệ đá, hai đứa trẻ kêu the thé, cố gắng cuộn mình lại, rúc vào hai đầu gối.
“Yên nào, Shruikan,” Galbatorix nói, con hắc long nín ngay. Mí mắt nó sụp xuống, nhưng không khép hẳn; con rồng tiếp tục quan sát chúng qua khoảng vài tấc hé mắt, như thể chờ cơ hội vồ lấy.
“Nó không thích các người lắm,” Galbatorix nói. “Nhưng dù sao, nó cũng chẳng thích ai cả… phải không nhỉ, Shruikan?” Con rồng khụt khịt, không khí phang phảng mùi khói.
Nỗi tuyệt vọng lại tràn ngập Eragon. Shruikan có thể giết Saphira với chỉ một cú bạt vuốt. Dù căn phòng có lớn thế này, nó cũng quá nhỏ để Saphira có thể tránh thường con rồng khổng lồ đủ lâu.
Nỗi tuyệt vọng trong nó chuyển dần thành cơn giận chán nản, nó vặn mạnh sợi dây trói vô hình. “Làm sao ngươi có thể làm vậy?” nó thét, cố tận dụng hết từng sợi cơ trong người.
“Tôi cũng muốn biết nữa,” Arya nói.
Đôi mắt Galbatorix dường như lấp lánh dưới hàng lông mày rậm. “Cô không thể đoán sao, tiên nhân?”
“Tôi muốn biết câu trả lời hơn là đoán mò,” cô đáp.
“Tốt thôi. Nhưng trước tiên các người phải làm một chuyện, để biết ta đang nói sự thật. Các người phải thử phóng một bùa chú, cả hai, rồi ta sẽ nói cho.” Khi thấy cả Eragon và Arya đều không mở miệng, nhà vua ra hiệu. “Cứ làm đi, ta hứa sẽ không trừng phát các người đâu. Thử đi nào … ta nài đấy.|
Arya thử trước. “Thrautha,” giọng cô trầm chắc. Eragon đoán cô muốn phóng thanh Dauthdaert vào Galbatorix. Tuy nhiên thanh vũ khí vẫn nằm yên vị trong tay cô.
Rồi Eragon nói: “Brisingr!” Nó nghĩ liên kết với thanh gươm sẽ cho phép nó dùng được phép thuật khi Arya không thể, nhưng nó thất vọng khi thanh gươm vẫn phát sáng nhàn nhạt trong ánh đèn lồng mờ ảo.”
Ánh mắt Galbatorix trở nên sắc lẻm. “Câu trả lời hiển nhiên rồi chứ, tiên nhân. Ta đã mất cả thế kỉ, nhưng rồi cuối cùng ta đã có thứ mình mãi tìm kiếm: phương tiện điều khiển tất cả các pháp sư ở Alagaësia này. Cuộc tìm kiếm không đơn giản đâu, tất cả những người khác đã chán nản, hoặc nếu đủ kiên nhẫn, sợ hãi. Không phải ta. Ta đã tiếp tục. Qua nghiên cứu, ta tìm ra thứ mình đã khao khát từ rất lâu: một bảng đá viết tay ở vùng đất khác, thời đại khác, không phải do tiên nhân, người lùn, con người hay Urgal viết nên. Trên tấm bảng, khắc lên đó một Từ - cái tên các pháp sư mọi thời đại săn lùng nhưng không đạt được gì ngoài thất vọng não nề.” Galbatorix giơ ngón tay. “Tên của các tên. Tên của cổ ngữ.”
Eragon thầm rủa. Nó đã nghĩ đúng. Đó là những gì lũ Ra’zac đã cố nói với mình, nó nhớ lại khi con quái vật hình thù con trùng nói với nó ở Helgrind: “Ông ta đã gầnnnnn tìm ra cái tên… Cái tên đích thực!”
Tuy chán nản về sự bật mí của Galbatorix, Eragon vẫn bám vào ý nghĩ cái tên đó không thể cản nó hay Arya – thậm chí là Arya – sử dụng phép thuật không dùng cổ ngữ. Vòng phòng ngự của nhà vua chắc chắn bảo vệ lão và Shruikan khỏi bất kì bùa chú nào họ phóng. Tuy nhiên, nếu nhà vua không biết rằng có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ, hoặc thậm chí nếu lão biết nhưng cho rằng họ không biết, thì họ có thể gây bất ngờ và đánh lạc hướng lão trong khoảnh khắc, dù Eragon không chắc thế có thể giúp gì.
Galbatorix tiếp tục: “Với Từ đó, ta có thể thay đổi thần chú dễ như một pháp sư điều khiển nguyên tố. Tất cả các thần chú sẽ tùy thuộc vào ta, nhưng ta sẽ không cho phép ai hết, trừ những người ta chọn mà thôi.”
Có lẽ lão không biết, Eragon nghĩ, tia sáng quyết tâm lóe lên trong tim nó.
“Ta sẽ sử dụng tên của các tên để cai trị tất cả các phù thủy trên đất Alagaësia, sẽ không ai có thể phù phép nếu ta không cho phép, kể cả tiên nhân. Lúc này pháp sư trong quân các người chắc đã phát hiện ra sự thật rồi. Một khi chúng tiến đủ sâu vào Urû’baen, qua cổng chính, bùa phép của chúng sẽ mất hiệu quả. Vài phép thuật mất linh hoàn toàn, một sẽ trở quẻ và tác động vào quân Varden thay vì của ta.” Galbatorix nghiêng đầu nhìn chằm chằm ra phía xa, như thể đang nghe ai đó thì thầm bên tai. “Nó đã làm hàng ngũ của chúng rối loạn lắm rồi.”
Eragon cố nén nhổ vào nhà vua. “Không quan trọng,” nó gầm lên. “Bọn ta vẫn sẽ tìm ra cách chặn ngươi lại.”
Galbatorix tỏ vẻ thích thú không kềm được. “Thế hả? Như thế nào? Và vì sao? Nghĩ xem cậu đang nói gì. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội đầu tiên Alagaësia có một hòa bình thực sự chỉ để thỏa mãn cảm giác trả thù thôi hả? Cậu sẽ để các pháp sư khắp nơi tiếp tục làm gì họ muốn, dù có hại tới người khác thế nào ư? Có vẻ điều đó còn tệ hơn bất cứ những gì ta đã làm. Nhưng đây là một cú đầu cơ rỗng túi đấy. Chiến binh mạnh mẽ nhất trong các Kỵ Sỹ cũng không thể đánh bại ta, mà cậu thì còn xa mới tới được đó lắm. Không ai trong các người cả.”
“Tôi đã giết Durza, và tôi đã giết Ra’zac” Eragon đáp. “Sao không phải ông?”
“Vì ta không yếu như những kẻ tôi tớ ấy. Cậu không thể đánh bại Murtagh, mà nó thì chỉ là cái bóng của những cái bóng. Cha Morzan của cậu hùng mạnh hơn cả hai đứa rất nhiều, kể cả hắn cũng không thể chống được ta. Ngoài ra,” Galbatorix gằn giọng, mặt nhốm vẻ tàn nhẫn, “cậu hơi bị nhầm nếu nghĩ cậu đã diệt được loài Ra’zac. Mấy quả trứng ở Dras-Leona không phải là những quả duy nhất ta lấy từ Lthrblaka đâu. Ta vẫn còn nữa, giấu ở những nơi khác. Chúng sẽ nở sớm thôi, rồi ta sẽ lại có Ra’zac dưới tay để sai bảo. Durza hả, lũ Tà thần cũng dễ tạo ra thôi, và chúng thì hay gây phiền toái nhiều hơn ích lợi. Thế nên, cậu chẳng thắng được cái gì hết, nhóc con – chỉ một vài chiến thắng giả dối.”
Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự tự mãn của Galbatorix lẫn sự vượt trội tuyệt đối của lão. Nó muốn phát khùng với nhà vua, nguyền rủa lão với mọi lời thề nó biết, nhưng vì sự an toàn của lũ trẻ, nó cố kìm miệng lại.
Em có ý tưởng gì không? Nó hỏi Saphira, Arya và Glaedr.
Không, Saphira nói. Những người khác im lặng.
Umaroth?
Chỉ có tấn công khi vẫn có thể thôi.
Một phút im lặng trôi qua. Galbatorix tựa lên khuỷu tay, chống cằm tiếp tục quan sát họ. Dưới chân lão, hai đứa trẻ khóc rấm rức. Phía trên, mắt Shruikan vẫn nhắm vào Eragon, trông như ngọn đèn lồng màu lục khổng lồ.
Rồi họ nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng mở ra rồi đóng lại, tiếng bước chân lại gần – của cả người và rồng.
Murtagh và Thorn xuất hiện trong tầm mắt. Chúng dừng lại bên cạnh Saphira, Murtagh cúi mình. “Thưa Ngài.”
Nhà vua ra hiệu, Murtagh và Thorn bước sang bên phải ngai vàng.
Khi Murtagh nhìn vào nó, Eragon cảm thấy hắn nhìn nó kinh tởm; rồi hắn chắp tay ra sau nhìn chăm chăm về phía xa căn phòng, bàng quan nó.
“Cậu mất nhiều thời gian hơn ta tưởng đấy,” giọng nói nhẹ nhàng dối trá của Galbatorix vang lên.
Không nhìn sang, Murtagh đáp, “Cánh cổng bị hư hại hơn tôi nghĩ, thưa ngài, bùa chú ngài ếm lên khiến sửa chúng khó hơn.”
“Ý của cậu là bởi lỗi của ta mà cậu lề mề à?
Murtagh nghiến răng. “Không thưa ngài. Tôi chỉ muốn giải thích. Hơn nữa, một phần tiền sảnh khá … lộn xộn, khiến chúng tôi chậm lại.”
“Ta hiểu. Chúng ta sẽ nói về nó sau, bây giờ có việc khác cần kíp hơn. Giờ đây các vị khách đã gặp thành viên cuối cùng của bữa tiệc. Hơn nữa, tốt hơn chúng ta nên được chiếu sáng tử tế một chút.”
Galbatorix đập nhẹ thanh gươm lên tay ngai vàng, trầm giọng hô, “Naina!”
Theo lệnh lão, hàng trăm chiếc đèn được thắp sáng khắp các bức tường quanh phòng, tỏa ánh sáng chan hòa như nến. Những góc phòng vẫn hơi tối, nhưng lần đầu tiên Eragon có thể nhìn rõ chi tiết xunh quanh. Hàng trăm cây cột và ô cửa dọc bức tường, những bức tượng, tranh vẽ và lớp hoa văn mạ vàng. Vàng bạc được dùng thừa thãi, Eragon lướt qua thấy tia lấp lánh của đá quý. Một cảnh tượng giàu sang đáng kinh ngạc, kể cả so với sự giàu có của Tronjheim hay Ellesméra.
Sau khoảnh khắc, nó chú ý tới thứ khác: một đống đá xám – có lẽ là granite – cao tám thước, ngay phía bên phải họ, nơi ánh đèn lúc trước không chiếu tới. Bị xích đứng vào đống đá là Nasuada, mặc một chiếc áo khoác trắng. Cô đang mở to mắt quan sát họ, dù không thể nói gì, vì mảnh vài quấn ngang miệng. Trông cô mòn mỏi kiệt sức, nhưng dù sao vẫn khỏe.
Một tia an ủi dâng trong lòng Eragon. Nó không dám nghĩ có thấy tìm được cô vẫn còn sống. “Nasuada!” nó thét. “Cô có ổn không?”
Cô gật đầu.
“Lão có ép cô thề trung thành với lão không?”
Cô lắc đầu.
“Cậu nghĩ ta sẽ để cô ta nói cho cậu biết nếu ta thực sự làm thế sao?” Galbatorix hỏi. Khi Eragon nhìn lại nhà vua, nó thấy Murtagh liếc nhìn nhanh tỏ vẻ quan tâm về phía Nasuada, và nó băn khoăn ý nghĩa của chuyện đó.
“Tốt, thế ông có làm vậy không?” Eragon hỏi thách thức.
“Như chuyện phải thế thôi, không. Ta quyết định nên chờ đến khi tập trung tất cả mọi người ở đây. Giờ thì tốt rồi, các người s
Bình luận truyện