Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng
Chương 108
Sương mù gần tan Tố Xuyên hành.
Từ căn nhà trúc đi bộ về hướng Đông chưa tới trăm bước, ba người đi vào một tiểu lâu hai tầng tường trắng mái ngói; so với mấy nhà tranh trúc chung quanh, hiển nhiên tòa tiểu lâu này tinh xảo hơn nhiều.
Thái Chiêu không kìm được: “Vẫn chưa gặp Thạch Nhị hiệp bao giờ, không biết lát nữa có thể ra mắt chào hỏi một chút không ạ.”
“Không được.” Thạch Thiết Tiều bác bỏ ngay.
Thái Chiêu lo lắng: “Chả lẽ năm ấy vết thương Thạch Nhị hiệp quá nặng, đã, đã…”
Trong mắt to của tiểu cô nương đầy lo lắng thương tiếc, như sương mù nổi lên trên bầu trời sáng ngời.
Thạch Thiết Tiều chợt thảng thốt, thầm nghĩ đôi mắt này thật giống Thái Bình Thù, chính là bằng một đôi mắt từ đầu đến cuối vẫn luôn ôm ấp hi vọng, gió tanh mưa máu giang hồ năm ấy mới không còn tối tăm không thấy ánh mặt trời.
Ông cười rộ, “Yên tâm, cậu ấy không sao. Bảy tám năm trước sau khi khỏi bệnh hẳn đã ra biển tìm nhân tình của cậu ấy rồi. Hai ba năm trước có gửi thư, bảo đã có con luôn rồi, cứ năn nỉ ta cho về thăm một chút, nhưng ta không cho phép.”
Mắt Thái Chiêu sáng rỡ: “Chuyện này con có biết. Có phải là một nữ đầu lĩnh hải tặc rất lợi hại lại rất đẹp đúng không ạ?”
Thạch Thiết Tiều cười nói: “Là cô ta đấy. Nhị đệ ta là thằng khỉ con tính tình ngang ngược, ta vốn biết nó không ở nổi chỗ này, do đó lúc đến cũng như lúc ra ngoài, đều không cho nó biết lối ra vào.”
Lại thở dài, “Cô của con nói rất đúng, chỉ cần biết hai bên đều mạnh khỏe, mỗi người một nơi thì có làm sao.”
Vào tiểu lầu, một mùi thuốc nồng nặc đắng chát đập vào mặt, cô con dâu trưởng nhà họ Thạch đang bận rộn trong im ắng.
Thái Chiêu nhìn áo liệm mới tinh để một bên, hiểu câu ‘bảo vợ con chuẩn bị’ của Thạch Thiết là ý gì — họ đang chuẩn bị hậu sự cho người sắp chết.
Lên lầu trên, Thạch Thiết Tiều giành đi trước mấy bước, cẩn thận đỡ người trên giường ngồi dậy, rồi ra hiệu cho hai người Mộ Thái ngồi vào giường đối diện.
Người bệnh tóc hoa râm, mặt đầy nếp nhăn sầu khổ, con mắt có lẽ từng rất hoạt bát khi còn trẻ đã vì hoảng sợ lâu dài mà đã u ám không còn tia sáng.
Ông tỉ mỉ ngắm Thái Chiêu, mặt lộ vẻ mừng rỡ: “Đây là Chiêu Chiêu nhỉ, thật giống mẹ con. Dạo này mẹ con khỏe không, có ba ngày hai bận ra ngoài chơi nữa không? Lúc biết cô ấy lấy Tiểu Xuân ca, ta thật sự bị hù hú hồn…”
Mộ Thanh Yến chợt ngẩng lên.
Thái Chiêu vừa sợ vừa cười, cho tới nay phần lớn cố nhân gặp mình đều trông khuôn mặt mình mà nhìn ra Thái Bình Thù, người trước mắt là người đầu tiên nhắc đến Ninh Tiểu Phong. Cô cười nói: “Mẹ con rất khỏe, nhưng ít ra ngoài đùa bỡn rồi ạ. Ban đầu bà bận hầu cô con dưỡng thương, rồi phải xử lý hậu sự của ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu hở tí lại tìm bà, còn thằng nhóc em con nữa… cả đống chuyện phải chờ xử lý ạ.”
Người bị bệnh thở dài: “Tiểu Phong cũng đã trưởng thành, tất cả đã trưởng thành. Trước đây ta từng nói sẽ dẫn song thân dạo chơi danh lam thắng cảnh thiên hạ, ta không làm được, nói phải cõng Tiểu Phong muội muội xuất giá, ta cũng nuốt lời. Hầy, ta thật là đồ bỏ đi!”
Ông quay sang nhìn hai người Mộ Thái, “Hai đứa biết ta là ai chứ?”
Mặt Thái Chiêu mù tịt.
Mộ Thanh Yến nói: “Hẳn tiền bối là Thất đệ tử Doãn Lão Tông chủ Quách Tử Quy.”
Thạch Thiết Tiều giật mình: “Sao cậu lại đoán được.”
Mộ Thanh Yến nói: “Vừa rồi nghe Quách tiền bối gọi ‘Tiểu Xuân ca’ và ‘Tiểu Phong muội muội’ — năm ấy trong số những đệ tử Bắc Thần có danh tiếng, nhỏ tuổi hơn Thái Cốc chủ lại lớn hơn Ninh phu nhân chút ít, chỉ có Quách tiền bối.”
Thật ra tuổi còn nhỏ bấy giờ còn có Lý Nguyên Mẫn mới vừa vào Thái Sơ Quán, nhưng khi ấy ông vẫn còn là thằng bé rách rưới, cơ bản không có cơ hội tham dự phân tranh gì.
Mộ Thanh Yến lại nói, “Năm ấy Doãn Lão Tông chủ kiêng kị thế lực của Thái nữ hiệp, đệ tử dưới trướng rất hiếm khi lui tới với những người bên cạnh bà. Chỉ có Quách tiền bối, vì gốc gác sâu xa trong nhà mà từ nhỏ đã quen biết Ninh phu nhân.”
Người bị bệnh thở dài: “Cậu nói không sai, ta chính là Quách Tử Quy.”
Thái Chiêu há hốc, cô nhìn người bị bệnh nguy kịch trước mắt, đầy đau lòng.
Trong hồi ức của Ninh Tiểu Phong, Quách Tử Quy đã mất tích vốn dĩ là một thiếu niên lang kim phấn lỗi lạc dựa cầu dưới ánh tà dương, cả ngày không làm việc chính đáng hi hi ha ha sung sướng.
“Ta là người Giang Đông, nhà đằng ngoại của Tiểu Phong muội muội cũng ở Giang Đông, chỉ cách nhà ta có con hẻm.” Quách Tử Quy hơi ngẩn ra, “Lúc bé mỗi lần hai chúng ta đụng mặt, hẳn đều là gà chó không yên, người người đau đầu…”
Thạch Thiết Tiều chợt hừ lạnh, “Từ đầu cậu hẳn đã vào dưới trướng Bội Quỳnh sơn trang, nếu không phải Doãn Đại lão nhi cản trở từ bên trong, cậu nào bị rơi kết cục như này!”
Quách Tử Quy thì thào: “Mẹ không nỡ để ta rời nhà quá xa, thế là cha đã nói chuyện xong xuôi với Chu Lão Trang chủ, bảo sau này ta cứ lên Bội Quỳnh sơn trang sống qua ngày, nào ngờ… nào ngờ năm ta mười tuổi, sư phụ bỗng giá lâm Giang Đông, thu ta làm đệ tử quan môn.”
Mặt Thạch Thiết Tiều toát vẻ khinh thường, “Nhà họ Quách ở Giang Đông trong võ lâm dù không phải rất có tiếng tăm nhưng lại là nhà giàu nhất nhì thiên hạ, đứng tên cửa hàng phường xưởng quặng mỏ vô số, Doãn Đại Lão nhi một là thèm tiền, hai là muốn vươn móng vuốt xuống Giang Nam thôi!”
“Thạch đại ca, đừng nói vậy.” Quách Tử Quy yếu ớt nói.
Chuyện này Thái Chiêu chưa từng nghe nói, đoán có lẽ là chuyện Ninh Tử Phong đau lòng, nên chưa bao giờ nhắc tới.
Mộ Thanh Yến từng lật sách xem lại chi tiết từng chuyện cũ đọc qua đoạn này, hết sức rõ ràng tình cảnh năm đó.
“Doãn Đại Lão nhi rất thủ đoạn.” Hắn không chút khách khí châm chọc nói, “Lão xếp đặt bữa yến tiệc, ngay trước mặt bô lão và võ lâm Giang Đông, miệng đầy tán dương song thân Quách tiền bối trợ giúp Thanh Khuyết Tông nhiều năm, ngôn từ không ngừng cảm kích, cuối cùng đưa ra ý nhận Quách tiền bối làm đệ tử quan môn, để kết mối lương duyên.”
Mặt Thạch Thiết còn tức giận: “Cộng thêm có người bên cạnh đánh trống reo hò ồn ào trợ giúp, Quách gia khó mà từ chối, thảng như không chịu đồng ý thì giống như sẽ ra ân để cầu báo đáp vậy. Chu Lão Trang chủ cũng đâu tiện lên tiếng, nếu không sẽ làm mất thể diện của Doãn Đại Lão nhi.”
“Doãn Lão Tông chủ làm việc bá đạo vậy luôn!” Thái Chiêu rất kinh ngạc.
Lúc cô đã lớn, Thanh Khuyết Tông dưới sự dẫn dắt Phật hệ nhiều năm của Thích Vân Kha nhiều năm đã rất nhẹ nhàng, rất khó tưởng tượng cường thế của Thanh Khuyết Tông năm đó.
Mộ Thanh Yến cười khẽ: “Cho nên nàng có thể tưởng tượng sau này khi cô của nàng đường hoàng xuất thế có một không hai trên võ lâm, Doãn Đại lão nhi tức giận biết là bao rồi.”
“Đâu chỉ giận, là vừa sợ vừa hận, nhưng không thể làm gì.” Thạch Thiết Tiều cười hả giận.
Đám người cười cười nói nói, trên mặt Quách Tử Quy cũng nổi chút huyết sắc, mắt có thần.
Thái Chiêu vội nói: “Sau khi tiền bối mất tích, người người đều bảo tiền bối bị ngộ hại, giờ biết tiền bối vẫn còn trên đời không biết biết bao người vui mừng.”
Quách Tử Quy lắc đầu: “Ta không phải mất tích, ta là chạy thoát thân. Nếu không trốn, sư phụ sẽ định thanh lý môn hộ.”
Thái Chiêu chấn kinh, thầm suy đoán không biết ông phạm Môn quy nào mà nghiêm trọng vậy.
Quách Tử Quy không muốn nhắc tới, đổi chủ đề: “Chiêu Chiêu, kể ít chuyện Tông môn ta nghe với. Ta biết Bát sư đệ… Hầy, thật ra sư phụ cháu lớn hơn ta mấy tuổi đâu. Hiện giờ Bát sư đệ đã làm Tông chủ, những sư huynh khác thì sao?”
“Trừ đầu bếp không giỏi thì mọi thứ trong Tông môn đều ổn cả ạ.” Thái Chiêu nhìn ông đã đến lúc nỏ mạnh hết đà, tìm lời dễ nghe kể, “Tính nết sư phụ con ngài cũng đã biết, chẳng những khoan hồng với luật lệ, còn rộng rãi với người. Đệ tử Thanh Khuyết Tông hiện giờ á, thích nhất là tụ tập một chỗ kháo nhau tào lao xem náo nhiệt, hạt dưa cắn mỗi ngày quét ra cả giỏ lớn vỏ hạt đó ạ. May mà còn có sư bá Lý Văn Huấn, mới không lỏng lẻo Môn quy.”
Quách Tử Quy khá cuốn hút, “Ồ, vậy không giống nhỉ. Lúc ta gia nhập Thanh Khuyết Tông, sư phụ quản giáo chúng ta rất nghiêm khắc…” Giọng ông chợt đổi, mang vẻ bi thương, “Hẳn là sáu sư huynh trước ta đều không còn, phải không?”
Thái Chiêu nhớ tới Khâu Nhân Kiệt tự vận bi thảm, sau một lúc lâu mới nói: “… Lôi Sư bá vẫn còn ạ, mỗi ngày vẫn lải nhải chất lượng đan dược trong nhà thuốc ạ.”
Quách Tử Quy cười: “Lục sư huynh thích cái đẹp, ăn mặc hợp thời hẳn phải thích chỗ đông người. Sao lại chịu cảnh ngày ngày sống trong nhà thuốc chứ, hay là bị thương trong người không muốn gặp ai?”
Thái Chiêu đành nói dối, “Chỉ là trên mặt có thêm mấy vết sẹo, con thì thấy chẳng có gì,trông còn càng khí khái hào hùng, nhưng ông ấy làm sao cũng không chịu ra gặp người.”
Quách Tử Quy lắc đầu: “Nếu chỉ là mấy vết sẹo, Lục sư huynh đã tự chữa lành rồi, nhất định còn vết thương nào khác.”
Ông biết y thuật và tính tình Lôi Tú Minh, mơ hồ đoán ra e là tay chân ngũ quan ông ấy bị tổn thương khó chữa, “Nhưng còn sống là tốt rồi, còn có thể phối thuốc luyện đan, còn có thể lải nhải, cho thấy ít ra huynh ấy còn đi lại tự nhiên… Hầy, vậy đã quá tốt.”
Thái Chiêu im lặng.
Mặt Quách Tử Quy chợt quặn đau, khuôn mặt trắng bệch trương lên thành màu xanh tím, cơ thể gầy như que củi run rẩy co rúm, Thạch Thiết Tiều ra tay như gió, thuần thục điểm mấy đại huyệt ông.
Con ngươi Quách Tử Quy rã rời, miệng nói mớ lung tung — “Cha, sao cha không đến thăm con! Mau dẫn con về nhà, con không muốn ở đây, con không muốn luyện công, con không luyện, đau, đau, đau quá! Mẹ, mẹ mẹ đừng khóc, con ổn lắm, ở Tông môn cái gì cũng có, mấy sư huynh đều rất chiếu cố con, con không có chịu khổ, thật sự không chịu khổ…”
Đứa bé sợ hãi dần chuyển thành một người lớn bé bé trấn an, Thái Chiêu nghe đầy chua xót.
Quách Tử Quy há mồm thở dốc, càng nói nhăng cuội, tựa như song thân đang ở trước mặt, còn ông là người xa quê mới về tốt khoe xấu che. Ông đứt quãng nói — “Đại sư huynh Nhị sư huynh tính tình rất tốt, thường trộm đưa con… lên trấn cho đỡ thèm, sợ đêm con khóc, còn… thắp đèn. Tứ Ngũ sư huynh không thích nói đạo lý nhưng cũng chưa từng khi dễ con. Tam sư huynh là con rể tương lai của sư phụ, dù thích dạy dỗ người khác nhưng chỉ cần, chỉ cần con phục tùng cung kính, huynh ấy cũng tình nguyện chỉ điểm con… con thân với Lục sư huynh nhất, lần sau nếu mẹ thấy loại sa tanh lấp lánh, nhớ để một ít cho Lục sư huynh, đừng quên…”
Thạch Thiết Tiều nhào nặn huyệt đạo trên người ông một trận, cuối cùng nhấn mạnh một cái lên huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, không ngừng truyền nội lực hùng hậu liên tục, Quách Tử Quy đột nhiên tỉnh táo lại một nửa.
Thái Chiêu thầm hoảng — biết Thạch Thiết Tiều đang uống rượu độc giải khát, để giữ người bệnh tỉnh táo trong thời gian ngắn mà tiêu hao tinh khí của mình.
Quách Tử Quy mở to hai mắt, nhìn Thái Chiêu trừng trừng, trên mặt ửng đỏ không bình thường, “Chiêu, Chiêu Chiêu, con thay ta cầm vài thứ ra ngoài, được không, được không!”
Thái Chiêu đáp được liên tục.
Quách Tử Quy chỉ một thanh trường kiếm khá quen mắt treo trên giường — Thái Chiêu đã từng thấy một thanh kiếm kiểu chuôi vỏ tương tự trên tường nhà Lôi Tú Minh, “Đây là thanh bảo kiếm lúc ta nhập môn, sư phụ ban cho ta. Nhờ con, giúp ta trả lại!”
Thái Chiêu khẽ giật mình — từ lúc gặp mặt đến giờ, Quách Tử Quy vẫn ăn nói dịu dàng nhỏ nhẹ, chỉ mấy chữ cuối cùng này, chém đinh chặt sắt, kiên định lạ thường.
Quách Tử Quy từng chữ từng câu nói: “Ta làm hỏng uy phong của Tông môn, không xứng là đệ tử của sư phụ. Xin giúp ta trả lại thanh kiếm, xem như là ta xuất sư môn, kể từ đây không còn là đệ tử Tông môn nữa!”
Thái Chiêu có vẻ hiểu rõ, gật đầu đáp lại.
Quách Tử Quy lại chỉ vào chiếc hộp nhỏ trên cái bàn đối diện, “Thứ kia là dành cho mẹ con, họ Quách ở Giang Đông…”
Sắc mặt ông đau đớn, “Nhà họ Quách đã không còn, ta chỉ có thứ này, xem như đồ cưới tặng mừng mẹ con, không uổng công từ nhỏ cô ấy theo ta gọi chó chọc mèo, gây rối khắp chốn.”
Thái Chiêu nén nước mắt, nghiêm túc gật đầu.
Giao phó xong hai chuyện, bằng mắt trần có thể thấy Quách Tử Quy đã rệu rã, như toàn bộ sinh khí đã được trút hết.
“Còn có một chuyện cuối cùng… Xin đưa tro cốt của ta, về Giang Đông rải… rải bên cạnh mộ song thân ta.”
Thái Chiêu kinh hãi: “Cớ gì Quách tiền bối lại nói vậy, nội thương có nặng hơn nữa cũng chỉ cần nghỉ ngơi thật tốt là khá hơn thôi.”
Quách Tử Quy yếu đuối mỉm cười: “Ta đã kéo dài hơi tàn nhiều năm, sống, sống không bằng chết, Chiêu Chiêu không cần khuyên nữa.” Ông quay lại, mắt đầy cầu khẩn: “Thạch đại ca, tâm nguyện đệ đã hoàn tất, để đệ đi đi… để cho đệ đi thôi!”
Mắt Thạch Thiết Tiều lộ vẻ đau thương, dừng chuyển nội lực, chậm rãi dời bàn tay khỏi huyệt Bách Hội của ông ấy.
Quách Tử Quy lập tức như tấm đệm da cừu bị xì hơi, không còn sinh khí mềm nhũn tê liệt ngã xuống, tiếng nói mớ nhỏ đến mức không nghe được, “Cha mẹ, là con bất hiếu, là con hại chết người…”
—
Sau một thoáng tỉ tê khóc yếu ớt, Quách Tử Quy không còn hơi thở.
Thái Chiêu không nhịn nổi nữa, lệ nóng tràn mi.
Mộ Thanh Yến khẽ thở dài, đứng dậy giúp Thạch Thiết Tiều dùng nội lực lặp đi lặp lại khuấy động đan điền và kinh mạch Quách Tử Quy.
Xác định ông đã thật sự không còn sự sống, Thạch Thiết Tiều mới gọi cô dâu cả tới, từng bước xử lý hậu sự.
Người trong võ lâm cũng không chú trọng lễ nghi phiền phức, lúc Thái Bình Thù qua đời, cũng chỉ đặt linh cữu ba ngày thì hạ táng, là để chiều theo những người vội chạy đến chịu tang. Không phải theo ý của chính Thái Bình Thù, người chết như đèn diệt, hạ táng sớm đầu thai sớm, chớ làm chi mấy việc phí công.
Dưới sắp xếp của cô dâu trưởng họ Thạch, một đám nô bộc đâu vào đấy lau rửa di thể Quách Tử Quy sạch sẽ, chải đầu, thay y phục, liệm dung, nhét gạo trắng trong miệng, cuối cùng đặt lên cáng bằng sắt chất đầy hoa thơm làm quả, đưa vào hỏa táng trong lò gạch.
Nhìn khói xanh chầm chậm bốc lên trên đầu lò gạch, Thạch Thiết Tiều không khỏi lệ tuôn đầy mặt, nghẹn ngào không thốt nên lời, “Thằng bé thật đáng thương, năm nay còn chưa tới bốn mươi, chưa lấy vợ sinh con, đến một nhân tình cũng còn chưa từng có!”
Thái Chiêu cũng rất khó chịu, nhưng để phân tán sự chú ý của ông, bèn tìm chủ đề vực dậy tinh thần: “Thạch tiền bối, đến cùng Quách sư bá đã phạm Môn quy gì mà Doãn Lão Tông chủ cứ phải lấy tính mệnh ông ấy mới được thế ạ.”
Thạch Thiết Tiều cả giận, “Phạm môn quy gì chứ! Chỉ là sau khi bị Ma giáo bắt, chịu cực hình tra tấn không nổi mới đầu hàng. Vừa rồi tình nhân của con cũng thử thăm dò cơ thể của Tử Quy huynh đệ, con hỏi nó xem, sao Tử Quy huynh đệ đau ốm mười mấy năm vẫn không cách nào khỏi hẳn!”
Mộ Thanh Yến cực kỳ tán thưởng với hai chữ ‘tình nhân kia’, bèn hòa nhã đáp ngay, “Kinh mạch cả người Quách tiền bối bị người dùng công phu ra tay nặng chặt đứt đoạn, hình như đan điền bị người dùng chân khí mài mòn nhiều lần, hư hại không chịu đựng nổi.”
Thạch Thiết Tiều đau lòng căm hận: “Tử Quy từ bé đã nhát gan sợ đau, nào có cái tính xông pha trận địa. Vì sĩ diện mà Doãn Đại Lão nhi cứ một hai vì ‘báo thù cho Thái Sơ Quán Thất Tinh đệ tử ra hết’ gì đó, phái Tử Quy ra ngoài!”
Mộ Thanh Yến nhướng mày: “‘Báo thù cho Thái Sơ Quán’ là sao ạ?”
Thái Chiêu cũng nghi ngờ hỏi: “Sao Quách sư bá lại bị bắt sống ạ?”
Thạch Thiết Tiều thu nước mắt, dựa ngồi vào trên ụ đá, tức tối nói: “Thái Sơ Quán không biết lượng sức, nhảy ra gây hấn Ma giáo. Đầu tiên là Thương Long Tử sư đệ Chưởng môn chết thảm, sau đó là Vũ Nguyên Anh Đại đệ tử đích truyền bị đánh trên núi Đỉnh Lô, rồi Chưởng môn Thương Hoàn Tử cũng cùng Dao Quang Trưởng lão Ma giáo đồng quy vu tận. Sau đó không lâu, đến Thương Khung Tử còn lại cũng bị bộ hạ Dao Quang Trưởng lão ám toán, đánh gãy hai chân.”
“Chuyện đó con biết!” Thái Chiêu vội giơ tay nhỏ, “Mẹ con từng kể, thật ra không phải Thái Sơ Quán không biết lượng sức — không phải cô con trước đó đã phá được Ngũ Độc chưởng của Trần Thự cứu về không ít đệ tử Thái Sơ Quán trong đám sao. Doãn Đại tự thấy thật mất mặt, quay lưng châm ngòi Thái Sơ Quán…”
Thạch Thiết Tiều im lặng: “Cái cô Tiểu Phong khờ ngốc này, chuyện nên nói không nói, không nên nói lại nói mò! Thật ra không hoàn toàn là Doãn Đại châm ngòi, năm đó trong cuộc tỉ thí sáu phái cô cô của con đã đánh cho Thái Sơ Quán mất hết thể diện, người ta đã tức giận sẵn.”
Mộ Thanh Yến khinh bỉ bĩu môi: “Sau đó thì sao? Doãn Đại dẫn người đi báo thù ư?”
“Đúng vậy!” Thạch Thiết Tiều tức giận, “Thái Sơ Quán liên tiếp xảy ra chuyện, lão già Doãn Đại không thể nhịn nữa, mới hạ lệnh xuất hết tinh nhuệ sái phái, đánh lên U Minh Hoàng Đạo xả giận!”
“Vì giận dữ mà hưng binh, thật không tốt rồi.” Thái Chiêu nói.
Thạch Thiết Tiều lớn tiếng nói: “Ai nói không phải chứ, lúc ấy cô cô con đã kịch liệt phản đối, nói lúc này đánh lên U Minh hoàng đạo, chắc chắn Nhiếp Hằng Thành sẽ có chuẩn bị — nhưng Doãn Đại nào có nghe cô ấy!”
“Sau đó để làm gương, Doãn Đại đã phải hết bảy người đệ tử dưới trướng mình đi?” Thái Chiêu bĩu môi.
Thạch Thiết Tiều hầm hừ: “Không sai.”
“Thì ra là như vậy.” Mộ Thanh Yến dùng nhánh cây cào cào bụi đất bên chân, lúc ngẩng lên, hắn nhận thấy ánh mắt Thái Chiêu, thế là thuận miệng tìm đề tài, “Không biết năm đó tiến đánh U Minh hoàng đạo có những ai ạ?”
“Thế hệ trẻ tuổi hầu như đi cả.” Thạch Thiết Tiều suy nghĩ, “Trình Hạo tiền bối và Vương Định Xuyên tiền bối trong Thanh Khuyết Tam lão trước đó đã chết trong chiến dịch bắt sống Khai Dương Trưởng lão, nên người Thanh Khuyết Tông đi nhiều nhất; Bội Quỳnh sơn trang và Quảng Thiên Môn cũng đi không ít, bởi Lão Chưởng môn hai phái đều bị Nhiếp Hằng Thành làm bị thương nặng…”
Thái Chiêu xen vào: “Phải chăng là vì thăm dò Ma công Nhiếp Hằng Thành mà bị thương?”
Thạch Thiết Tiều đáp vâng, lại nói: “Dĩ nhiên Lạc Anh Cốc là cô cô con dẫn đầu, còn có đám huynh đệ chúng ta; Dương Nghi lão nhi Tứ Kỳ Môn cũng diễn nửa ngày rồi cũng phái con trai đi; Thái Sơ Quán do Vương Nguyên Kính dẫn đầu, hầy, tất cả vì thương hại bọn hắn đã tử thương nặng nề, cố ý thu xếp cho họ áp trận ở phía sau.”
Ông trầm tư suy nghĩ, “Người ở lại cũng chẳng có mấy ai nhỉ.., Ừm, Vân Kha huynh đệ và Tiểu Xuân vừa bị thương không thể đi, Nhị đệ của ta đuổi theo nhân tình của nó chưa về, Cầu Nguyên Phong bị thương sau trận chiến núi Đỉnh Lô, cũng không đi, còn lại… Ta nhớ không rõ…”
Khói trên lò gạch chuyển thành màu đen đặc, Thái Chiêu biết là đã đốt tới di cốt Quách Tử Quy, cô sợ Thạch Thiết Tiều nhìn thấy đau lòng, lại hỏi, “Xông hết cả vào hang ổ người, Nhiếp Hằng Thành chắc chắn ra hết sát chiêu, chúng ta tử thương vô số ạ?”
“Thật ra không phải quá tổn hại, vì lúc ấy Nhiếp Hằng Thành đang bế quan.” Thạch Thiết Tiều cười lên, “Sau khi đánh vào U Minh hoàng đạo, bọn ta chia ra… ầy, ta cũng không biết là mấy đường, mấy huynh đệ chúng ta đi theo Bình Thù muội tử xông vào trước nhất, không đầu không đuôi đánh giết một trận, rồi lành lặn quay về.”
“Tử Quy thì không may mắn như vậy.” Ông thở dài, “Phải nói Đại sư huynh Phùng Viễn Đồ cũng rất chiếu cố cậu ấy, xếp cậu ấy đi theo người Thái Sơ Quán ở phía sau, xem tình hình không tốt thì có thể chạy. Ai ngờ bọn họ đánh một hồi bị lạc đường, vào một khe núi đen thẳm. Ở chỗ đó nhũ đá mọc như rừng che cả trời, khắp nơi đều là sơn động vách đá, mê cung, trên mặt đất còn có từng phiến đá điêu khắc sư tử báo giương nanh múa vuốt, như lệ quỷ ở địa ngục. Tử Quy vừa kinh vừa sợ, cứ thế tách khỏi đám Thái Sơ Quán. Phùng Viễn Đồ cũng chết trong trận đó, huynh ấy là một hán tử trung hậu, đáng tiếc.”
“Ôi, sau này ngẫm lại, chi bằng Tử Quỳ cứ đi theo bọn ta. Mặc dù bọn ta xông vào trước tiên, thế nhưng khi cây Diễm Dương đao của Bình Thù muội tử sáng lên, đương gió cũng đứng, uy thế hiển hách thật sự thần quỷ đều lui! Trừ phi Nhiếp Hằng Thành tự mình ra mặt, chứ trên dưới Ma giáo không ai là địch thủ của cô ấy! Bọn ta đi theo chỉ cần trùng sát là được, sảng khoái, thật mẹ nó sảng khoái!”
Nhắc đến chuyện xưa nhiệt huyết, Thạch Thiết Tiều ngẩng đầu ưỡn ngực, ánh mắt đầy lấp lánh, “Sau này Lộ Thành Nam kể, hắn cố ý sắp xếp cho Triệu Thiên Phách và Hàn Nhất Túc tránh đường của bọn ta, sợ sư huynh nhà hắn nạp mạng, ha ha, ha ha ha ha!”
Kết quả vừa ngẩng lên, Thạch Thiết Tiều nhìn thấy khói đen đậm đặc trên lò gạch, cảm xúc lại quay đầu rơi thẳng.
Ông khóc không ra tiếng: “Hai ông bà nhà họ Quách rất tốt, lúc thiếu thời huynh đệ chúng ta bị kẻ thù truy sát, chạy trốn tới Giang Đông, là nhà họ Quách chứa chấp chúng ta. Tử Quy dù cà lơ phất phơ, nhưng từ nhỏ đã tâm địa thiện lương, biết huynh đệ chúng ta bị nội thương, chỉ tiếc là không mua được hết thảy gan hổ bán trên thị trường.”
“Tính cậu ấy mềm yếu, căn bản không thích hợp học võ, cũng không thích chém chém giết giết, vốn dĩ nên ở Bội Quỳnh sơn trang làm một đệ tử ghi danh, nhởn nhơ sống qua ngày. Không biết sao lại phải thành đệ tử quan môn của Tông chủ Tông đứng đầu thiên hạ, vạn chúng nhìn trừng trừng, không thể không đếm xỉa đến.”
“Lúc Bình Thù muội tử cứu Tử Quy ra, cậu ấy đã bị tra tấn không thành hình người — buông tay đầu hàng thì có gì sai, ký thư đầu hàng thì có gì sai, cậu ấy cũng đâu có hại ai! Trên đời này đâu phải ai ai cũng đều là đại anh hùng đại hào kiệt! Có lẽ Doãn Đại cũng biết Tử Quy không chết, cố ý thả tin, ‘Phàm là môn hạ Thanh Khuyết môn có nửa điểm hành vi mềm yếu đầu hàng địch, chắc chắn tội chết’!”
“Lão trông Tử Quy mau mau tự sát ở bên ngoài, đừng tổn hại thanh danh lão đó mà! Hại Tử Quy có nhà mà không thể về — Tử Quy, Tử Quy, trông mong con trai sớm quay về*, đáng thương cho Quách gia Nhị lão, không lâu sau vì đau lòng nhuốm bệnh qua đời.”
(*) chơi chữ Tử 子 = con trai, Quy 归 = về/quay về.
Thạch Thiết Tiều càng nghĩ càng thương tâm, chốc lát chửi đồ con rùa già Doãn Đại, chốc lát thương thay cho ba người nhà họ Quách.
Thái Chiêu nghe đầy chua xót, cũng khóc theo một trận.
Mộ Thanh Yến biết năm ấy chuyện Doãn Đại thu Quách Tử Quy làm đồ đệ cũng không đơn giản, mà là một trận cờ giữa nội bộ Bắc Thần —
Doãn Đại đúng thật thông minh tháo vát, tu vi lăng tuyệt Lục phái, lúc đó chỉ có cả nhà Thanh Khuyết Tông là lớn, Tống thị Quảng Thiên Môn là thân gia của lão, Chưởng môn Thương Hoàn Tử Thái Sơ Quán là bạn tốt chí giao của lão, Dương Nghi Tứ Kỳ Môn là phụ thuộc của lão, Bắc Thần Lục phái đã mơ hồ sinh ra thế cục sát nhập.
Hắn thậm chí còn vô tình hay cố ý dung túng thứ nữ tiếp cận Chu Trí Trăn con trai độc nhất nhà họ Chu, chỉ có điều mỗi lần yến tiệc nhắc tới mấy câu như ‘muốn tốt cho cô con gái nhỏ’, đều bị Chu Lão Trang chủ mập mờ cho qua.
Về sau cha mẹ của chị em Thái Bình Thù đều mất, Doãn Đại vốn định lấy thân phận Tông chủ Tông đứng đầu thu dưỡng bọn họ, ai ngờ Chu Lão Trang chủ bằng một tờ hôn thư Thái Lão cốc chủ trước khi lâm chung viết trước chúng, biến ước định bằng miệng trước đó thành sự thực, sau đó ra tay trước đưa tiểu thư đệ đi, làm tính toán của Doãn Đại rơi vào không khí.
Nhưng Doãn Đại há là người chịu từ bỏ ý đồ, không lâu sau bèn đích thân đi Giang Đông, gióng trống khua chiêng thu Quách Tử Quy làm đệ tử quan môn.
Chu Lão Trang chủ cũng không dám đối chọi gay gắt.
Mộ Thanh Yến bỗng có thể hiểu được tình cảm nhà họ Thái đối với nhà họ Chu, ngẫm lại nếu không phải Chu Lão Trang chủ nhanh một bước, với thiên phú và tính nết của Thái Bình Thù, lớn lên ở Thanh Khuyết tông sẽ không biết nhận sự đối đãi thế nào.
Đương nhiên, hắn tuyệt đối không chịu thừa nhận là vì cuộc hôn sự giữa Chu Ngọc kỳ và Thái Chiêu đã ngâm nước nóng, mà hắn cũng đã tha thứ cho nhà họ Chu.
Lửa lò gạch đốt trọn hai canh giờ, từ lúc trời tảng sáng cho đến giữa trưa.
Mở lò xong, Con trai trưởng nhà họ Thạch cho người mang cáng sắt ra ngoài, Thạch Thiết Tiều ngậm nước mắt tự mình thu tro cốt, cuối cùng cất vào một chiếc hộp gỗ tử đàn khảm ngọc, giao cho hai người Mộ Thái.
“Chiêu Chiêu, gửi lời chào cha mẹ giúp ta, rồi giúp ta thắp nén hương cho cô của con. Bảo cô ấy, bọn ta sống trong ẩn thôn rất tốt.” Mắt hổ Thạch Thiết Tiều ngận nước mắt, “Ta nhớ cô ấy, con cháu tự có phúc con cháu, chờ sau khi ta trăm năm, sẽ cho chúng lôi vàng và bí tịch ra, để chính chúng quyết định ở lại hay ra ngoài — đến chừng đó, ta xuống dưới tìm muội ấy và đám huynh đệ ôn chuyện.”
Thái Chiêu trịnh trọng thưa vâng.
Uống một chén rượu thuốc, Thái Chiêu Mộ Thanh Yến cùng mê man.
Khi tỉnh lại, phát hiện hai người đang ở trong tiệm thợ rèn trong thôn Đào Hoa, cửa phòng đóng chặt, trên bàn còn có cơm tối làm sẵn, bên cạnh là trường kiếm của Quách Tử Quy, quà cưới của Ninh Tiểu Phong, còn có hũ tro cốt trong bao quần áo.
Đẩy cửa ra, các thôn dân còn hỏi ‘Sao vợ chồng nhà họ Kiều nói đi là đi vậy, hai người là thân thích nhà họ à, giờ tiệm này sang cho ai rồi’ vân vân.
Hai người Mộ Thái đã hiểu, nghĩa là đôi vợ chồng trẻ nhà họ Thạch lại ẩn nấp lần nữa, không biết sau này họ mở tiệm rèn phương nao, hoặc là dựa vào tài bếp núc của cô dâu cả nhà họ Thạch, mở quán đậu rang hương thơm tỏa khắp nhỉ.chị Quan: Tiêu đề là chỗ nhắc nhở: Chương sau sẽ để lộ một bí ẩn lớn.
Từ căn nhà trúc đi bộ về hướng Đông chưa tới trăm bước, ba người đi vào một tiểu lâu hai tầng tường trắng mái ngói; so với mấy nhà tranh trúc chung quanh, hiển nhiên tòa tiểu lâu này tinh xảo hơn nhiều.
Thái Chiêu không kìm được: “Vẫn chưa gặp Thạch Nhị hiệp bao giờ, không biết lát nữa có thể ra mắt chào hỏi một chút không ạ.”
“Không được.” Thạch Thiết Tiều bác bỏ ngay.
Thái Chiêu lo lắng: “Chả lẽ năm ấy vết thương Thạch Nhị hiệp quá nặng, đã, đã…”
Trong mắt to của tiểu cô nương đầy lo lắng thương tiếc, như sương mù nổi lên trên bầu trời sáng ngời.
Thạch Thiết Tiều chợt thảng thốt, thầm nghĩ đôi mắt này thật giống Thái Bình Thù, chính là bằng một đôi mắt từ đầu đến cuối vẫn luôn ôm ấp hi vọng, gió tanh mưa máu giang hồ năm ấy mới không còn tối tăm không thấy ánh mặt trời.
Ông cười rộ, “Yên tâm, cậu ấy không sao. Bảy tám năm trước sau khi khỏi bệnh hẳn đã ra biển tìm nhân tình của cậu ấy rồi. Hai ba năm trước có gửi thư, bảo đã có con luôn rồi, cứ năn nỉ ta cho về thăm một chút, nhưng ta không cho phép.”
Mắt Thái Chiêu sáng rỡ: “Chuyện này con có biết. Có phải là một nữ đầu lĩnh hải tặc rất lợi hại lại rất đẹp đúng không ạ?”
Thạch Thiết Tiều cười nói: “Là cô ta đấy. Nhị đệ ta là thằng khỉ con tính tình ngang ngược, ta vốn biết nó không ở nổi chỗ này, do đó lúc đến cũng như lúc ra ngoài, đều không cho nó biết lối ra vào.”
Lại thở dài, “Cô của con nói rất đúng, chỉ cần biết hai bên đều mạnh khỏe, mỗi người một nơi thì có làm sao.”
Vào tiểu lầu, một mùi thuốc nồng nặc đắng chát đập vào mặt, cô con dâu trưởng nhà họ Thạch đang bận rộn trong im ắng.
Thái Chiêu nhìn áo liệm mới tinh để một bên, hiểu câu ‘bảo vợ con chuẩn bị’ của Thạch Thiết là ý gì — họ đang chuẩn bị hậu sự cho người sắp chết.
Lên lầu trên, Thạch Thiết Tiều giành đi trước mấy bước, cẩn thận đỡ người trên giường ngồi dậy, rồi ra hiệu cho hai người Mộ Thái ngồi vào giường đối diện.
Người bệnh tóc hoa râm, mặt đầy nếp nhăn sầu khổ, con mắt có lẽ từng rất hoạt bát khi còn trẻ đã vì hoảng sợ lâu dài mà đã u ám không còn tia sáng.
Ông tỉ mỉ ngắm Thái Chiêu, mặt lộ vẻ mừng rỡ: “Đây là Chiêu Chiêu nhỉ, thật giống mẹ con. Dạo này mẹ con khỏe không, có ba ngày hai bận ra ngoài chơi nữa không? Lúc biết cô ấy lấy Tiểu Xuân ca, ta thật sự bị hù hú hồn…”
Mộ Thanh Yến chợt ngẩng lên.
Thái Chiêu vừa sợ vừa cười, cho tới nay phần lớn cố nhân gặp mình đều trông khuôn mặt mình mà nhìn ra Thái Bình Thù, người trước mắt là người đầu tiên nhắc đến Ninh Tiểu Phong. Cô cười nói: “Mẹ con rất khỏe, nhưng ít ra ngoài đùa bỡn rồi ạ. Ban đầu bà bận hầu cô con dưỡng thương, rồi phải xử lý hậu sự của ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu hở tí lại tìm bà, còn thằng nhóc em con nữa… cả đống chuyện phải chờ xử lý ạ.”
Người bị bệnh thở dài: “Tiểu Phong cũng đã trưởng thành, tất cả đã trưởng thành. Trước đây ta từng nói sẽ dẫn song thân dạo chơi danh lam thắng cảnh thiên hạ, ta không làm được, nói phải cõng Tiểu Phong muội muội xuất giá, ta cũng nuốt lời. Hầy, ta thật là đồ bỏ đi!”
Ông quay sang nhìn hai người Mộ Thái, “Hai đứa biết ta là ai chứ?”
Mặt Thái Chiêu mù tịt.
Mộ Thanh Yến nói: “Hẳn tiền bối là Thất đệ tử Doãn Lão Tông chủ Quách Tử Quy.”
Thạch Thiết Tiều giật mình: “Sao cậu lại đoán được.”
Mộ Thanh Yến nói: “Vừa rồi nghe Quách tiền bối gọi ‘Tiểu Xuân ca’ và ‘Tiểu Phong muội muội’ — năm ấy trong số những đệ tử Bắc Thần có danh tiếng, nhỏ tuổi hơn Thái Cốc chủ lại lớn hơn Ninh phu nhân chút ít, chỉ có Quách tiền bối.”
Thật ra tuổi còn nhỏ bấy giờ còn có Lý Nguyên Mẫn mới vừa vào Thái Sơ Quán, nhưng khi ấy ông vẫn còn là thằng bé rách rưới, cơ bản không có cơ hội tham dự phân tranh gì.
Mộ Thanh Yến lại nói, “Năm ấy Doãn Lão Tông chủ kiêng kị thế lực của Thái nữ hiệp, đệ tử dưới trướng rất hiếm khi lui tới với những người bên cạnh bà. Chỉ có Quách tiền bối, vì gốc gác sâu xa trong nhà mà từ nhỏ đã quen biết Ninh phu nhân.”
Người bị bệnh thở dài: “Cậu nói không sai, ta chính là Quách Tử Quy.”
Thái Chiêu há hốc, cô nhìn người bị bệnh nguy kịch trước mắt, đầy đau lòng.
Trong hồi ức của Ninh Tiểu Phong, Quách Tử Quy đã mất tích vốn dĩ là một thiếu niên lang kim phấn lỗi lạc dựa cầu dưới ánh tà dương, cả ngày không làm việc chính đáng hi hi ha ha sung sướng.
“Ta là người Giang Đông, nhà đằng ngoại của Tiểu Phong muội muội cũng ở Giang Đông, chỉ cách nhà ta có con hẻm.” Quách Tử Quy hơi ngẩn ra, “Lúc bé mỗi lần hai chúng ta đụng mặt, hẳn đều là gà chó không yên, người người đau đầu…”
Thạch Thiết Tiều chợt hừ lạnh, “Từ đầu cậu hẳn đã vào dưới trướng Bội Quỳnh sơn trang, nếu không phải Doãn Đại lão nhi cản trở từ bên trong, cậu nào bị rơi kết cục như này!”
Quách Tử Quy thì thào: “Mẹ không nỡ để ta rời nhà quá xa, thế là cha đã nói chuyện xong xuôi với Chu Lão Trang chủ, bảo sau này ta cứ lên Bội Quỳnh sơn trang sống qua ngày, nào ngờ… nào ngờ năm ta mười tuổi, sư phụ bỗng giá lâm Giang Đông, thu ta làm đệ tử quan môn.”
Mặt Thạch Thiết Tiều toát vẻ khinh thường, “Nhà họ Quách ở Giang Đông trong võ lâm dù không phải rất có tiếng tăm nhưng lại là nhà giàu nhất nhì thiên hạ, đứng tên cửa hàng phường xưởng quặng mỏ vô số, Doãn Đại Lão nhi một là thèm tiền, hai là muốn vươn móng vuốt xuống Giang Nam thôi!”
“Thạch đại ca, đừng nói vậy.” Quách Tử Quy yếu ớt nói.
Chuyện này Thái Chiêu chưa từng nghe nói, đoán có lẽ là chuyện Ninh Tử Phong đau lòng, nên chưa bao giờ nhắc tới.
Mộ Thanh Yến từng lật sách xem lại chi tiết từng chuyện cũ đọc qua đoạn này, hết sức rõ ràng tình cảnh năm đó.
“Doãn Đại Lão nhi rất thủ đoạn.” Hắn không chút khách khí châm chọc nói, “Lão xếp đặt bữa yến tiệc, ngay trước mặt bô lão và võ lâm Giang Đông, miệng đầy tán dương song thân Quách tiền bối trợ giúp Thanh Khuyết Tông nhiều năm, ngôn từ không ngừng cảm kích, cuối cùng đưa ra ý nhận Quách tiền bối làm đệ tử quan môn, để kết mối lương duyên.”
Mặt Thạch Thiết còn tức giận: “Cộng thêm có người bên cạnh đánh trống reo hò ồn ào trợ giúp, Quách gia khó mà từ chối, thảng như không chịu đồng ý thì giống như sẽ ra ân để cầu báo đáp vậy. Chu Lão Trang chủ cũng đâu tiện lên tiếng, nếu không sẽ làm mất thể diện của Doãn Đại Lão nhi.”
“Doãn Lão Tông chủ làm việc bá đạo vậy luôn!” Thái Chiêu rất kinh ngạc.
Lúc cô đã lớn, Thanh Khuyết Tông dưới sự dẫn dắt Phật hệ nhiều năm của Thích Vân Kha nhiều năm đã rất nhẹ nhàng, rất khó tưởng tượng cường thế của Thanh Khuyết Tông năm đó.
Mộ Thanh Yến cười khẽ: “Cho nên nàng có thể tưởng tượng sau này khi cô của nàng đường hoàng xuất thế có một không hai trên võ lâm, Doãn Đại lão nhi tức giận biết là bao rồi.”
“Đâu chỉ giận, là vừa sợ vừa hận, nhưng không thể làm gì.” Thạch Thiết Tiều cười hả giận.
Đám người cười cười nói nói, trên mặt Quách Tử Quy cũng nổi chút huyết sắc, mắt có thần.
Thái Chiêu vội nói: “Sau khi tiền bối mất tích, người người đều bảo tiền bối bị ngộ hại, giờ biết tiền bối vẫn còn trên đời không biết biết bao người vui mừng.”
Quách Tử Quy lắc đầu: “Ta không phải mất tích, ta là chạy thoát thân. Nếu không trốn, sư phụ sẽ định thanh lý môn hộ.”
Thái Chiêu chấn kinh, thầm suy đoán không biết ông phạm Môn quy nào mà nghiêm trọng vậy.
Quách Tử Quy không muốn nhắc tới, đổi chủ đề: “Chiêu Chiêu, kể ít chuyện Tông môn ta nghe với. Ta biết Bát sư đệ… Hầy, thật ra sư phụ cháu lớn hơn ta mấy tuổi đâu. Hiện giờ Bát sư đệ đã làm Tông chủ, những sư huynh khác thì sao?”
“Trừ đầu bếp không giỏi thì mọi thứ trong Tông môn đều ổn cả ạ.” Thái Chiêu nhìn ông đã đến lúc nỏ mạnh hết đà, tìm lời dễ nghe kể, “Tính nết sư phụ con ngài cũng đã biết, chẳng những khoan hồng với luật lệ, còn rộng rãi với người. Đệ tử Thanh Khuyết Tông hiện giờ á, thích nhất là tụ tập một chỗ kháo nhau tào lao xem náo nhiệt, hạt dưa cắn mỗi ngày quét ra cả giỏ lớn vỏ hạt đó ạ. May mà còn có sư bá Lý Văn Huấn, mới không lỏng lẻo Môn quy.”
Quách Tử Quy khá cuốn hút, “Ồ, vậy không giống nhỉ. Lúc ta gia nhập Thanh Khuyết Tông, sư phụ quản giáo chúng ta rất nghiêm khắc…” Giọng ông chợt đổi, mang vẻ bi thương, “Hẳn là sáu sư huynh trước ta đều không còn, phải không?”
Thái Chiêu nhớ tới Khâu Nhân Kiệt tự vận bi thảm, sau một lúc lâu mới nói: “… Lôi Sư bá vẫn còn ạ, mỗi ngày vẫn lải nhải chất lượng đan dược trong nhà thuốc ạ.”
Quách Tử Quy cười: “Lục sư huynh thích cái đẹp, ăn mặc hợp thời hẳn phải thích chỗ đông người. Sao lại chịu cảnh ngày ngày sống trong nhà thuốc chứ, hay là bị thương trong người không muốn gặp ai?”
Thái Chiêu đành nói dối, “Chỉ là trên mặt có thêm mấy vết sẹo, con thì thấy chẳng có gì,trông còn càng khí khái hào hùng, nhưng ông ấy làm sao cũng không chịu ra gặp người.”
Quách Tử Quy lắc đầu: “Nếu chỉ là mấy vết sẹo, Lục sư huynh đã tự chữa lành rồi, nhất định còn vết thương nào khác.”
Ông biết y thuật và tính tình Lôi Tú Minh, mơ hồ đoán ra e là tay chân ngũ quan ông ấy bị tổn thương khó chữa, “Nhưng còn sống là tốt rồi, còn có thể phối thuốc luyện đan, còn có thể lải nhải, cho thấy ít ra huynh ấy còn đi lại tự nhiên… Hầy, vậy đã quá tốt.”
Thái Chiêu im lặng.
Mặt Quách Tử Quy chợt quặn đau, khuôn mặt trắng bệch trương lên thành màu xanh tím, cơ thể gầy như que củi run rẩy co rúm, Thạch Thiết Tiều ra tay như gió, thuần thục điểm mấy đại huyệt ông.
Con ngươi Quách Tử Quy rã rời, miệng nói mớ lung tung — “Cha, sao cha không đến thăm con! Mau dẫn con về nhà, con không muốn ở đây, con không muốn luyện công, con không luyện, đau, đau, đau quá! Mẹ, mẹ mẹ đừng khóc, con ổn lắm, ở Tông môn cái gì cũng có, mấy sư huynh đều rất chiếu cố con, con không có chịu khổ, thật sự không chịu khổ…”
Đứa bé sợ hãi dần chuyển thành một người lớn bé bé trấn an, Thái Chiêu nghe đầy chua xót.
Quách Tử Quy há mồm thở dốc, càng nói nhăng cuội, tựa như song thân đang ở trước mặt, còn ông là người xa quê mới về tốt khoe xấu che. Ông đứt quãng nói — “Đại sư huynh Nhị sư huynh tính tình rất tốt, thường trộm đưa con… lên trấn cho đỡ thèm, sợ đêm con khóc, còn… thắp đèn. Tứ Ngũ sư huynh không thích nói đạo lý nhưng cũng chưa từng khi dễ con. Tam sư huynh là con rể tương lai của sư phụ, dù thích dạy dỗ người khác nhưng chỉ cần, chỉ cần con phục tùng cung kính, huynh ấy cũng tình nguyện chỉ điểm con… con thân với Lục sư huynh nhất, lần sau nếu mẹ thấy loại sa tanh lấp lánh, nhớ để một ít cho Lục sư huynh, đừng quên…”
Thạch Thiết Tiều nhào nặn huyệt đạo trên người ông một trận, cuối cùng nhấn mạnh một cái lên huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, không ngừng truyền nội lực hùng hậu liên tục, Quách Tử Quy đột nhiên tỉnh táo lại một nửa.
Thái Chiêu thầm hoảng — biết Thạch Thiết Tiều đang uống rượu độc giải khát, để giữ người bệnh tỉnh táo trong thời gian ngắn mà tiêu hao tinh khí của mình.
Quách Tử Quy mở to hai mắt, nhìn Thái Chiêu trừng trừng, trên mặt ửng đỏ không bình thường, “Chiêu, Chiêu Chiêu, con thay ta cầm vài thứ ra ngoài, được không, được không!”
Thái Chiêu đáp được liên tục.
Quách Tử Quy chỉ một thanh trường kiếm khá quen mắt treo trên giường — Thái Chiêu đã từng thấy một thanh kiếm kiểu chuôi vỏ tương tự trên tường nhà Lôi Tú Minh, “Đây là thanh bảo kiếm lúc ta nhập môn, sư phụ ban cho ta. Nhờ con, giúp ta trả lại!”
Thái Chiêu khẽ giật mình — từ lúc gặp mặt đến giờ, Quách Tử Quy vẫn ăn nói dịu dàng nhỏ nhẹ, chỉ mấy chữ cuối cùng này, chém đinh chặt sắt, kiên định lạ thường.
Quách Tử Quy từng chữ từng câu nói: “Ta làm hỏng uy phong của Tông môn, không xứng là đệ tử của sư phụ. Xin giúp ta trả lại thanh kiếm, xem như là ta xuất sư môn, kể từ đây không còn là đệ tử Tông môn nữa!”
Thái Chiêu có vẻ hiểu rõ, gật đầu đáp lại.
Quách Tử Quy lại chỉ vào chiếc hộp nhỏ trên cái bàn đối diện, “Thứ kia là dành cho mẹ con, họ Quách ở Giang Đông…”
Sắc mặt ông đau đớn, “Nhà họ Quách đã không còn, ta chỉ có thứ này, xem như đồ cưới tặng mừng mẹ con, không uổng công từ nhỏ cô ấy theo ta gọi chó chọc mèo, gây rối khắp chốn.”
Thái Chiêu nén nước mắt, nghiêm túc gật đầu.
Giao phó xong hai chuyện, bằng mắt trần có thể thấy Quách Tử Quy đã rệu rã, như toàn bộ sinh khí đã được trút hết.
“Còn có một chuyện cuối cùng… Xin đưa tro cốt của ta, về Giang Đông rải… rải bên cạnh mộ song thân ta.”
Thái Chiêu kinh hãi: “Cớ gì Quách tiền bối lại nói vậy, nội thương có nặng hơn nữa cũng chỉ cần nghỉ ngơi thật tốt là khá hơn thôi.”
Quách Tử Quy yếu đuối mỉm cười: “Ta đã kéo dài hơi tàn nhiều năm, sống, sống không bằng chết, Chiêu Chiêu không cần khuyên nữa.” Ông quay lại, mắt đầy cầu khẩn: “Thạch đại ca, tâm nguyện đệ đã hoàn tất, để đệ đi đi… để cho đệ đi thôi!”
Mắt Thạch Thiết Tiều lộ vẻ đau thương, dừng chuyển nội lực, chậm rãi dời bàn tay khỏi huyệt Bách Hội của ông ấy.
Quách Tử Quy lập tức như tấm đệm da cừu bị xì hơi, không còn sinh khí mềm nhũn tê liệt ngã xuống, tiếng nói mớ nhỏ đến mức không nghe được, “Cha mẹ, là con bất hiếu, là con hại chết người…”
—
Sau một thoáng tỉ tê khóc yếu ớt, Quách Tử Quy không còn hơi thở.
Thái Chiêu không nhịn nổi nữa, lệ nóng tràn mi.
Mộ Thanh Yến khẽ thở dài, đứng dậy giúp Thạch Thiết Tiều dùng nội lực lặp đi lặp lại khuấy động đan điền và kinh mạch Quách Tử Quy.
Xác định ông đã thật sự không còn sự sống, Thạch Thiết Tiều mới gọi cô dâu cả tới, từng bước xử lý hậu sự.
Người trong võ lâm cũng không chú trọng lễ nghi phiền phức, lúc Thái Bình Thù qua đời, cũng chỉ đặt linh cữu ba ngày thì hạ táng, là để chiều theo những người vội chạy đến chịu tang. Không phải theo ý của chính Thái Bình Thù, người chết như đèn diệt, hạ táng sớm đầu thai sớm, chớ làm chi mấy việc phí công.
Dưới sắp xếp của cô dâu trưởng họ Thạch, một đám nô bộc đâu vào đấy lau rửa di thể Quách Tử Quy sạch sẽ, chải đầu, thay y phục, liệm dung, nhét gạo trắng trong miệng, cuối cùng đặt lên cáng bằng sắt chất đầy hoa thơm làm quả, đưa vào hỏa táng trong lò gạch.
Nhìn khói xanh chầm chậm bốc lên trên đầu lò gạch, Thạch Thiết Tiều không khỏi lệ tuôn đầy mặt, nghẹn ngào không thốt nên lời, “Thằng bé thật đáng thương, năm nay còn chưa tới bốn mươi, chưa lấy vợ sinh con, đến một nhân tình cũng còn chưa từng có!”
Thái Chiêu cũng rất khó chịu, nhưng để phân tán sự chú ý của ông, bèn tìm chủ đề vực dậy tinh thần: “Thạch tiền bối, đến cùng Quách sư bá đã phạm Môn quy gì mà Doãn Lão Tông chủ cứ phải lấy tính mệnh ông ấy mới được thế ạ.”
Thạch Thiết Tiều cả giận, “Phạm môn quy gì chứ! Chỉ là sau khi bị Ma giáo bắt, chịu cực hình tra tấn không nổi mới đầu hàng. Vừa rồi tình nhân của con cũng thử thăm dò cơ thể của Tử Quy huynh đệ, con hỏi nó xem, sao Tử Quy huynh đệ đau ốm mười mấy năm vẫn không cách nào khỏi hẳn!”
Mộ Thanh Yến cực kỳ tán thưởng với hai chữ ‘tình nhân kia’, bèn hòa nhã đáp ngay, “Kinh mạch cả người Quách tiền bối bị người dùng công phu ra tay nặng chặt đứt đoạn, hình như đan điền bị người dùng chân khí mài mòn nhiều lần, hư hại không chịu đựng nổi.”
Thạch Thiết Tiều đau lòng căm hận: “Tử Quy từ bé đã nhát gan sợ đau, nào có cái tính xông pha trận địa. Vì sĩ diện mà Doãn Đại Lão nhi cứ một hai vì ‘báo thù cho Thái Sơ Quán Thất Tinh đệ tử ra hết’ gì đó, phái Tử Quy ra ngoài!”
Mộ Thanh Yến nhướng mày: “‘Báo thù cho Thái Sơ Quán’ là sao ạ?”
Thái Chiêu cũng nghi ngờ hỏi: “Sao Quách sư bá lại bị bắt sống ạ?”
Thạch Thiết Tiều thu nước mắt, dựa ngồi vào trên ụ đá, tức tối nói: “Thái Sơ Quán không biết lượng sức, nhảy ra gây hấn Ma giáo. Đầu tiên là Thương Long Tử sư đệ Chưởng môn chết thảm, sau đó là Vũ Nguyên Anh Đại đệ tử đích truyền bị đánh trên núi Đỉnh Lô, rồi Chưởng môn Thương Hoàn Tử cũng cùng Dao Quang Trưởng lão Ma giáo đồng quy vu tận. Sau đó không lâu, đến Thương Khung Tử còn lại cũng bị bộ hạ Dao Quang Trưởng lão ám toán, đánh gãy hai chân.”
“Chuyện đó con biết!” Thái Chiêu vội giơ tay nhỏ, “Mẹ con từng kể, thật ra không phải Thái Sơ Quán không biết lượng sức — không phải cô con trước đó đã phá được Ngũ Độc chưởng của Trần Thự cứu về không ít đệ tử Thái Sơ Quán trong đám sao. Doãn Đại tự thấy thật mất mặt, quay lưng châm ngòi Thái Sơ Quán…”
Thạch Thiết Tiều im lặng: “Cái cô Tiểu Phong khờ ngốc này, chuyện nên nói không nói, không nên nói lại nói mò! Thật ra không hoàn toàn là Doãn Đại châm ngòi, năm đó trong cuộc tỉ thí sáu phái cô cô của con đã đánh cho Thái Sơ Quán mất hết thể diện, người ta đã tức giận sẵn.”
Mộ Thanh Yến khinh bỉ bĩu môi: “Sau đó thì sao? Doãn Đại dẫn người đi báo thù ư?”
“Đúng vậy!” Thạch Thiết Tiều tức giận, “Thái Sơ Quán liên tiếp xảy ra chuyện, lão già Doãn Đại không thể nhịn nữa, mới hạ lệnh xuất hết tinh nhuệ sái phái, đánh lên U Minh Hoàng Đạo xả giận!”
“Vì giận dữ mà hưng binh, thật không tốt rồi.” Thái Chiêu nói.
Thạch Thiết Tiều lớn tiếng nói: “Ai nói không phải chứ, lúc ấy cô cô con đã kịch liệt phản đối, nói lúc này đánh lên U Minh hoàng đạo, chắc chắn Nhiếp Hằng Thành sẽ có chuẩn bị — nhưng Doãn Đại nào có nghe cô ấy!”
“Sau đó để làm gương, Doãn Đại đã phải hết bảy người đệ tử dưới trướng mình đi?” Thái Chiêu bĩu môi.
Thạch Thiết Tiều hầm hừ: “Không sai.”
“Thì ra là như vậy.” Mộ Thanh Yến dùng nhánh cây cào cào bụi đất bên chân, lúc ngẩng lên, hắn nhận thấy ánh mắt Thái Chiêu, thế là thuận miệng tìm đề tài, “Không biết năm đó tiến đánh U Minh hoàng đạo có những ai ạ?”
“Thế hệ trẻ tuổi hầu như đi cả.” Thạch Thiết Tiều suy nghĩ, “Trình Hạo tiền bối và Vương Định Xuyên tiền bối trong Thanh Khuyết Tam lão trước đó đã chết trong chiến dịch bắt sống Khai Dương Trưởng lão, nên người Thanh Khuyết Tông đi nhiều nhất; Bội Quỳnh sơn trang và Quảng Thiên Môn cũng đi không ít, bởi Lão Chưởng môn hai phái đều bị Nhiếp Hằng Thành làm bị thương nặng…”
Thái Chiêu xen vào: “Phải chăng là vì thăm dò Ma công Nhiếp Hằng Thành mà bị thương?”
Thạch Thiết Tiều đáp vâng, lại nói: “Dĩ nhiên Lạc Anh Cốc là cô cô con dẫn đầu, còn có đám huynh đệ chúng ta; Dương Nghi lão nhi Tứ Kỳ Môn cũng diễn nửa ngày rồi cũng phái con trai đi; Thái Sơ Quán do Vương Nguyên Kính dẫn đầu, hầy, tất cả vì thương hại bọn hắn đã tử thương nặng nề, cố ý thu xếp cho họ áp trận ở phía sau.”
Ông trầm tư suy nghĩ, “Người ở lại cũng chẳng có mấy ai nhỉ.., Ừm, Vân Kha huynh đệ và Tiểu Xuân vừa bị thương không thể đi, Nhị đệ của ta đuổi theo nhân tình của nó chưa về, Cầu Nguyên Phong bị thương sau trận chiến núi Đỉnh Lô, cũng không đi, còn lại… Ta nhớ không rõ…”
Khói trên lò gạch chuyển thành màu đen đặc, Thái Chiêu biết là đã đốt tới di cốt Quách Tử Quy, cô sợ Thạch Thiết Tiều nhìn thấy đau lòng, lại hỏi, “Xông hết cả vào hang ổ người, Nhiếp Hằng Thành chắc chắn ra hết sát chiêu, chúng ta tử thương vô số ạ?”
“Thật ra không phải quá tổn hại, vì lúc ấy Nhiếp Hằng Thành đang bế quan.” Thạch Thiết Tiều cười lên, “Sau khi đánh vào U Minh hoàng đạo, bọn ta chia ra… ầy, ta cũng không biết là mấy đường, mấy huynh đệ chúng ta đi theo Bình Thù muội tử xông vào trước nhất, không đầu không đuôi đánh giết một trận, rồi lành lặn quay về.”
“Tử Quy thì không may mắn như vậy.” Ông thở dài, “Phải nói Đại sư huynh Phùng Viễn Đồ cũng rất chiếu cố cậu ấy, xếp cậu ấy đi theo người Thái Sơ Quán ở phía sau, xem tình hình không tốt thì có thể chạy. Ai ngờ bọn họ đánh một hồi bị lạc đường, vào một khe núi đen thẳm. Ở chỗ đó nhũ đá mọc như rừng che cả trời, khắp nơi đều là sơn động vách đá, mê cung, trên mặt đất còn có từng phiến đá điêu khắc sư tử báo giương nanh múa vuốt, như lệ quỷ ở địa ngục. Tử Quy vừa kinh vừa sợ, cứ thế tách khỏi đám Thái Sơ Quán. Phùng Viễn Đồ cũng chết trong trận đó, huynh ấy là một hán tử trung hậu, đáng tiếc.”
“Ôi, sau này ngẫm lại, chi bằng Tử Quỳ cứ đi theo bọn ta. Mặc dù bọn ta xông vào trước tiên, thế nhưng khi cây Diễm Dương đao của Bình Thù muội tử sáng lên, đương gió cũng đứng, uy thế hiển hách thật sự thần quỷ đều lui! Trừ phi Nhiếp Hằng Thành tự mình ra mặt, chứ trên dưới Ma giáo không ai là địch thủ của cô ấy! Bọn ta đi theo chỉ cần trùng sát là được, sảng khoái, thật mẹ nó sảng khoái!”
Nhắc đến chuyện xưa nhiệt huyết, Thạch Thiết Tiều ngẩng đầu ưỡn ngực, ánh mắt đầy lấp lánh, “Sau này Lộ Thành Nam kể, hắn cố ý sắp xếp cho Triệu Thiên Phách và Hàn Nhất Túc tránh đường của bọn ta, sợ sư huynh nhà hắn nạp mạng, ha ha, ha ha ha ha!”
Kết quả vừa ngẩng lên, Thạch Thiết Tiều nhìn thấy khói đen đậm đặc trên lò gạch, cảm xúc lại quay đầu rơi thẳng.
Ông khóc không ra tiếng: “Hai ông bà nhà họ Quách rất tốt, lúc thiếu thời huynh đệ chúng ta bị kẻ thù truy sát, chạy trốn tới Giang Đông, là nhà họ Quách chứa chấp chúng ta. Tử Quy dù cà lơ phất phơ, nhưng từ nhỏ đã tâm địa thiện lương, biết huynh đệ chúng ta bị nội thương, chỉ tiếc là không mua được hết thảy gan hổ bán trên thị trường.”
“Tính cậu ấy mềm yếu, căn bản không thích hợp học võ, cũng không thích chém chém giết giết, vốn dĩ nên ở Bội Quỳnh sơn trang làm một đệ tử ghi danh, nhởn nhơ sống qua ngày. Không biết sao lại phải thành đệ tử quan môn của Tông chủ Tông đứng đầu thiên hạ, vạn chúng nhìn trừng trừng, không thể không đếm xỉa đến.”
“Lúc Bình Thù muội tử cứu Tử Quy ra, cậu ấy đã bị tra tấn không thành hình người — buông tay đầu hàng thì có gì sai, ký thư đầu hàng thì có gì sai, cậu ấy cũng đâu có hại ai! Trên đời này đâu phải ai ai cũng đều là đại anh hùng đại hào kiệt! Có lẽ Doãn Đại cũng biết Tử Quy không chết, cố ý thả tin, ‘Phàm là môn hạ Thanh Khuyết môn có nửa điểm hành vi mềm yếu đầu hàng địch, chắc chắn tội chết’!”
“Lão trông Tử Quy mau mau tự sát ở bên ngoài, đừng tổn hại thanh danh lão đó mà! Hại Tử Quy có nhà mà không thể về — Tử Quy, Tử Quy, trông mong con trai sớm quay về*, đáng thương cho Quách gia Nhị lão, không lâu sau vì đau lòng nhuốm bệnh qua đời.”
(*) chơi chữ Tử 子 = con trai, Quy 归 = về/quay về.
Thạch Thiết Tiều càng nghĩ càng thương tâm, chốc lát chửi đồ con rùa già Doãn Đại, chốc lát thương thay cho ba người nhà họ Quách.
Thái Chiêu nghe đầy chua xót, cũng khóc theo một trận.
Mộ Thanh Yến biết năm ấy chuyện Doãn Đại thu Quách Tử Quy làm đồ đệ cũng không đơn giản, mà là một trận cờ giữa nội bộ Bắc Thần —
Doãn Đại đúng thật thông minh tháo vát, tu vi lăng tuyệt Lục phái, lúc đó chỉ có cả nhà Thanh Khuyết Tông là lớn, Tống thị Quảng Thiên Môn là thân gia của lão, Chưởng môn Thương Hoàn Tử Thái Sơ Quán là bạn tốt chí giao của lão, Dương Nghi Tứ Kỳ Môn là phụ thuộc của lão, Bắc Thần Lục phái đã mơ hồ sinh ra thế cục sát nhập.
Hắn thậm chí còn vô tình hay cố ý dung túng thứ nữ tiếp cận Chu Trí Trăn con trai độc nhất nhà họ Chu, chỉ có điều mỗi lần yến tiệc nhắc tới mấy câu như ‘muốn tốt cho cô con gái nhỏ’, đều bị Chu Lão Trang chủ mập mờ cho qua.
Về sau cha mẹ của chị em Thái Bình Thù đều mất, Doãn Đại vốn định lấy thân phận Tông chủ Tông đứng đầu thu dưỡng bọn họ, ai ngờ Chu Lão Trang chủ bằng một tờ hôn thư Thái Lão cốc chủ trước khi lâm chung viết trước chúng, biến ước định bằng miệng trước đó thành sự thực, sau đó ra tay trước đưa tiểu thư đệ đi, làm tính toán của Doãn Đại rơi vào không khí.
Nhưng Doãn Đại há là người chịu từ bỏ ý đồ, không lâu sau bèn đích thân đi Giang Đông, gióng trống khua chiêng thu Quách Tử Quy làm đệ tử quan môn.
Chu Lão Trang chủ cũng không dám đối chọi gay gắt.
Mộ Thanh Yến bỗng có thể hiểu được tình cảm nhà họ Thái đối với nhà họ Chu, ngẫm lại nếu không phải Chu Lão Trang chủ nhanh một bước, với thiên phú và tính nết của Thái Bình Thù, lớn lên ở Thanh Khuyết tông sẽ không biết nhận sự đối đãi thế nào.
Đương nhiên, hắn tuyệt đối không chịu thừa nhận là vì cuộc hôn sự giữa Chu Ngọc kỳ và Thái Chiêu đã ngâm nước nóng, mà hắn cũng đã tha thứ cho nhà họ Chu.
Lửa lò gạch đốt trọn hai canh giờ, từ lúc trời tảng sáng cho đến giữa trưa.
Mở lò xong, Con trai trưởng nhà họ Thạch cho người mang cáng sắt ra ngoài, Thạch Thiết Tiều ngậm nước mắt tự mình thu tro cốt, cuối cùng cất vào một chiếc hộp gỗ tử đàn khảm ngọc, giao cho hai người Mộ Thái.
“Chiêu Chiêu, gửi lời chào cha mẹ giúp ta, rồi giúp ta thắp nén hương cho cô của con. Bảo cô ấy, bọn ta sống trong ẩn thôn rất tốt.” Mắt hổ Thạch Thiết Tiều ngận nước mắt, “Ta nhớ cô ấy, con cháu tự có phúc con cháu, chờ sau khi ta trăm năm, sẽ cho chúng lôi vàng và bí tịch ra, để chính chúng quyết định ở lại hay ra ngoài — đến chừng đó, ta xuống dưới tìm muội ấy và đám huynh đệ ôn chuyện.”
Thái Chiêu trịnh trọng thưa vâng.
Uống một chén rượu thuốc, Thái Chiêu Mộ Thanh Yến cùng mê man.
Khi tỉnh lại, phát hiện hai người đang ở trong tiệm thợ rèn trong thôn Đào Hoa, cửa phòng đóng chặt, trên bàn còn có cơm tối làm sẵn, bên cạnh là trường kiếm của Quách Tử Quy, quà cưới của Ninh Tiểu Phong, còn có hũ tro cốt trong bao quần áo.
Đẩy cửa ra, các thôn dân còn hỏi ‘Sao vợ chồng nhà họ Kiều nói đi là đi vậy, hai người là thân thích nhà họ à, giờ tiệm này sang cho ai rồi’ vân vân.
Hai người Mộ Thái đã hiểu, nghĩa là đôi vợ chồng trẻ nhà họ Thạch lại ẩn nấp lần nữa, không biết sau này họ mở tiệm rèn phương nao, hoặc là dựa vào tài bếp núc của cô dâu cả nhà họ Thạch, mở quán đậu rang hương thơm tỏa khắp nhỉ.chị Quan: Tiêu đề là chỗ nhắc nhở: Chương sau sẽ để lộ một bí ẩn lớn.
Bình luận truyện