Eragon 4 (Inheritance) - Di Sản Thừa Kế

Chương 59: Nơi đây yên nghỉ brom



Người từng là Kỵ Sỹ Rồng

Và như một người cha

Của tôi.

Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.

Nó mỉm cười đau đớn rằng nó đã nói gần đúng sự thật biết bao. Rồi nó khẽ nói bằng cổ ngữ, quan sát bề mặt kim cương sáng lên, uốn lượn thành một hàng kí tự mới. Khi nó hoàn thiện, hàng chữ đã trở thành:

NƠI ĐÂY YÊN NGHỈ BROM

Người từng là

Kị sĩ của rồng Saphira

Con trai Holcomb và Nelda

Người dấu yêu của Selena

Cha Eragon Khắc tinh của Tà thần

Người sáng lập nên Varden

Và Tai ương của Kẻ Phản Nghịch

Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.

Stydja unin mor’ranr.

Đó là lời tựa ít cá nhân hơn, nhưng Eragon thấy vẫn thích hợp hơn. Rồi nó ếm bùa lên để bảo vệ lớp kim cương khỏi lũ trộm và những kẻ phá hoại.

Nó đứng trước ngôi mộ hồi lâu, lưỡng lự chưa quay đi, cảm thấy như thể nên có gì đó nữa – chuyện gì đó, hoặc cảm xúc hoặc nhận thức nào đó khiến nó có thể dễ dàng từ biệt cha nó và rời đi.

Cuối cùng nó đặt tay lên lớp kim cương mát rượi, ước rằng có thể xuyên qua chạm vào Brom lần cuối. Rồi nó nói, “Cảm ơn vì tất cả những gì cha đã dạy con.”

Saphira khịt mũi, cúi đầu chạm mõm vào ngôi mộ.

Rồi Eragon quay đi, cảm thấy dứt khoát, nó chầm chậm leo lên mình Saphira.

Nó vẫn thấy buồn rười rượi khi Saphira cất cánh bay theo hướng Đông Bắc về Urû’baen. Khi hình bóng ngọn đồi sa thạch mờ dần dưới đường chân trời, nó thở ra một hơi dài ngước nhìn bầu trời xanh thẳm.

Nụ cười hé ra trên gương mặt nó.

Có gì mà buồn cười vậy anh? Saphira nghoe nguẩy đuôi.

Miệng em đang to ra đấy.

Cô nàng rõ là vui sướng. Rồi cô nàng khịt mũi, Em biết nó sẽ như thế mà? Sao lại không chứ? Tuy nhiên, nó cảm thấy bên sườn cô nàng rung lên dưới gót chân khi cô rồng ngâm nga vui sướng, nó vỗ nhẹ rồi áp ngực xuống cổ cô nàng, cảm nhận luồng ấm áp truyền qua nó.

Những công việc không tên (Pieces on the Board)

Trở lại Urû’baen cùng Saphira, Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada đã phục hồi cái tên Ilirea, như cách tôn trọng lịch sử và di sản nó mang lại.

Đồng thời nó thấy buồn khi biết Arya đã rời đến Ellesméra cùng Däthedr và rát nhiều tiên nhân khác, mang theo quả trứng rồi màu lục tìm thấy trong tòa thành.

Nasuada chuyển cho nó một bức thư cô viết. Trong đó Arya giải thích cô cần hộ thống thi hài mẹ mình về Du Weldenvarden để chôn cất đàng hoàng. Còn về quả trứng rồng cô viết:

… và bởi Saphira đã chọn cậu, một con người, làm Kỵ Sỹ của nó, sẽ hợp lý nếu một tiên nhân trở thành Kỵ Sỹ tiếp theo, nếu con rồng trong quả trứng đồng ý. Tôi ước điều đó có thể thành hiện thực ngay. Nó đã ở quá lâu trong vỏ rồi. Bởi còn rất nhiều trứng ở nơi khác – tôi không tiện nói tên –hy vọng cậu sẽ không tin rằng tôi đã quá táo bạo hoặc có thành kiến tốt cho giống loài của mình. Tôi đã hỏi ý các Eldunarí chuyện này, họ đồng ý với quyết định của tôi.

Dù sao, khi cả Galbatorix và thân mẫu đã trở thành hư vô, tôi không còn muốn làm đại sứ ở Varden nữa. Thay vào đó, tôi sẽ quay lại nhiệm vụ mang quả trứng rồng khắp vùng đất này như với quả trứng của Saphira. Dĩ nhiên, giữa giống loài chúng ta vẫn cần một đại sứ. Vì vậy, Däthedr và tôi đã cử ra một tiên nhân trẻ thay thế tên Vanir, người cậu đã gặp khi còn ở Ellesméra. Cậu ta cũng bày tỏ niềm ham muốn được học hỏi thêm về giống loài cậu, tôi thấy đó là một lý do tốt để giữ vị trí ấy – ít nhất cho đến khi cậu ta tỏ ra không có năng lực.

Bức thư còn thêm một vài dòng, nhưng Arya không ngụ ý khi nào, hoặc có khi nào, cô sẽ trở lại miền Tây Alagaësia. Eragon mừng cô đã nghĩ đến nó, nhưng nó ước cô có thể chờ họ trở lại rồi mới rời đi. Giờ đây không có cô, nó cảm thấy vô cùng hụt hẫng, dù có dành nhiều thời gian với Roran và Katrina hay Nasuada, cảm giác trống rỗng quặn thắt trong người nó vẫn không lui. Cùng với cảm giác ngày qua ngày, nó thấy mình như bị tách rời ra. Cứ như nó đang quan sát bản thân từ bên ngoài vậy. Nó hiểu nguồn cơn cảm giác ấy, nhưng nó không biết cách nào chữa trị hơn chờ đợi.

Trong một chuyến đi gần đây, nó nhận ra rằng – bằng quyền năng với cổ ngữ có được từ tên của các tên – nó có thể xóa bỏ hẳn tàn dư lời chúc phúc, mà hóa ra lại là lời nguyền rủa của mình. Thế là nó tới chỗ cô bé, lúc này đang sống trong tòa nhà lớn của Nasuada, nói suy nghĩ của nó và hỏi ý kiến cô bé.

Cô bé không mừng rỡ như nó tưởng, mà ngồi nhìn trân trối lên sàn, khuôn mặt nhợt nhạt nhăn lại. Cô bé cứ ngồi như vậy im lặng cả tiếng – còn nó ngồi một bên chờ đợi không phàn nàn gì hết.

Rồi cô bé nhìn nó nói, “Không. Tôi có thể nói mình rất … vui mừng khi anh đã hỏi, nhưng khả năng này đối với tôi rất có ý nghĩa, và tôi không thể từ bỏ nó. Nếu không thể cảm nhận nỗi đau của người khác, tôi sẽ chỉ là một con bé ngốc nghếch lạc loài, chẳng có ích gì ngoài việc thỏa mãn nỗi tò mò hèn kém của những người cho phép tôi ở bên, của những người khoan dung tôi. Với nó, tôi vẫn là kẻ lạc loài, nhưng tôi cũng có ích nữa, và tôi có sức mạnh khiếc kẻ khác sợ và nắm được số phận chính mình, thứ rất nhiều nữ giới không hề có.” Cô bé chỉ lên căn phòng lộng lẫy xunh quanh. “Ở đây tôi sống rất thoải mái – tôi được sống bình yên – và vẫn làm được gì đó tốt đẹp bằng cách giúp đỡ Nasuada. Nếu anh lấy đi khả năng ấy thì tôi còn lại cái gì? Tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ là thứ gì? Xóa bỏ bùa chú ấy không phải chuyện tốt đẹp đâu Eragon. Không, tôi sẽ vẫn giữ nguyên, chịu đựng thử thách từ món quà bằng ý chí tự do của mình. Nhưng tôi cảm tạ anh.”

Hai ngày sau khi nó và Saphira hạ cánh xuống Ilirea, Nasuada điều họ ra ngoài, tới Gil’ead rồi Ceunon – hai thành phố các tiên nhân chiếm được – rồi Eragon có thể dùng tên của các tên xóa sạch bùa chú của Galbatorix.

Cả hai đều thấy không vui khi quay lại Gil’ead. Nó gợi họ nhớ lại nơi Urgal đã bắt Eragon theo lệnh Durza lẫn cái chết của Oromis.

Eragon và Saphira nghỉ tại Ceunon thêm ba ngày. Nơi đây không giống bất kì thành phố nào họ từng thấy. Những tòa nhà phần lớp bằng gỗ, mái cao vút, và ở những tòa nhà lớn còn có nhiều lớp. Đỉnh mái thường trang trí bởi hình chạm đầu rầu, còn cửa khắc hoặc vẽ lên những hình cầu kì xoắn lại.

Lúc rời đi, Saphira có ý muốn đổi đường. Cô nàng không phải cố thuyết phục Eragon, nó vui vẻ đồng ý khi cô nàng giải thích chuyến đi sẽ không mất nhiều thời gian.

Từ Ceunon, Saphira bay về phía Tây, qua vịnh Fundor: một mảng nước rộng bao la viền cát trắng. Những chiếc lưng xám hay đen của cá biển thường nhấp nhô trên mặt nước như những hòn đảo nhỏ bằng da. Rồi chúng phụt ra những cột nước từ cái lỗ trên lưng, đầu nhô cao lên không rồi hụp xuống lòng nước sâu thẳm lặng lẽ.

Vượt vịnh Fundor, họ bay qua những cơn gió lạnh dữ dội tới rặng Spine mà Eragon biết rõ tên từng ngọn núi, từ đó quay lại thung lũng Palancar lần đầu tiên từ khi rời đi đuổi theo lũ Ra’zac cùng Brom, chuyến đi tưởng như đã cách cả đời người.

Với Eragon. thung lũng dậy lên mùi như quê hương vậy, mùi hương của những cây thông, cây liễu hay cây bạch dương trong tuổi thơ nó, rồi vị đắng của không khí khi mùa đông sắp cận kề.

Họ đáp xuống bãi tro tàn khu làng Carvahall, rồi Eragon đi dọc theo những con đường mọc đầy cỏ dại.

Một đàn chó hoang phóng qua cây bạch dương gần đó. Chúng dừng lại khi thấy Saphira, gầm gừ, sủa ăng ẳng chạy trốn. Saphira cũng gầm lên xịt khói nhưng không đuổi theo chúng.

Một mẩu gỗ cháy nứt dưới chân Eragon khi nó bước trên đống tro tàn. Cảnh ngôi làng bị tàn phá khiến nó buồn lòng. Nhưng hầu hết những dân làng thoát được vẫn còn sống. Nếu trở lại, Eragon biết họ sẽ tái thiết Carvahall còn đẹp hơn xưa. Những ngôi nhà trong tuổi thơ nó đã không còn nữa. Dân làng vắng bóng càng khiến nó cảm thấy không còn thuộc về thung lũng Palancar, nhìn những khoảng trống vắng vẻ càng làm nó thấy có cảm giác sai trái, như thể nó đang trong một giấc mơ lộn xộn.

“Thế giới này chẳng có gì liền lạc cả,” nó lẩm bẩm.

Eragon dựng một đống lửa nhỏ cạnh nơi từng là quán rượu của Morn, nấu nồi thịt hầm lớn. Trong lúc nó ăn, Saphira lảng vảng xung quanh, khịt mũi khi thấy cái gì đó thú vị.

Ăn hết nồi thịt, nó mang nồi, bát và thìa ra dòng Anora rửa trong dòng nước băng giá. Ngồi xổm lên bờ sông đầy đá, nó nhìn chăm chăm lên đỉnh thung lũng: dòng thác Igualda trắng xóa, kéo dài lên nửa dặm trước khi biến mất trong những phiến đá trên đỉnh Narnmor. Ngắm nhìn đỉnh núi, nó hồi tưởng lại ngày mang trứng Saphira từ rặng Spine, không biết gì về những điều sẽ xảy ra giữa hai đứa, hay thậm chí sẽ có hai đứa.

“Đi nào,” nó đi tới bên cô nạng cạnh miệng giếng giữa thị ngôi làng.

Anh có muốn thăm lại nông trại không? cô nàng hỏi khi nó đang leo lên lưng.

Nó lắc đầu. “Không. Anh muốn nghĩ về nó như trước kia, không phải bây giờ.”

Cô nàng đồng ý. Tuy nhiên, cô nàng tay về phương nam theo hướng họ từng rời thung lũng Palancar. Trên đường, Eragon thấy rõ nơi từng là nhà nó, nhưng bởi quá xa và mây mù che phủ, nó vẫn có thể vờ như ngôi nhà và khu trại vẫn còn nguyên xi.

Tại rìa phía Nam thung lũng, Saphira lướt trên một luồng khí bốc lên từ đỉnh ngọn núi trơ trụi Utgard, nơi các Kỵ Sỹ từng dựng một tháp canh để trông chừng vị vua Palancar điên rồ. Cái tháp từng được biết đến như Edoc’sil, giờ mang tên Ristvak’baen hay “Cõi U buồn,” vì đó là nơi Galbatorix đã giết chết Vrael.

Cạnh đống đổ nát của tháp canh, Eragon, Saphira và các Eldunarí đi theo cùng tưởng niệm Vrael. Umaroth đặc biệt tỏ ra sầu não, nhưng ông nói, Cảm ơn Saphira, vì đã mang ta tới đây. Ta không bao giờ nghĩ có thể nhìn thấy nơi Kỵ Sỹ của mình ngã xuống.

Rồi Saphira sải cánh bay khỏi tháp canh, phi khỏi và cánh đồng đầy cỏ xa xa.

Nửa đường tới Ilirea, Nasuada liên lạc với họ qua một pháp sư Varden điều họ gia nhập một binh đoàn lớn đang hành quân từ thủ đô tới Teirm.

Eragon vui mừng biết Roran chỉ huy binh đoàn đó, trong hàng ngũ có Jeod và Baldor – cánh tay đã hồi phục hoàn toàn sau khi được các tiên nhân ghép lại – và vài dân làng khác.

Eragon ngạc nhiên khi người dân thành Teirm từ chối đầu hàng, kể cả sau khi nó giải phóng họ khỏi lời thề với Galbatorix, và dù hiển nhiên là với sự giúp đỡ của Saphria và Eragon, quân Varden có thể dễ dàng chiếm thành phố nếu muốn. Thay vào đó, thị trưởng thành Teirm, Lãnh chúa Risthart yêu cầu họ được trở thành một khu tự trị được tự do chọn lãnh chúa và luật pháp.

Sau vài ngày đàm phán, Nasuada chấp thuật điều kiện của ông, đổi lại Lãnh chúa Risthart thề trung thành với nữ hoàng là cô, và cũng như vua Orrin, chấp thuận tuân theo luật dành cho pháp sư.

Từ Teirm, Eragon và Saphira hộ tống các chiến binh về phương nam, qua bờ biển hẹp, cho tới khi đến thành phố Kuasta. Họ vây hãm thành phố, nhưng không như Term, thị trưởng Kuasta nhanh chóng đầu hàng và chấp thuận gia nhập vương quốc mới của Nasuada.

Eragon và Saphira một mình bay tới Narda ở miền Bắc, thu được lời hứa y hệt rồi trở lại Ilirea, rồi nghỉ lại vài tuần trong một căn nhà lớn gần nơi ở Nasuada.

Khi thời gian lại cho phép, nó và Saphira liền rời thành phố tới lâu đài nơi Blödhgarm và các pháp sư đang trông coi các Eldunarí thu được của Galbatorix. Eragon cùng Saphira giúp đỡ chữa lành tâm trí của lũ rồng. Họ cũng có tiến triển nhưng khá chậm chạp, có một vài Eldunarí phản ứng sớm hơn. Eragon lo lắng khá nhiều rồng đơn giản không hề để tâm đến cuộc sống nữa, hoặc đã lạc lối trong mê cung tâm trí quá lâu để có thể giao tiếp với chúng có ý nghĩa, thậm chí kể cả với những con rồng tiền bối như Valdr. Để ngăn cản hàng trăm con rồng áp đảo tâm trí những người đang giúp chúng, các tiên nhân giữ phần lớn Eldunarí nửa mê man, chỉ chọn ra một vài con rồng để giao tiếp cùng thời điểm.

Eragon cũng làm việc bên những pháp sư của Con Đường Lãng Du nhằm dọn dẹp kho báu trong tòa thành. Hầu hết công việc đổ lên đầu nó, bởi các pháp sư không đủ kinh nghiệm hay hiểu biết để xử lý những món đồ vật bị yểm bùa Galbatorix để lại. Nhưng Eragon không ngại lắm: nó vui vẻ khám phá những pháo đài hư hại, thám hiểm những bí mật ẩn giấu bên trong. Galbatorix đã thu giữ hàng đống báu vật trong suốt thế kỉ, vài thứ khá nguy hiểm, song tất cả đều rất thú vị. Eragon thấy thích thú nhất cái máy đo thiên thể, khi đặt mắt lên nó có thể thấy rõ những ngôi sao kể cả vào ban ngày.

Nó giữ bí mật về những món đồ nguy hiểm nhất cho mình, Saphira và Nasuada, ngăn ngừa rủi ro tin tức bị lan truyền.

Nasuada cũng sử dụng ngay vô số báu vật thu được trong tòa thành để cho các chiến binh cái ăn cái mặc, cũng như tái thiết phòng thủ của những thành phố họ chiếm được trong cuộc chiến tranh. Thêm nữa, cô ban tặng một món vàng tương đương năm chiếc mũ vàng cho mọi thần dân: tuy chỉ là một món nhỏ với các quý tộc nhưng thực sự vô giá với các nông dân nghèo. Eragon biết hành động ấy đã thu được sự ủng hộ và trung thành theo cách Galbatorix không bao giờ hiểu được.

Họ cũng thu được hàng trăm thanh gươm của các Kỵ Sỹ: các thanh gươm đủ màu sắc kiểu dáng, làm bởi con người lẫn tiên nhân. Đó thực sự là một khám phá ngoạn mục. Eragon và Saphira tự mình mang chúng tới lâu đài nơi đang giữ các Eldunarí, phòng một ngày chúng lại được các Kỵ Sỹ cần tới.

Eragon tự nhủ Rhunön sẽ rất mừng khi biết nhiều sản phẩm của bà vẫn còn tồn tại.

Và còn đó hàng ngàn cuộn giấy và sách vở Galbatorix đã thu thập, được các tiên nhân và Jeod sắp xếp lại, xếp riêng ra những thứ có chứa bí mật về các Kỵ Sỹ và thành quả nghiên cứu sâu về phép thuật.

Khi họ đang đang sắp xếp kho tàng kiến thức đồ sộ của Galbatorix, Eragon vẫn hy vọng tìm ra gợi ý về nơi nhà vua giấu những quả trứng Lethrblaka còn lại. Tuy nhiên, thứ duy nhất nhắc đến Lethrblaka hay Ra’zac là trong một thư tịch cổ của các tiên nhân và Kỵ Sỹ của thời đại trước, bàn luận về mối đe dọa của bóng tối và băn khoăn làm thế nào với kẻ địch không thể phát giác bằng bất kì loại pháp thuật nào.

Khi nó có thể nói chuyện thoải mái, Eragonthường xuyên bỏ ra hàng với Jeod, kể cho ông nghe những gì xảy ra với các Eldunarí và những quả trứng, kể cả quá trình tìm ra tên thật của mình ở Vroengard. Nó thấy rất thoải mái khi nói chuyện với Jeod, đặc biệt khi ông là một trong số ít người biết Brom đủ để gọi ông là bạn.

Eragon thấy rất thú vị theo cách trừu tượng khi quán sát vương quốc Nasuada được cai trị và tái thiết từ đống tro tàn của Đế chế. Cần nỗ lực khổng lồ để quản lý đất nước rộng lớn và đa dạng nhường ấy, và công việc dường như không bao giờ dứt: luôn có nhiều thứ hơn phải làm. Eragon biết nó sẽ ghét những đòi hỏi của vị trí này, nhưng Nasuada phải dựa vào chúng rất nhiều. Cô dường như không bao giờ xuống sức, cũng như biết cách giải quyết mọi vấn đề. Ngày ngày qua ngày khác, nó thấy tầm vóc của cô lớn dần với các sứ thần, quan chức, quý tộc và những thường dân mình cai quản. Cô có vẻ phù hợp hoàn toàn với vai trò mới, dù nó lo lắng vì không chắc cô có thực sự hạnh phúc không.

Nó quan sát cô phán xét các quý tộc đã tuân theo Galbatorix – dù tự nguyên hay không – hài lòng thấy sự công bằng và nhân từ của cô, cũng như những hình phạt nếu cần thiết. Hầu hết cô tước bỏ đất đai, danh hiệu hoặc một phần lớn tài sản bẩn thỉu của chúng, nhưng Eragon mừng vì cô không hành quyết ai hết.

Nó đứng bên cạnh khi cô ban cho Nar Garzhvog một dải đất lớn bên bờ Bắc của rặng Spine, cả vùng đồng bằng màu mỡ giữa hồ Fläm và sông Toark, nơi hiếm có con người sinh sống. Eragon tán thành quyết định ấy.

Nar Garzhvog cũng thề trung thành với Nữ hoàng Nasuada như vua Orrin và Lãnh chúa Risthart. Tuy nhiên, gã Kull khổng lồ nói, “Dân tộc tôi sẽ đồng ý, Công Nương Báo-săn-đêm, nhưng họ có dòng máu nồng và trí nhớ ngắn ngủi, lời nói sẽ không giữ họ mãi mãi.”

Nasuada đáp lạnh lùng, “Ý ông là dân tộc ông sẽ phá hoại hòa bình hả? Tôi có nên hiểu giống loài chúng ta sẽ là kẻ địch nữa không?”

“Không,” Garzhvog lắc cái đầu vĩ đại. “Chúng tôi không muốn chiến đấu với các người. Chúng tôi biết Hỏa Kiếm sẽ giết mình. Nhưng … khi các con đực trưởng thành, chúng sẽ muốn chiến đấu để chứng tỏ bản thân. Nếu không có, chúng sẽ tự khơi mào chiến đấu. Tôi xin lỗi, Báo-săn-đêm, nhưng chúng tôi không thể thay đổi bản thân được.”

Những lời ấy làm Eragon – cũng như Nasuada đau đầu – nó mất vài đêm nghĩ về các Urgal, cố tìm giải pháp phù hợp.

Hàng tuần trôi qua, Nasuada tiếp tục điều nó và Saphira đến nhiều nơi trong Surda và vương quốc, thường với tư cách dại diện cá nhân cô tới gặp vua Orrin, Lãnh chúa Risthart, các quý tộc và nhóm binh lính trên khắp lãnh thổ.

Đến nơi nào họ cũng tìm một nơi có thể làm nhà cho các Eldunarí cũng như nuôi dưỡng những quả trứng giấu ở Vroengard trong hàng thể kỉ tới. Có một khu vực ở rặng Spine có vẻ hứa hẹn, nhưng quá gần chỗ con người lẫn Urgal, hoặc quá xa về phương Bắc đến nỗi sống quanh năm ở đó rất khổ sở. Ngoài ra, Murtagh và Thorn cũng đi về phía Bắc, Eragon và Saphira không muốn gây cho họ thêm khó khăn nào nữa.

Rặng Beor có vẻ hoàn hảo, nhưng nó ngờ rằng những người lùn sẽ không hoan nghênh hàng trăm con rồng đói ngấu nở ra trong lãnh thổ của mình. Từ bất cứ nơi nào trong khu vực dãy Beors, chỉ cần bay một quãng ngắn là có thể đến một thành phố người lùn nào đó, mà những con rồng nhỏ sẽ làm cỏ những đàn Feldûnost mất – Eragon rút kinh nghiệm từ Saphira.

Nó cho là các tiên nhân sẽ không phản đối lũ rồng sống ở những ngọn núi tại Du Weldenvarden, nhưng Eragon vẫn băn khoăn về việc ở gần thành phố tiên nhân. Thêm nữa, nó không khoái ý tưởng để lũ rồng và các Eldunarí trong lãnh thổ của bất kì giống loài nào. Điều đó sẽ có vẻ như họ đặc biệt thiên vị. Các Kỵ Sỹ trong quá khứ sẽ không bao giờ làm điều đó – Eragon tin tưởng – và cả các Kỵ Sỹ trong tương lai cũng thế.

Nơi duy nhất đủ xa khỏi mọi thành phố mà chưa có loài nào chiếm lấy là quê hương cổ xưa của loài rồng: sâu trong lòng sa mạc Hadarac, nơi ngọn Du Fells Nangoröth, rặng Núi-Nguyền-Rủa sừng sững. Eragon chắc chắn đó là nơi tuyệt vời để nuôi những con rồng non. Tuy nhiên có ba điểm bất cập. Đầu tiên, gần như sẽ không có đủ thức ăn trong sa mạc cho những con non. Saphira sẽ phải mất phần lớn thời gian vác hươu nai và các động vật hoang khác đến rặng núi. Và dĩ nhiên, khi những con non lớn hơn, chúng sẽ bắt đầu tự bay, khiến chúng dễ tới gần con người, tiên nhân hoặc người lùn hơn. Thứ hai, những người lữ hành rộng khắp – và cả những người khác – đều biết những ngọn núi nằm ở đâu. Thứ ba, rõ ràng không khó để tới được dãy núi, nhất là trong mùa đông. Hai điểm cuối khiến Eragon lo lắng nhất, băn khoăn không biết làm sao có thể bảo vệ những quả trứng, lũ rồng nong và các Eldunarí.

Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng ta lên hẳn những đính núi Beors, nơi chỉ những con rồng có thể bay tới, Nó nói với Saphira. Thì sẽ không kẻ nào có thể mò lên, trừ Thorn, Murtagh lẫn các pháp sư.

Các pháp sư, như bất kì tiên nhân nào ấy à? Với cả nơi đó lạnh quanh năm nữa!

Anh ngỡ em không ngại lạnh lắm.

Em thì không. Nhưng em không muốn sống với tuyết cả năm. Cát tốt cho vảy bọn em hơn; Glaedr bảo vậy. Cát giúp đánh bóng và làm sạch vảy.

Hmm.

Mỗi ngày trời một trở lạnh. Cây cối dần rụng lá, những đàn chim bay về phương Nam, rồi mùa đông tràn về. Đó là một mùa đông khắc nghiệt như thể toàn bộ Alagaësia đang chìm trong giấc ngủ sâu. Ngay khi tuyết bắt đầu rơi, Orik và quân đội của ông trở về ngay rặng Beor. Các tiên nhân còn ở Ilirea – trừ Vanir và Blödhgarm cùng mười pháp sư – đều trở về Du Weldenvarden. Các Urgal đã khởi hành trước đó. Ma mèo rời đi cuối cùng. Chúng chỉ đơn giản biến mất, khong ai thấy chúng bỏ đi, rồi một ngày không ai thấy con ma mèo nào nữa, trừ con ma mèo to béo tên Mắt-vàng nằm trên tấm nệm bên cạnh Nasuada, suốt ngày nằm ngủ, rên rỉ, lắng nghe mọi việc trong cung điện.

Không có các tiên nhân và người lùn, Eragon cảm thấy cả thành phố trống rỗng buồn bã, nó đi dọc qua những con phố, hàng đụn tuyết rơi xuống từ kẽ hở của phiến đá trên đầu.

Nasuada vẫn tiếp tục điều nó đi làm nhiệm vụ. Nhưng cô chưa bao giờ điều họ tới Du Weldenvarden, nơi Eragon tha thiết muốn tới. Họ vẫn chưa nhận được tin gì từ các tiên nhân về người kế tục Islanzadí, khi được hỏi, Vanir chỉ đơn giản nói, “Chúng tôi không phải những kẻ vội vã, đối với chúng tôi, bổ nhiệm tân vương luôn là một quá trình khó khăn phức tạp. Ngay khi biết quyết định của hội đồng trưởng lão, tôi sẽ báo cho cậu.

Eragon đã không gặp mặt hay nghe tin gì từ Arya quá lâu rồi, tới mức nó cân nhắc dùng tên của cổ ngữ để vượt qua lưới phòng hộ quanh Du Weldenvarden để có thể liên lạc trực tiếp hay ít nhất qua cầu thủy tinh. Tuy nhiên nó biết các tiên nhân sẽ không vui vì bị xâm phạm, nó cũng sợ Arya sẽ không thông cảm việc liên lạc với cô mà không có việc gì bức thiết.

Do vậy, nó viết cho cô một bức thư ngắn, hỏi thăm và nói cho cô biết tình hình nó và Saphira. Nó đưa bức thư cho Vanir, ông hứa sẽ gửi Aryan gay. Eragon chắc chắn Vanir giữ lời – họ nói chuyện bằng cổ ngữ - nhưng mãi nó vẫn không nhận được hồi âm từ Arya sau nhiều tháng, nó bắt đầu nghĩ vì một vài lý do gì đó, cô quyết định chấm dứt tình bạn giữa họ. Ý nghĩ ấy làm nó hoảng sợ, khiến nó tập trung vào công việc Nasuada giao phó hơn bao giờ hết, hy vọng quên được nỗi u sầu ấy.

Tới giữa mùa đông, khi những ngọn bặng treo trên trần đá phía trên Ilirea và những tuyết rơi dày trên cánh đồng xung quanh, những con phố tắc nghẽn và bữa ăn ngày một hao hụt đi, ba vụ ám sát Nasuada diễn ra, như Murtagh cảnh báo.

Những vụ tấn công rất khéo léo và lên kế hoạch chu toàn, và vụ thứ ba – có cả một tấm lưới đầy đá rơi lên Nasuada – suýt nữa thành công. Nhưng được lưới phòng hộ của Eragon và Elva bảo vệ, Nasuada vẫn sống sót, dù vụ tấn công cuối làm cô bị gãy vài cái xương.

Trong vụ thứ ba, Eragon và các lính Chim-ưng-Đêm giết được hai kẻ tấn công – có bao nhiêu tên còn lại vẫn còn là ẩn số - nhưng đồng bọn chúng thoát được.

Sau đó Eragon và Jörmundur tiến một bước dài để đảm bảo an toàn của Nasuada. Họ tăng cường số lính gác, và dù cô đi đâu cũng có ba pháp sư theo hộ tống. Nasuada càng ngày càng cẩn trọng hơn, Eragon thấy vẻ cứng cỏi của cô trở nên rất rõ ràng.

Kể từ đó không còn vụ tấn công nào nhằm vào Nasuada nữa, nhưng chỉ một tháng sau khi mùa đông lui, những con phố lại quang đãng, một bá tước tên Hamlin, gom được vài trăm lính cũ của Đế chế, bắt đầu công hãm Gil’ead và tấn công những người đi tới đó.

Cùng lúc, một cuộc nổi dậy nhỏ nổ ra ở phương nam, dẫn đầu bởi Thoros Nhanh nhẹn ở Aroughs.

Vụ nổi loạn chỉ như gãi ngứa, nhưng họ vẫn mất vài tháng để đàn áp, có những trận chiến khá ác liệt bất ngờ, dù Eragon và Saphira cố giải quyết hòa bình hết mức. Sau những trận chiến họ tham gia, không ai muốn có thêm máu phải đổ cả.

Một thời gian ngắn sau khi vụ nổi dậy kết thúc, Katrina sinh hạ một bé gái bụ bẫm khỏe mạnh, mang một chóp tóc đỏ trên đầu như mẹ nó. Con bé khóc to hơn tất cả những đứa trẻ sơ sinh Eragon từng nghe, và có năm tay mạnh như thép. Roran và Katrina đặt tên đứa bé Ismira theo tên mẹ Katrina, mỗi khi họ nhìn mặt con bé, nét rạng ngời trên mặt họ khiến Eragon cũng cười toe toét theo.

Sau ngày Ismira sinh thành, Nasuada triệu hồi Roran tới cung điện, gây ngạc nhiên lớn khi ban cho anh danh hiệu bá tước và toàn bộ thung lũng Palancar làm lãnh thổ riêng.

“Cho đến khi anh và con cháu mình vẫn còn phù hợp, thung lũng sẽ là của các bạn,”

Roran cúi người nói, “Cảm tạ Nữ hoàng.” Eragon có thể thấy món quà ấy có ý nghĩ với Roran nhiều như sự ra đời của con gái anh vậy, bởi sau gia đình thứ quý giá nhất với Roran chính là quê hương.

Nasuada cũng muốn phong cho Eragon tước vị và đất đai, nhưng nó từ chối, “Đối với tôi được là Kỵ Sỹ cũng quá đủ rồi, tôi không cần gì khác.”

Vài ngày sau, Eragon thảo luận cùng Nasuada bên cạnh bản đồ Alagaësia về những vấn đề quan trọng khắp vương quốc, cô nói, “Giờ khi mọi chuyện đã ổn hơn, tôi nghĩ đã đến lúc xác lập vai trò của các pháp sư ở Surda, Teirm và vương quốc này.”

“Ồ?”

“Đúng vậy. Tôi đã nghĩ rất nhiều về chuyện này và đi tới quyết định, rằng tôi sẽ thành lập một nhóm, tương tự các Kỵ Sỹ, nhưng là cho các pháp sư.”

“Thế nhóm ấy sẽ làm gì?”

Nasuada nhặt cây bút lông lên, xoay xoay trong kẽ ngón. “Cũng giống với Đoàn Kỵ Sỹ: du hành khắp nơi, giữ gìn hòa bình, giải quyết xung đột về luật phát, và quan trọng nhất, trông chừng các pháp sư khác, để đảm bảo họ không sử dụng khả năng vào mục đích sai trái.”

Eragon nhăn mày khẽ. “Sao không để nó cho đoàn Kỵ Sỹ?”

“Bởi sẽ mất hàng năm trước trước khi có thêm, và kể cả như thế sẽ không đủ người để ý tới tất cả phù thủy hay pháp sư lẩn quất… Cậu vẫn chưa tìm ra nơi nuôi nấng lũ rồng, phải không?

Eragon lắc đầu. Cả nó lẫn Saphira đều cảm thấy mất kiên nhẫn, bởi họ và Eldunarí không thể đồng thuận về địa điểm được. Chuyện này ngày càng nhức nhối với họ, bởi những quả trứng cần được ấp càng sớm càng tốt.

“Tôi nghĩ là không. Chúng ta phải làm chuyện này, Eragon à, và chúng ta không chờ thêm được nữa. Nhìn những gì Galbatorix gây ra xem. Pháp sư là sinh vật nguy hiểm nhất trên đời, thậm chí hơn cả loài rồng, và họ phải bị kiểm soát. Nếu không chúng ta sẽ luôn phải cầu xin lòng nhân từ của họ.”

“Cô có thực sự tin rằng có khả năng tuyển đủ pháp sư để trong nom toàn bộ các pháp sư khác ở đây lẫn Surda không?”

“Tôi nghĩ vậy, nếu cậu yêu cầu họ. Đó là một lý do tôi muốn cậu lãnh đạo nhóm đó.”

“Tôi à?”

Cô gật đầu. “Ai khác chứ? Triana chắc? Tôi không hoàn toàn tin tưởng cô ta, mà cô ta cũng chẳng có đủ sức mạnh cần thiết. Một tiên nhân? Không, đó phải là giống loài chúng ta. Cậu biết tên của cổ ngữ, cậu là một Kỵ Sỹ,đằng sau cậu là trí tuệ và quyền lực từ những con rồng. Tôi không nghĩ ra ai hợp hơn để lãnh đạo các pháp sư. Tôi đã bàn với Orrin rồi, ông ta đồng ý.”

“Tôi không cho rằng ý tưởng ấy khiến ổng vui đâu.”

“Không, nhưng ông ta hiểu rằng nó cần thiết.”

“Thật không?” Eragon nắm lấy cạnh bàn, băn khoăn. “Cô định sẽ coi chừng những pháp sư không thuộc nhóm ấy trong bao lâu?”

“Tôi hy vọng cậu sẽ có vài đề nghị. Tôi cho rằng có lẽ với thần chú và gương cầu, chúng ta có thể theo dõi và giám sát họ sử dụng phép thuật, không cho họ làm lợi mình hại người.”

“Và nếu có?”

“Thì ta sẽ bắt chúng đền tội, bắt chúng phải thề bằng cổ ngữ từ bỏ sử dụng phép thuật.”

“Thề bằng cổ ngữ không chắc sẽ ngăn ai đó dùng phép thuật đâu.”

“Tôi biết, nhưng đó là điều tốt nhất có thể làm.”

Anh gật đầu. “Còn nếu pháp sư đó từ chối bị giám sát thì sao? Làm thế nào? Tôi không tưởng tượng được nhiều cách để thám thính họ đâu.”

Nasuada thở dài, đặt cây bút lông xuống. “Cái đó mới khó. Cậu sẽ làm gì hả Eragon, nếu cậu là tôi?”

Nó không có giải pháp nào hay hơn cả. “Tôi không biết ….”

Nét mặt cô buồn bã. “Tôi cũng thế. Đó là một vấn đề khó khăn, đau đớn và lộn xộn, dù tôi có chọn lựa gì, ai đó cũng sẽ bị tổn thương. Nếu tôi không làm gì, các pháp sư sẽ tự do thao túng người khác bằng thần chú. Nếu tôi ép họ đồng ý bị giám sát, rất nhiều người sẽ thù ghét tôi. Dù sao, tôi nghĩ cậu cũng đồng ý với tôi rằng tốt hơn phải bảo vệ đa số thần dân của mình với tổn thất của số ít.”

“Tôi không thích lắm,” nó lẩm bẩm.

“Tôi cũng đâu có thích.”

“Cô đang nói về việc trói buộc tất cả pháp sư người theo ý muốn, bất kể họ là ai.”

Cô không chớp mắt. “Vì lợi ích của đa số.”

“Thế những người chỉ có thể nghe ý nghĩ thôi thì sao? Đó cũng là một dạng phép thuật.”

“Cả họ nữa. Khả năng họ lạm dụng quyền năng ấy là rất lớn.” Nasuada thở dài. “Tôi biết chuyện này không dễ dàng gì. Dù Galbatorix điên khùng hay ma quỷ, nhưng lão cũng đúng một điều: các pháp sư phải bị kìm chế. Nhưng không phải như Galbatorix muốn. Dù sao vẫn phải làm gì đó, và tôi nghĩ kế hoạch của mình là giải pháp tốt nhất có thể. Nếu cậu có thể có cách khác tốt hơn để áp đặt luật pháp đối với pháp sư, tôi sẽ mừng lắm. Nếu không thì đây là điều duy nhất chúng ta có thể làm … Vậy, cậu có chấp nhận đứng đầu nhóm đó, vì vương quốc này, và cũng vì toàn thể giống nòi chúng ta không?”

Eragon im lặng một hồi lâu, rồi nói, “Nếu cô không phiền, tôi muốn suy nghĩ một lát. Và tôi muốn hỏi ý Saphira nữa.”

“Dĩ nhiên. Nhưng đừng nghĩ quá lâu Eragon à. Nhiều thứ đã bắt đầu được sửa soạn rồi, sẽ cần đến cậu sớm thôi.”

Sau đó, Eragon không đi thẳng đến chỗ Saphira mà lang thang qua những con phố Ilirea, lờ đi những người trên đường chào nó hay cúi người. Nó thấy … khó ở, với cả đề nghị của Nasuada lẫn cuộc sống nói chung. Nó và Saphira đã nhàn rỗi quá lâu. Thời đại sắp thay vần rồi, hoàn cảnh không cho phép họ chờ thêm nữa. Họ phải qyết định sẽ làm gì, và lựa chọn nào cũng sẽ ảnh hưởng đến suốt đời họ.

Nó dành vài giờ vừa đi vừa suy nghĩ, chủ yếu về những ràng buộc và nghĩa vụ của nó. Đến chiều muộn, nó quay trở lại chỗ Saphira, không nói gì trèo lên lưng cô nàng.

Cô nàng phóng vụt ra khỏi sân nhà, bay thẳng lên bầu trời Ilirea, có thể phóng mắt xa hàng trăm dặm. Rồi cô nàng cứ lượn vòng một chỗ.

Họ không nói chuyện bằng lời mà trao đổi những trạng thái suy nghĩ. Saphira chia sẻ những băn khoăn của nó, nhưng cô nàng không lo lắng như nó về ràng buộc với những người khác. Nhưng Eragon biết không thể chỉ lờ đi hệ quả của lựa chọn của họ dù xét về khía cạnh chính trị hay cá nhân.

Cuối cùng nó nói, Chúng ta nên làm gì?

Saphira chíu xuống khi luồng gió dưới cánh cô nàng chậm lại. Điều chúng ta cần phải làm, như mọi trường hợp. Cô nàng không nói gì nữa, nhưng quay đi hạ dần xuống thành phố.

Eragon cảm kích sự im lặng của cô nàng. Quyết định ấy sẽ khó khăn với nó hơn nhiều so với cô nàng, và nó cần tự mình suy nghĩ về chuyện đó.

Rồi khi họ đáp xuống sân đình, Saphira huých nhẹ mõm cô nàng vào nó, Nếu anh muốn nói chuyện, em sẽ ở đây.

Nó mỉm cười, gãi gãi bên cổ cô nàng, rồi chầm chậm bước về phòng mình, nhìn chăm chú sàn nhà.

Đêm đó, khi vầng trăng khuyết vừa hiện ra trên bờ tường Ilirea, Eragon đang ngồi cuối giường đọc sách về kĩ thuật làm yên cương trong thời kì Kỵ Sỹ sơ khai, một ánh sáng bập bùng bên khóe – như tấm màn vung vẩy – khiến nó chú ý.

Nó phóng xuống sàn, rút thanh Brisingr khỏi bao.

Rồi trên cửa sổ đang mở, nó thấy một con thuyền ba buồm bện từ cỏ. Nó mỉm cười đút kiếm trở lại. Nó dang tay ra, con thuyền trôi vào trong phòng hạ lên lòng bàn tay nó, nằm nghiêng về một phía.

Con thuyền này khác so với cái Arya đã làm trong hành trình của họ trong lòng Đế chế. Nó nhiều cột buồm hơn, những cánh buồm cũng kết nên từ lá cỏ. Dù những lá cỏ có rũ xuống đượm màu vàng, chúng vẫn không khô hết, khiến nó nghĩ chúng mới chỉ được ngắt cách một hai ngày mà thôi.

Một miếng giấy giấp buộc vào giữa sàn thuyền. Eragon cẩn thận gỡ nó ra, tim đập thình thịch khi mở miếng giấy. Trên đó những nét chữ viết bằng cổ ngữ:

Eragon,

Chúng tôi đã quyết định được người lãnh đạo, tôi đang trên đường tới Ilirea để sắp xếp giới thiệu với Nasuada. Tôi sẽ nói chuyện với cậu và Saphira trước. Thông điệp này sẽ tới tay cậu bốn ngày trước nửa con trăng. Nếu cậu tới, gặp tôi một ngày sau khi nhận được nó, ở bờ cực Đông sông Ramr. Đến một mình thôi, và đừng nói cho ai khác biết cậu đi đâu.

Arya

Eragon tự động mỉm cười. Cô đã căn thời gian cực kì chuẩn, con thuyền đến chính xác như cô dự định. Rồi nụ cười của nó nhạt dần, nó đọc lại bức thư vài lần. Cô đang giấu chuyền gì đó, hiển nhiên rồi. Nhưng chuyện gì? Vì sao phải gặp bí mật?

Có lẽ Arya không chấp thuận người lãnh đạo kế tiếp của tiên nhân, nó nghĩ. Hoặc có thể là vấn đề nào khác đó. Dù Eragon nôn nóng gặp lại Arya, nó cũng không thể quên cô đã lờ tịt nó và Saphira như thế nào. Nó cho rằng từ quan điểm Arya, ba tháng chỉ là khoảng thời gian vặt vãnh, nhưng nó vẫn không khỏi cảm thấy bị tổn thương.

Nó đợi khi tia nắng đầu tiên ló ra trên bầu trời, rồi vội đi xuống thức Saphira dậy nói cho cô nàng biết. Cô nàng cũng tò mò như nó, nhưng không hưng phấn bằng.

Nó buộc yên cương, rồi cả hai rời thành phố bay theo hướng Đông Bắc mà không nói với ai hết, kể cả Glaedr và các Eldunarí.

FÍRNEN

Khi họ tới địa điểm Arya hẹn trước thì trời đã ngả về chiều: một khoảng sông Ramr uốn lượn đánh dấu quãng ngoặt về phía đông.

Eragon căng mắt nhìn qua cổ Saphira xem có ai ở dưới hay không. Khoảng đất phía dưới không có ai ngoài một đàn bò rừng. Khi thấy Saphira chúng cắm đầu chạy bụi tung mù mịt. Trừ vài loài động vật khác rải rác khắp vùng đồng cỏ, Eragon không cảm nhận được sinh vật nào khác. Thất vọng tràn trề, nó quay ra nhìn về phía chân trời nhưng không thấy bóng dáng Arya.

Saphira hạ cánh xuống một mô đất cách bờ sông chừng năm mươi thước. Cô nàng và Eragon ngồi xuống, nó dựa lưng vào cô nàng nghỉ ngơi.

Bề mặt mô đất là một vùng đá cằn cỗi màu xanh đen. Trong khi chờ đợi, Eragon giải trí bằng cách nghiền những viên đá to bằng ngón tay thành hình mũi tên. Những mũi tên đá quá mềm để làm gì ngoài trang trí, nhưng nó khoan khoái với thử thách ấy. Khi nó thỏa mãn với một hình tam giác đơn giản, nó bỏ sang một bên, bắt đầu một viên lớn hơn thành con dao lưỡi hình lá, tương tự vũ khí của các tiên nhân.

Họ không phải chờ lâu như nó nghĩ.

Khoảng một giờ sau, Saphira nghển cổ nhìn qua trảng cỏ dài về phía không-xa-lắm sa mạc Hadarac.

Thân thể cô nàng dốc cứng lại, nó cảm thấy một cảm xúc kì lạ trong cô nàng: từa tựa một chuyện gì đó rất khẩn yếu sắp xảy đến.

Nhìn kìa, cô nàng nói.

Vẫn cầm trên tay con dao làm nửa chừng, nó lồm cồm bò dậy quay qua nhìn về phía Đông.

Nó không thấy gì ngoài cỏ, đất và một vài bụi cây rì rào trong gió trước đường chân trời. Nó cố nhìn chăm chú nhưng không thấy gì đáng chú ý cả.

Cái gì – nó vừa định hỏi thì im bặt lại, ngước lên trên.

Mãi trên cao về phía đông, nó thấy một ngọn lửa màu xanh nhất nháy, như viên ngọc lục bảo lấp lánh dưới ánh mặt trời. Điểm sáng bay vòng qua màn trời xanh ngắt, tiến lại rất nhanh, tỏa sáng như ngôi sao đêm.

Eragon thả rơi con dao đá xuống đất, mắt vẫn dán về phía ánh sáng lấp lóe, trèo lên lưng Saphira buộc nhanh đai vào yên cương. Nó muốn cô nàng xem điểm sáng kia là gì –buộc cô nàng xác nhận điều nó đang nghĩ – nhưng nó không thể khiến cô nàng hé miệng thêm.

Saphira vẫn đứng nguyên, dù đôi cánh dang rộng nửa chừng, sẵn sàng cất cánh.

Điểm sáng lớn hơn, nở rộng ra thành hàng tá, rồi hàng trăm, rồi hàng nghìn điểm sáng nhỏ li ti. Sau vài phút hình sáng của nó lộ diện, họ nhìn thấy đó là một con rồng.

Saphira không thể chờ thêm. Cô nàng phát ra một tiếng kêu vang dội, nhảy lên rồi phi xuống.

Eragon bám chặt mấu nhọn trước mặt khi cô nàng lao vụt lên gần như thẳng đứng, háo hức chặn con rồng kia lại nhanh nhất có thể. Cả nó và cô nàng đều bừng lên cảm giác vừa phấn chấn lẫn cảnh giác, thứ hình thành qua bao cuộc chiến. Cẩn thận xem lại, họ mừng vì mặt trời đang ở phía sau.

Saphira tiếp tục bay lên cho tới khi cô nàng hơi cao hơn so với con rồng xanh, từ đó cô nàng có thể hạ độ cao tập trung vào tốc độ.

Tiến gần hơn, Eragon thấy con rồng, tuy khá lớn, nhưng trông vẫn còn khá trẻ - các chi của nó vẫn chưa có được khối lượng đồ sộ như Glaedr hay Thorn – và nó còn nhỏ hơn Saphira nữa. Mảng vảy phía bên sườn và lưng nó có màu xanh thẫm, trong khi phía bụng và bàn chân sáng hơn, có chỗ vẫn còn trăng trắng. Khi khép vào, cánh của nó có màu cây nhựa ruồi, nhưng khi ánh sáng xuyên qua, chúng có màu lá rồi khi vào xuân.

Trên điểm nối giữa cổ và lưng là một cái yên rất giống của Sahira, trên đó Arya đang ngồi, máu tóc đen óng ả tung bay. Cảnh tượng khiến Eragon vui sướng khôn cùng, sự trống vắng phải chịu đựng bao ngày biến mất như ánh mặt trời xua tan màn đêm.

Rồi hai con rồng nhào qua nhau, Saphira gầm lên, con rồng kia cũng gầm lên đáp trả. Chúng quay ngược lại, bắt đầu bay vòng quanh– như thể đang đuổi theo đuôi của nhau – Saphira ở cao hơn con rồng xanh một chút, lúc này đang cô trèo lên người cô. Nếu nó làm được, Eragon sợ nó sẽ cố lấy lợi thế trước khi tấn công.

Nó cười toe toét, la hét bạt gió. Arya giơ tay hét trả. Rồi Eragon chạm vào tâm trí cô, để chắc chắn, và nó biết ngay lập tức đó thực sự là Arya, cô và con rồng cũng không có ý làm bị thương họ. Nó lui lại ngay, bởi sẽ rất thô lỗ nếu kéo dài tiếp xúc tâm trí mà không được cô đồng ý; cô sẽ trả lời những câu hỏi của nó khi họ xuống nói chuyện dưới mặt đất.

Saphira và con rồng xanh lại gầm lên, rồi con rồng xanh vẫy cái đuôi hình roi, chúng đuổi nhau cho tới khi đến sông Ramr. Từ đó Saphira dẫn trước, lao xoáy hình trôn ốc hạ cánh xuống mô đất hai đứa vừa ngồi đợi.

Con rồng xanh hạ cánh cách gần trăm thước, cúi đầu thấp khi Arya nhảy xuống khỏi yên cương.

Eragon tháo đai chân nhảy xuống đất, vỏ thanh Brisingr đập vào chân nó. Hai người cùng chạy tới, gặp nhau ở khoảng giữa hai con rồng, đang đi lại chậm rãi hơn, dậm huỳnh huỵch lên mặt đất.

Khi họ tới gần, Eragon nhìn thấy trên mảng tóc từng là một sợi dây da chắn lại, giờ là một chiếc vòng vàng đeo phía trên trán. Ở giữa vòng vàng, một viên kim cương hình giọt lệ lóa sáng từ trong sâu thắm. Trên hông cô đeo thanh kiếm chuôi xanh trong vỏ bao cũng màu xanh, nó nhận ra đó là thanh Támerlein mà vị tiên nhân Fiolr muốn tặng nó để thay thế thanh Zar’roc, từng thuộc về Kỵ Sỹ Arva. Tuy nhiên, chuôi kiếm hơi khác so với trí nhớ của nó, nhẹ hơn, duyên dáng hơn và bao kiếm cũng nông hơn nữa.

Phải mất một lúc nó mới nhận ra chiếc mũ miện có nghĩa gì. Nó nhìn Arya kinh nhạc. “Nàng!”

“Là tôi,” cô gật nhẹ đầu. “Atra esterní ono thelduin, Eragon.”

““Atra du evarínya ono varda, Arya … Dröttning?” Nó không thể không nghĩ rằng cô đã chọn gặp mặt nó đầu tiên.

“Dröttning,” cô xác nhận. “Dân tộc tôi đã lựa chọn phong cho tôi tước vị của mẫu thân, và tôi chọn cách chấp thuận.”

Phía trên họ, Saphira và con rồng xanh thò đầu gần nhau đánh hơi. Saphira cao hơn, con rồng xanh phải nghển cổ để vươn tới cô nàng.

Dù Eragon đang rất muốn nói chuyện với Arya, nó không thể nhịn được nhìn chăm chú con rồng xanh. “Còn nó?” Eragon ngước đầu lên hỏi.

Arya mỉm cười, khiến nó ngạc nhiên khi cầm tay nó dẫn tới. Con rồng xanh khịt mũi, hạ thấp đầu xuống ngay trên họ, khói và hơi nước xộc ra từ sâu trong lỗ mũi sâu.

“Eragon,” cô nóng, đặt nay lên chiếc mõm ấm áp của con rồng, “đây là Fírnen. Fírnen, đây là Eragon.”

Eragon ngước nhìn lên con mắt sáng lấp lánh của Fírnen. Những sợi cơ sâu trong tròng mắt rồng có màu xanh nhạt và vàng như những phiến cỏ tươi.

Rất hân hạnh được gặp anh, Eragon-bằng-hữu-Khắc-tinh-của-Tà-thần à, Fírnen nói. Giọng nói bằng ý nghĩ của nó sâu hơn Eragon tưởng, thậm chí còn hơn Thorn hay Galedr hay bất kì Eldunarí nào từ Vroengard. Kỵ Sỹ của tôi đã kể rất nhiều về anh. Rồi con rồng nháy mắt, với một tiếng động nhỏ, sắc lẻm như vỏ sò đạp vào tảng đá.

Trong tâm trí rộng rãi, sáng sủa của Fírnen, Eragon có thể cảm thấy con rồng đang rất phấn khích.

Trong lòng Eragon dâng nên một băn khăn, wonder that such a thing had come to pass.“Tôi cũng rất hân hạnh được gặp cậu, Fírnen-finiarel. Tôi không bao giờ nghĩ mình còn sống để thấy cậu nở và thoát khỏi bùa chú của Galbatorix.”

Con rồng lục khịt mũi nhẹ. Nó trông tự hào, tràn trề năng lượng như một con hươu mùa thu. Rồi nó quay về phía Saphira. Giữa chúng có rất nhiều thứ lướt qua; qua Saphira, Eragon có thể cảm thấy những luồn suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, nhưng rồi chúng hòa trộn, trôi vào nhau như một cơn sóng ào đi.

Arya cười nhẹ. “Chúng có vẻ thích nhau đấy nhỉ.”

“Cái đấy thì hẳn rồi.”

Như hiểu nhau mà không cần nói nên lời, nó và Arya rời bước khỏi Saphira và Fírnen, để hai con rồng lại với nhau. Saphira không ngồi như mọi khi mà thu mình cúi xuống như thể sắp nhảy chồm lên một con hươu. Fírnen cũng tương tự. Đầu đuôi của chúng xoắn lại với nhau.

Arya nhìn vẫn ổn: Eragon nghĩ còn tốt hơn từ những ngày còn ở cùng nhau tại Ellesméra. Không có lời nào thích hợp khác, nó có thể nói cô trông rất hạnh phúc.

Vừa nhìn lũ rồng, không ai cất tiếng một hồi lâu. Rồi Arya quay sang nó nói, “Tôi xin lỗi vì đã không liên lạc với cậu sớm hơn. Cậu chắc phải nghĩ về tôi tệ lắm vì đã lờ cậu lẫn Saphira và giữ bí mật về Fírnen trong thời gian dài như vậy.”

“Nàng có nhận được bức thư của ta không?”

“Tôi đã.” Nó ngạc nhiên thấy cô thò tay vào trong áo choàng lấy ra một mảnh giấy, sau một vài giây nó nhận ra đó là gì. “Tôi có thể trả lời, nhưng Fírnen vừa nở ra và tôi thì không muốn nói dối cậu, kể cả bằng cách tảng lời đi chuyện đó.”

“Vì sao phải giấu nó đi?”

“Có quá nhiều tay sai của Galbatorix vẫn còn bên ngoài, mà có quá ít rồng sót lại, tôi không muốn mạo hiểm để ai đó biết về Fírnen cho tới khi nó đủ lớn để tự bảo vệ.”

“Nàng có thực sự nghĩ rằng một con người có thể lẩn vào Du Weldenvarden giết nó không?”

“Những chuyện kì lạ đã từng xảy ra rồi. Khi loài rồng đang ở bên bờ tuyệt chủng thì rủi ro như vậy không đáng chấp nhận. Nếu có thể, tôi sẽ giữ Fírnen tại Du Weldenvarden trong mười năm tới, cho đến khi nó đủ lớn tới mức không ai dám tấn công nữa. Nhưng nó muốn đi đây đi đó, còn tôi không thể từ chối được. Ngoài ra, đã đến lúc tôi phải gặp Nasuada và Orik trên cương vị mới.”

Eragon có thể cảm thấy Fírnen đang kể cho Saphira lần đầu tiên nó bắt một con hươu thế nào. Nó biết Arya cũng nhận thấy điều đó, khi vành môi cô mím nhẹ đáp lại hình ảnh Fírnen đang nhảy bật đuổi theo con hươu đang giật mình bởi vấp phải một nhành cây.

“Nàng đã là nữ hoàng bao lâu rồi?”

“Từ một tháng sau khi tôi trở về. Vanir cũng không biết. Tôi yêu cầu thông tin giữ kín khỏi ông lẫn sứ thần với người lùn, để có thể chuyên tâm nuôi nấng Fírnen mà không bị quấy rầy bởi những chuyện ngoại giao sẽ đổ lên đầu mình nếu không làm vậy … Cậu sẽ rất vui đấy: tôi nuôi nó trên Vách đá Tel’naeír, nơi Oromis sống cùng Glaedr. Như thế thực phù hợp.”

Một khoảng dài im lặng. Rồi Eragon ra hiệu về phía mũ miện Arya lẫn Fírnen nói, “Tât cả những chuyện này xảy ra thế nào?”

Cô mìm cười. “Trong hành trình trở lại Ellesméra, tôi chú ý thấy Fírnen bắt đầu cựa quậy bên trong, nhưng tôi không nghĩ gì hết, như Saphira cũng thường làm thế. Tuy nhiên khi chúng tôi tới Du Weldenvarden và vượt qua lưới phòng hộ, nó nở luôn. Đó là lúc gần tối, tôi đang mang quả trứng trong vạt áo như khi mang Saphira, tôi đang nói chuyện với nó, kể cho nó nghe về thế giới và đảm bảo nó vẫn an toàn, thì đột nhiên thấy quả trứng rung lên và…” Cô run nhẹ, vuốt mái tóc, một dòng lệ tuôn ra từ khóe mắt. “Mối liên kết đúng như tất cả những gì tôi tưởng tượng. Khi chúng tôi chạm vào nhau… Tôi luôn muốn trở thành Kỵ Sỹ rồng, Eragon à, để có thể bảo vệ nhân dân mình và trả thù cái chết của cha mình dưới tay Galbatorix và những Kẻ Phản Tặc, nhưng mãi cho tới khi nhìn thấy vết nứt đầu tiên trên vỏ Fírnen, tôi chưa bao giờ cho mình tin tưởng chuyện đó thực sự sẽ xảy ra.”

“Khi nàng chạm vào, có …”

“Có.” Cô ngửa bàn tay trái ra, cho nó thấy dấu màu bạc trong lòng bàn tay, giống như gedwëy ignasia của nó. “Nó như thể …” Cô ngừng lại tìm từ thích hợp.

“Như thể dòng nước lạnh như băng châm châm chích và chồm lấy,” nó gợi ý.

“Chính xác như vậy.” Có vẻ lơ đãng, cô khoanh tay như thể bị lạnh.

“Rồi nàng trở lại Ellesméra,” Eragon nói. Lúc này Saphira đang kể cho Fírnen nghe cô nàng bơi cùng Eragon trong hồ Leona trên dường tới Dras-Leona cùng Brom.

“Rồi chúng tôi trở lại Ellesméra.”

“Rồi nàng lên sống ở Vách đá Tel’naeír. Nhưng sao lại trở thành nữ hoàng khi nàng đã là Kỵ Sỹ?”

“Đó không phải là ý của tôi. Däthedr và các tiền bối khác trong giống loài đã tới vách đá, họ hỏi tôi xem có muốn kế thừa danh hiệu của mẫu thân hay không, rồi một ngày sau, rồi mọi ngày trong tuần, mỗi lần họ lại đưa ra những lý lẽ mới vì sao tôi nên chấp nhận ngôi báu. Cuối cùng, họ thuyết phục được tôi rằng đó là điều tốt nhất cho dân tộc.”

“Nhưng sao phải là nàng? Có phải vì nàng là con gái Islanzadí, hay vì nàng đã trở thành Kỵ Sỹ rồng?”

“Chuyện này không chỉ vì Islanzadí là mẹ tôi, nhưng đúng là có một phần. Cũng không phải chỉ vì tôi đã là Kỵ Sỹ. Nền chính trị của chúng tôi phức tạp hơn nhiều so với con người và người lùn, chọn ra tân vương không bao giờ dễ dàng cả. Nó bao gồm gom được sự đồng thuận của hàng tá những gia đình và dòng tộc, cũng như những tiền bối của giống loài, mỗi lựa chọn của họ là một phần của trò chơi tinh tế chúng tôi đã thực hiện với nhau trong hàng ngàn năm… có nhiều lý do vì sao họ muốn tôi cho thành nữ hoàng, mà không phải tất cả chúng đều hiển nhiên.”

Eragon nghiêng mình, nhìn về phía giữa Saphira và Arya, không thể thuyết phục bản thân mình đồng tình với quyết định của Arya. “Làm sao nàng vừa là Kỵ Sỹ lẫn nữ hoàng được?” no hỏi. “Các Kỵ Sỹ không được ủng hộ giống loài nào hơn cả. Nếu không những giống loài ở Alagaësia sẽ không thể tin tưởng chúng ta. Và làm sao nàng có thể xây dựng thành viên đoàn Kỵ Sỹ cũng như nuôi nấng thế hệ rồng tiếp theo nếu nàng bận bịu với trách nhiệm ở Ellesméra được?”

“Thế giới không còn giống như trước nữa,” cô nói. “Kể cả các Kỵ Sỹ cũng không thể đứng tách biệt như đã từng. Chúng ta có quá ít để có thể đứng một mình, và còn rất lâu nữa mới có đủ thành viên để trở lại vị thế trước kia. Dù sao đi nữa, chẳng phải cậu cũng đã thề trung thành với Nasuada, và với Orik lẫn Dûrgrimst Ingeitum, nhưng không phải với chúng tôi, không phải với älfakyn. Sẽ hợp lý nếu chúng tôi cũng có Kỵ Sỹ và rồng thôi.”

“Nàng biết Saphira và tôi sẽ chiến đấu vì tiên nhân cũng y như vì người lùn và con người mà,” nó phản đối.

“Tôi thì có, nhưng người khác thì không đâu. Vẻ bề ngoài cũng quan trọng đấy Eragon à. Cậu không thể thay đổi thực tế là cậu đã thề trung thành với Nasuada cũng như bộ tộc của Orik … Dân tộc tôi đã chịu nhiều đau khổ lớn lao trong một trăm năm qua, và có thể cậu không biết rõ, chúng tôi cũng không còn như như trước đây nữa. Khi vận mệnh của loài rồng suy vong, chúng tôi cũng thế. Chúng tôi có ít đứa trẻ ra đời hơn, và sức mạnh thì ngày càng sụt giảm. Thêm nữa, có người nói trí óc của chúng tôi cũng không sắc sảo như trước đây, dù rất khó để chứng minh điều đó.”

“Glaedr cũng nói với chúng tôi điều tương tự về loài người.” Eragon nói.

Cô gật đầu. “Ông ấy đúng đấy. Cả hai giống loài sẽ phải mất thời gian phục hồi, và điều đó phụ thuộc vào sự trở lại của loài rồng. Thêm nữa, kể cả khi giống loài của cậu cần Nasuada dẫn dắt, dân tộc tôi cũng cần người lãnh đạo. Một khi Islanzadí mất đi, tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải tự mình làm chuyện đó.” Cô chạm nhẹ lên vai phải, nơi hình xăm chữ yawë ẩn khuất. “Tôi đã thề sẽ phục vụ người dân của mình khi không lớn hơn cậu bao nhiêu. Tôi không thể bỏ mặc họ bây giờ, khi họ rất cần tôi.”

“Họ sẽ luôn cần nàng mà.”

“Và tôi sẽ luôn đáp lại lời kêu gọi của họ,” cô đáp. “Đừng lo, Fírnen và tôi sẽ không lờ đi nghĩa vụ của rồng và Kỵ Sỹ đâu. Chúng tôi sẽ giúp cậu tuần tra và hòa giải những tranh chấp có thể, và dù ở đâu những con rồng được nuôi nấng tốt nhất, chúng tôi sẽ tới thăm và hỗ trợ thường xuyên nhất có thể, kể cả ở tận cùng rặng Spine đi chăng nữa.

Những lời của cô làm Eragon phiền lòng, nhưng nó cố giấu đi. Những gì cô hứa sẽ không thể nếu nó và Saphira làm như đã quyết định trong chuyến bay tới đây. Dù mọi điều Arya nói giúp xác nhận con đường họ đã chọn là đúng đắn, nó băn khoăn rằng Arya và Fírnen sẽ không thể theo được con đường họ đã chọn.”

Nó hơi cúi đầu, chấp nhận Arya có quyền và đã quyết định trở thành nữ hoàng. “Tôi biết nàng sẽ không từ chối trách nhiệm,” nó nói. “Chưa bao giờ nàng làm vậy cả.” Nó không muốn làm cho câu nói có vẻ thẳng thừng; đó đơn thuần là sự thực, vì thế nó tỏ ra tôn trọng cô. “và tôi hiểu tại sao nàng không liên lạc trong thời gian dài như vậy. Tôi cũng sẽ làm như thế nếu ở vị trí của nàng.”

Cô lại mỉm cười. “Cảm ơn.”

Nó ra hiệu vào thanh gươm của cô. “Tôi cho là Rhunön đã sửathanh Támerlein cho vừa với nàng phải không?”

“Đúng vậy, và bà ấy cũng càu nhàu suốt. Bà cứ nói mãi thanh gươm đã hoàn hảo như thế nào, như tôi thấy rất thoải mái với những sửa đổi của bà: thanh gươm cân bằng hơn trên tay tôi, nó không nặng hơn một cành cây là mấy.”

Khi họ đứng nhìn lũ rồng, Eragon chố nghĩ cách nói cho Arya về kế hoạch của họ. Trước khi nó kịp nói gì, cô đã nói, “Cậu và Saphira có khỏe không?”

“Chúng tôi vẫn khỏe.”

“Có gì đáng chú ý từ khi cậu viết thư không?”

Eragon nghĩ một phút, rồi nói ngắn gọn về những vụ ám sát Nasuada, cuộc nổi loạn ở phương Bắc và phương Nam, con gái Roran và Katrina ra đời, Roran được phong tước, danh sách báu vật họ thu hồi trong tòa thành. Cuối cùng, nó kể về chuyến trở lại Carvahall và cuộc viếng thăm nơi yên nghỉ của Brom.

Nghi nó nói, Saphira và Fírnen bắt đầu lượn vòng quanh nhau, đầu đuôi vẫy vẫy càng nhanh. Chúng đều hơi há miệng nhe hàng răng trắng dài, thở phì phò, phát ra những tiếng gầm gừ trầm thấp mà Eragon chưa bao giờ nghe thấy. Có vẻ như chúng sắp sửa tấn công nhau tới nới, khiến nó lo lắng, nhưng cảm giác của Saphira phải không giận dữ lẫn sợ hãi. Đó là …

Em muốn kiểm tra hắn, Saphira nói. Cô nàng vẫy đuôi đập lên mặt đất, khiến Fírnen khựng lại.

Kiểm tra nó? Thế nào? Để làm gì?

Để xem hắn có xương cứng rắn như sát và lửa trong bụng để hợp với em không.

Em có chắc không? Nó hỏi lại, hiểu ý của cô nàng.

Cô nàng đập đuôi lần nữa, rồi nó thấy sự chắc chắn lẫn ham muốn ghê gớm của cô nàng. Em biết mọi thứ về hắn – mọi thứ trừ chuyện này. Ngoài ra – cô nàng nháy mắt thích thú – rồng cũng không kết đôi suốt đời đâu.

Tốt lắm … nhưng cẩn thận nhé.

Nó vừa nói xong thì Saphira chồm lên cắn Fírnen bên sườn trái nhỉ máu, khiến Fírnen gầm lên bật ngược lại. Con rồng đỏ gầm gừ, có vẻ không tự tin, Saphira càng áp sát thì nó càng lui.

Saphira! Eragon bực mình, quay sang Arya định xin lỗi.

Arya có vẻ không bất ngờ lắm. Cô nàng nói với Fírnen, Eragon cũng nghe thấy, Nếu em muốn con bé tôn trọng, thì em phải cắn trả mới được.

Cô nhướng mắt nhìn Eragon, nó cười cười nhăn nhở tỏ vẻ hiểu.

Fírnen nhìn Arya

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện