Mạnh Bà Truyền
Quyển 5 - Chương 36
Mất một lúc lâu Hoa Khai mới nhận ra người đang nằm trên giường là Mạnh Đại Duyên. Nàng vẫn còn nhớ dáng vẻ mập mạp, gương mặt hiền lành của ông năm đó, bây giờ lại nằm một chỗ trên chiếc giường gỗ lộn xộn bẩn thỉu, vô cùng tiều tụy.
“Ai đến đó?” Ông lão nhỏ giọng hỏi thê tử.
Trần Tú Trinh đỡ ông ngồi dậy, nói: “Là một cô nương qua đường.”
Trần Tú Trinh giúp ông lão sửa gối đầu sau lưng. Ông ho nhẹ hai tiếng, ngước mắt lên nhìn, vừa vặn thấy Hoa Khai đang đứng ở cạnh cửa, trong nhất thời sững sờ không lên tiếng được, vẻ mặt kinh hoàng như đang gặp quỷ. Sau đó không lâu lại là gào khóc. Trần Tú Trinh hoảng sợ, trong một lúc không biết nên làm sao mới phải.
Ông lão nước mắt, nước mũi giàn giụa. Cánh tay gầy như que củi, run run chỉ vào Hoa Khai nói: “Nó đã trở về, đã trở về rồi… Cuối cùng nó cũng tới tìm chúng ta lấy mạng…”
Trần Tú Trinh quay đầu nhìn thoáng qua Hoa Khai, rồi quay lại nhìn ông lão nói: “Nàng chỉ là một cô nương đi ngang qua đây. Ông đang nói gì vậy? Ai trở về? Ai lấy mạng ai?”
Ông lão vẫn cứ khóc lớn, miệng một mực lặp đi lặp lại: “Sai rồi, sai lầm rồi… Không nên, không nên làm vậy…”
Trong lòng Trần Tú Trinh lại càng sợ hãi.
Mãi đến khi Mạnh Đại Duyên vừa khóc vừa nói: “Hoa Khai à… Chúng ta không nên…” Trần Tú Trinh mới hiểu được, lập tức quay đầu, hoảng sợ nhìn Hoa Khai vẫn đứng yên cạnh cửa. Nhìn đôi mắt kia xem, hàng chân mày kia xem, không phải là đứa con gái bọn họ nhận nuôi, thì còn có thể là ai? Thoáng cái bà cũng xụi lơ ở cạnh giường, gương mặt vàng vọt như tờ giấy.
Hoa Khai cụp mắt. Nàng vốn định cứ vậy mà đi, nhưng do dự một chút vẫn bước vào, đứng cách giường khoảng một hai trượng. “Hai người không cần sợ, ta là người, sẽ không làm gì ông bà.”
Mạnh Đại Duyên dừng khóc. Một hồi lâu Trần Tú Trinh mới tiến lên, nhưng hai chân vẫn mềm nhũn như trước, cứ lết dưới đất, không tin hỏi: “Cô nương thật sự là Hoa Khai?”
Hoa Khai nhẹ nhàng gật đầu. “Năm đó ta không chết, ra khỏi được ngọn núi lớn, có người cứu ta. Sau đó có một đạo sĩ nhận ta làm đồ đệ cho đến bây giờ.” Trong khoảng thời gian đó có bao nhiêu thống khổ không nói hết được, cũng không cần nói nữa.
“Vậy… vậy bây giờ cô về đây làm gì? Báo… Báo thù phải không?”
Hoa Khai cười khổ. Nhiều năm đã qua, hôm nay nhìn bọn họ già đi như vậy, thật sự nàng không oán hận nổi. “Ta chưa bao giờ nghĩ phải báo thù. Năm đó lúc ta còn quấn tã, chính là hai người đã nhặt được. Sau đó còn có ơn dưỡng dục mười năm, sao ta dám nói báo thù? Chỉ là ta bất hiếu, không thể nào xem hai người như cha mẹ được.”
Mạnh Đại Duyên dùng tay áo lau mặt, nhỏ giọng hỏi: “Còn cậu bé kia đâu?” Ông đã quên đứa bé ấy tên là gì, nhưng ông nghĩ nếu Hoa Khai có thể sống sót thì cậu bé kia chắc cũng có thể. Ít nhất có thể giảm bớt tội nghiệt của họ.
Đáng tiếc, đáp án của Hoa Khai không tốt như ông tưởng. Vẻ mặt Mạnh Đại Duyên vô cùng đau khổ. “Thật ra mấy năm qua ta luôn hối hận, nhất là nhìn thấy thôn làng này trở thành tình trạng như bây giờ. Ngày nào ta cũng cảm thấy áy náy không thôi, đêm nào cũng không thể an giấc.” Ông sợ chết, nếu không sẽ không gào khóc khi nhìn thấy Hoa Khai.
Lúc này Trần Tú Trinh mới bình tĩnh được một chút. Bà chống tay ngồi xuống mép giường, sắc mặt vẫn trắng bệch. Bà gục đầu xuống, hai bên tóc mai bạc trắng cũng rũ theo, dáng vẻ vô cùng đau khổ: “Chúng ta đã bị báo ứng. Tất cả mọi người đều bị báo ứng.”
“Thôn này, vì sao lại biến thành như vậy?” Hoa Khai hỏi.
Trần Tú Trinh ngẩng đầu, ánh mắt mông lung nhớ lại chuyện xưa, vừa khóc vừa nói: “Đều tại tên giả đạo sĩ kia, tất cả đều do hắn gây ra!”
“Đạo sĩ nào?”
“Chính là cái tên đạo sĩ thối mang lại tai họa đó. Chúng ta tin lời hắn, đem con và cậu bé kia vào trong núi làm tế phẩm… Nhưng đến năm thứ hai, chúng ta không làm như vậy nữa, vẫn cúng tế súc vật và lương thực bình thường như lúc trước. Phải dùng người làm tế phẩm, chúng ta thật sự không muốn. Nhưng những chuyện kiểu này, khi đã bắt đầu thì không thể dừng lại. Bởi vì năm thứ hai không có người tế, nên đêm đó mọi người đều nghe thấy âm thanh rống giận từ trong núi truyền ra, kêu ‘Người đâu! Người đâu!’. Chúng ta rất sợ hãi, hôm sau mang hai đứa trẻ vào trong núi. Vài năm sau đó chúng ta đều cúng tế, nhưng mọi người phát hiện không phải năm nào cũng được mùa. Có một năm, chúng ta không đem trẻ con lên núi làm tế phẩm. Sau đó không lâu, trời đổ mưa to, đêm đó sơn thần trong núi ra thôn ăn thịt người, hơn mười người. Sau này chúng ta không dám làm phật ý sơn thần nữa, nhưng mà… ai có thể dứt ruột bỏ con mình được chứ? Chúng ta rất sợ, có lẽ ông trời trừng phạt tội nghiệt của chúng ta. Thời gian về sau đất đai không trồng trọt được, không còn kế sinh nhai. Rất nhiều người đã bỏ đi, dần dần chỉ còn lại bao nhiêu đây.”
“Vì sao những người còn lại không cùng nhau rời khỏi đây?”
Mạnh Đại Duyên tiếp lời: “Đi vào thì dễ, đi ra mới khó! Thôn này bốn phía đều là núi, trùng trùng điệp điệp, ngọn này nối tiếp ngọn kia, cũng không biết sơn thần đó thường lui tới chỗ nào. Nghe nói rất nhiều người còn chưa rời khỏi được nơi này, giữa đường đều bị ăn thịt. Những người còn lại, không ai dám ra ngoài, đành ở lại đây, sống thêm được năm nào hay năm ấy.”
“Con yêu đó vốn không phải là sơn thần, nó chính là yêu quái.”
Mạnh Đại Duyên và Trần Tú Trinh đều không nói gì, nhưng trong lòng cũng hiểu rõ. Họ nói là sơn thần, chẳng qua chỉ là tự lừa dối bản thân. Dùng người hiến tế cho sơn thần, ít ra cảm giác tội lỗi trong lòng sẽ ít hơn so với hiến cho yêu quái.
“Vì sao trên đường ta đến đây, chỉ thấy toàn phụ nữ và trẻ con, không thấy có nam đinh?”
“Mùa màng thất bát, không thu hoạch được gì nên không có lương thực. Trời lại đổ tuyết lớn, không còn cái ăn nên hai ngày trước bọn họ đã tập trung lại thành một đội, đến sườn núi săn xem có thể kiếm chút thức ăn không, chứ cũng không dám đi sâu vào trong núi.”
Mạnh Đại Duyên ngẩng đầu nhìn Hoa Khai, ánh mắt bà tỏ rõ áy náy. “Con à, con không nên quay về đây! Nếu đã đi rồi sao không đi cho thật xa? Vì sao lại còn quay về làm chi!”
Hoa Khai không nói gì, nhưng trong lòng lại nghĩ đến một câu: nhân quả tuần hoàn, báo ứng không sai một ly.
Nàng cũng không muốn nấn ná lâu trong nhà nên liền cầm kiếm rời đi. Trước khi đi, Hoa Khai nói với vợ chồng Mạnh Đại Duyên nàng muốn vào trong núi. Sau này yêu quái kia sẽ không đả thương ai nữa, còn nàng cũng sẽ không quay lại nơi này.
Mãi đến khi Hoa Khai sắp ra khỏi cổng, Trần Tú Trinh mới như vừa tỉnh từ trong giấc mộng, hoàn hồn đuổi theo. Bà kéo tay áo Hoa Khai, chần chừ hỏi nàng: “Con à, con muốn đi đâu?”
“Lúc ta rời khỏi đây, được theo một vị đạo sĩ học đạo. Trảm yêu trừ ma là việc ta nên làm.”
Bà lão hơi khó xử. Bà luôn mong thôn làng có thể được an bình như ngày xưa, nhưng bà cũng không muốn đứa con gái mà bà nuôi dưỡng đi nộp mạng. Cuối cùng bà do dự nói: “Nguy hiểm lắm… Con đừng đi.”
Hoa Khai cười nhẹ, “Ta sẽ không sao. Giết con yêu quái kia xong ta sẽ rời khỏi đây, đến một nơi khác tu hành. Ta sẽ không chết đâu.”
Lúc này bà lão mới do dự thả tay nàng ra. “Vậy… con nhớ phải cẩn thận. Con yêu quái đó lợi hại lắm.”
Hoa Khai nhẹ nhàng vỗ vỗ bàn tay nhăn nheo của bà lão, nói: “Bảo trọng.” Rồi lập tức lên đường.
Ra gần tới đầu thôn, có một đứa bé rụt rè nhút nhát, lại đang đứng ở giữa lộ, chặn đường Hoa Khai.
Đứa bé gầy yếu, người nhỏ xíu như mới có mấy tuổi, tóc cột thành một chỏm trên đầu, sắc mặt vàng vọt, nhưng ánh mắt rất sáng. Nó hỏi: “Tỷ là thần tiên phải không?”
Hoa Khai hơi sửng sốt, nhưng thấy trong đôi mắt long lanh của đứa bé chứa đầy hy vọng, nàng không đành lòng dập tắt, liền gật nhẹ đầu.
Hai mắt đứa bé sáng lên, lập tức ngoác miệng cười. Nó hưng phấn hỏi nàng: “Vậy tỷ tới cứu mọi người phải không? Tỷ sẽ dẫn dân làng đi khỏi nơi này đúng không?”
Hoa Khai không nói gì, chỉ ngồi xuống ôm lấy đứa bé. Nàng lấy toàn bộ lương khô mang theo nhét vào lòng nó, xoa xoa đầu nó rồi buông ra, xoay người rời đi.
Đứa bé tay bưng mớ lương khô, ngây người dõi theo bóng thần tiên tỷ tỷ càng lúc càng xa.
Qua một lúc lâu, đứa bé kia mới hồi phục tinh thần, líu ríu chạy theo Hoa Khai. Nó cố gắng chạy mãi, lương khô trong lòng rớt xuống hết cũng không thèm nhặt lên.
Hoa Khai cảm giác được có người đi theo mình, liền dừng bước xoay người lại. Đứa bé đuổi tới, nó vội vàng nắm chặt lấy góc váy của Hoa Khai. Gương mặt đầy nước mắt, nó sợ hãi khóc: “Thần tiên tỷ tỷ, xin tỷ hãy mang đệ và mọi người cùng đi với… Nơi này có yêu quái ăn thịt người…”
Ngực Hoa Khai hơi khó chịu. Từ trên người đứa trẻ này, nàng nhìn thấy bóng dáng của Bạch Thảo, và cả chính mình ngày xưa. Hoa Khai ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng vuốt đầu đứa trẻ, nói: “Đừng sợ, thần tiên tỷ tỷ sẽ đuổi yêu quái đi chỗ khác, không để nó hại người nữa.”
“Thật sao?” Đứa bé ngừng khóc, nhưng vẫn còn thút thít, hai mắt rưng rưng.
Đúng lúc đó, từ xa xa truyền đến tiếng gọi lo lắng, vội vã, là giọng của một nữ nhân.
Hoa Khai dùng tay áo lau gương mặt lấm lem của đứa bé, sờ sờ đầu nó nói: “Thật mà, không phải sợ. Trở về đi, mẫu thân đệ còn đang chờ đệ đó.” Nói xong, nàng xoay người đứa trẻ về hướng nó vừa chạy tới, nhẹ nhàng vỗ vỗ vào lưng, giục nó: “Đi nhanh đi.”
Lúc này đứa trẻ mới luyến tiếc bước đi, chậm chạp từng bước một, thấy thần tiên tỷ tỷ vẫn đứng đó nhìn nó, mới đi tiếp hai bước nữa. Trên đường bắt gặp lương khô vừa bị rớt mất, nó liền cúi xuống nhặt lên, phủi phủi mấy cái rồi bỏ vào miệng cắn một cái.
Hoa Khai cũng vừa xoay người rời đi.
Đứa bé cứ ngậm lương khô trong miệng, nhìn theo bóng thần tiên tỷ tỷ đi về phía núi sâu. Mãi đến lúc mẫu thân nó hớt ha hớt hải chạy đến, mắng hai câu rồi túm chặt tay nó kéo về nhà.
Nó nói: “Mẹ, có thần tiên.”
“Yêu quái thì có. Lần sau không được chạy lung tung! Con có biết vừa rồi mẹ lo lắng biết bao nhiêu không?”
“Có thần tiên thật mà mẹ! Mẹ xem…” Đứa bé giơ lên bánh lương khô đã bị nó ăn mất một góc: “Cái này là thần tiên tỷ tỷ cho con.”
Nữ nhân cầm lấy lương khô, rồi lại quay đầu nhìn theo bóng dáng thấp thoáng trắng như tuyết sắp mất hút vào núi sâu u ám. “Chắc là có thần tiên thật.”
Hoa Khai vào trong núi, cứ mỗi bước tiến về phía trước thì quang cảnh đáng sợ như ma quỷ liền theo sau nàng, không ngừng nhảy múa trong đầu, nhắc nhở tội lỗi của nàng. Ngay cả bàn tay đang cầm trường kiếm cũng run rẩy.
Hoa Khai vẫn còn nhớ nơi nàng đã chôn thi hài Bạch Thảo. Nàng từng nói, nhất định nàng sẽ trở về dẫn hắn đi.
Cổ thụ cao lớn, thân cành thô to hướng thẳng lên trời đều bị tuyết trắng vùi lấp, một màu xám trắng trải dài ngút tầm mắt. Tuyết bị đạp dưới chân lạo xạo vang lên. Ở cái nơi trống trải bát ngát thế này, thật khiến người ta cảm thấy cô đơn, bất lực.
Đi không biết bao lâu, Hoa Khai dừng lại ở một nơi, gương mặt đã nhuốm đầy nước mắt. Nàng run run người, vô lực quỳ xuống, dù làm cách nào cũng không ngăn được dòng lệ tuôn tràn. Ngực như bị ai bóp chặt, nói không thành lời, kêu không ra tiếng. Trong miệng thì thào một cái tên, không ngừng lặp đi lặp lại, âm thanh càng lúc càng lớn. Cuối cùng, dường như nàng dùng hết sức lực toàn thân, hướng về phía chân trời thăm thẳm vừa gào khóc vừa gọi tên người kia, đau đến xé lòng. Âm thanh vang vọng khắp chín tầng mây đều là tên người nọ, rồi mới từ từ tan biến vào thinh không.
Một con quạ đen không biết từ đâu bay tới, xẹt qua trên đầu kêu “Yaa.a.a” một tiếng, bay về phương xa.
Nó từ đâu bay đến?
“Ai đến đó?” Ông lão nhỏ giọng hỏi thê tử.
Trần Tú Trinh đỡ ông ngồi dậy, nói: “Là một cô nương qua đường.”
Trần Tú Trinh giúp ông lão sửa gối đầu sau lưng. Ông ho nhẹ hai tiếng, ngước mắt lên nhìn, vừa vặn thấy Hoa Khai đang đứng ở cạnh cửa, trong nhất thời sững sờ không lên tiếng được, vẻ mặt kinh hoàng như đang gặp quỷ. Sau đó không lâu lại là gào khóc. Trần Tú Trinh hoảng sợ, trong một lúc không biết nên làm sao mới phải.
Ông lão nước mắt, nước mũi giàn giụa. Cánh tay gầy như que củi, run run chỉ vào Hoa Khai nói: “Nó đã trở về, đã trở về rồi… Cuối cùng nó cũng tới tìm chúng ta lấy mạng…”
Trần Tú Trinh quay đầu nhìn thoáng qua Hoa Khai, rồi quay lại nhìn ông lão nói: “Nàng chỉ là một cô nương đi ngang qua đây. Ông đang nói gì vậy? Ai trở về? Ai lấy mạng ai?”
Ông lão vẫn cứ khóc lớn, miệng một mực lặp đi lặp lại: “Sai rồi, sai lầm rồi… Không nên, không nên làm vậy…”
Trong lòng Trần Tú Trinh lại càng sợ hãi.
Mãi đến khi Mạnh Đại Duyên vừa khóc vừa nói: “Hoa Khai à… Chúng ta không nên…” Trần Tú Trinh mới hiểu được, lập tức quay đầu, hoảng sợ nhìn Hoa Khai vẫn đứng yên cạnh cửa. Nhìn đôi mắt kia xem, hàng chân mày kia xem, không phải là đứa con gái bọn họ nhận nuôi, thì còn có thể là ai? Thoáng cái bà cũng xụi lơ ở cạnh giường, gương mặt vàng vọt như tờ giấy.
Hoa Khai cụp mắt. Nàng vốn định cứ vậy mà đi, nhưng do dự một chút vẫn bước vào, đứng cách giường khoảng một hai trượng. “Hai người không cần sợ, ta là người, sẽ không làm gì ông bà.”
Mạnh Đại Duyên dừng khóc. Một hồi lâu Trần Tú Trinh mới tiến lên, nhưng hai chân vẫn mềm nhũn như trước, cứ lết dưới đất, không tin hỏi: “Cô nương thật sự là Hoa Khai?”
Hoa Khai nhẹ nhàng gật đầu. “Năm đó ta không chết, ra khỏi được ngọn núi lớn, có người cứu ta. Sau đó có một đạo sĩ nhận ta làm đồ đệ cho đến bây giờ.” Trong khoảng thời gian đó có bao nhiêu thống khổ không nói hết được, cũng không cần nói nữa.
“Vậy… vậy bây giờ cô về đây làm gì? Báo… Báo thù phải không?”
Hoa Khai cười khổ. Nhiều năm đã qua, hôm nay nhìn bọn họ già đi như vậy, thật sự nàng không oán hận nổi. “Ta chưa bao giờ nghĩ phải báo thù. Năm đó lúc ta còn quấn tã, chính là hai người đã nhặt được. Sau đó còn có ơn dưỡng dục mười năm, sao ta dám nói báo thù? Chỉ là ta bất hiếu, không thể nào xem hai người như cha mẹ được.”
Mạnh Đại Duyên dùng tay áo lau mặt, nhỏ giọng hỏi: “Còn cậu bé kia đâu?” Ông đã quên đứa bé ấy tên là gì, nhưng ông nghĩ nếu Hoa Khai có thể sống sót thì cậu bé kia chắc cũng có thể. Ít nhất có thể giảm bớt tội nghiệt của họ.
Đáng tiếc, đáp án của Hoa Khai không tốt như ông tưởng. Vẻ mặt Mạnh Đại Duyên vô cùng đau khổ. “Thật ra mấy năm qua ta luôn hối hận, nhất là nhìn thấy thôn làng này trở thành tình trạng như bây giờ. Ngày nào ta cũng cảm thấy áy náy không thôi, đêm nào cũng không thể an giấc.” Ông sợ chết, nếu không sẽ không gào khóc khi nhìn thấy Hoa Khai.
Lúc này Trần Tú Trinh mới bình tĩnh được một chút. Bà chống tay ngồi xuống mép giường, sắc mặt vẫn trắng bệch. Bà gục đầu xuống, hai bên tóc mai bạc trắng cũng rũ theo, dáng vẻ vô cùng đau khổ: “Chúng ta đã bị báo ứng. Tất cả mọi người đều bị báo ứng.”
“Thôn này, vì sao lại biến thành như vậy?” Hoa Khai hỏi.
Trần Tú Trinh ngẩng đầu, ánh mắt mông lung nhớ lại chuyện xưa, vừa khóc vừa nói: “Đều tại tên giả đạo sĩ kia, tất cả đều do hắn gây ra!”
“Đạo sĩ nào?”
“Chính là cái tên đạo sĩ thối mang lại tai họa đó. Chúng ta tin lời hắn, đem con và cậu bé kia vào trong núi làm tế phẩm… Nhưng đến năm thứ hai, chúng ta không làm như vậy nữa, vẫn cúng tế súc vật và lương thực bình thường như lúc trước. Phải dùng người làm tế phẩm, chúng ta thật sự không muốn. Nhưng những chuyện kiểu này, khi đã bắt đầu thì không thể dừng lại. Bởi vì năm thứ hai không có người tế, nên đêm đó mọi người đều nghe thấy âm thanh rống giận từ trong núi truyền ra, kêu ‘Người đâu! Người đâu!’. Chúng ta rất sợ hãi, hôm sau mang hai đứa trẻ vào trong núi. Vài năm sau đó chúng ta đều cúng tế, nhưng mọi người phát hiện không phải năm nào cũng được mùa. Có một năm, chúng ta không đem trẻ con lên núi làm tế phẩm. Sau đó không lâu, trời đổ mưa to, đêm đó sơn thần trong núi ra thôn ăn thịt người, hơn mười người. Sau này chúng ta không dám làm phật ý sơn thần nữa, nhưng mà… ai có thể dứt ruột bỏ con mình được chứ? Chúng ta rất sợ, có lẽ ông trời trừng phạt tội nghiệt của chúng ta. Thời gian về sau đất đai không trồng trọt được, không còn kế sinh nhai. Rất nhiều người đã bỏ đi, dần dần chỉ còn lại bao nhiêu đây.”
“Vì sao những người còn lại không cùng nhau rời khỏi đây?”
Mạnh Đại Duyên tiếp lời: “Đi vào thì dễ, đi ra mới khó! Thôn này bốn phía đều là núi, trùng trùng điệp điệp, ngọn này nối tiếp ngọn kia, cũng không biết sơn thần đó thường lui tới chỗ nào. Nghe nói rất nhiều người còn chưa rời khỏi được nơi này, giữa đường đều bị ăn thịt. Những người còn lại, không ai dám ra ngoài, đành ở lại đây, sống thêm được năm nào hay năm ấy.”
“Con yêu đó vốn không phải là sơn thần, nó chính là yêu quái.”
Mạnh Đại Duyên và Trần Tú Trinh đều không nói gì, nhưng trong lòng cũng hiểu rõ. Họ nói là sơn thần, chẳng qua chỉ là tự lừa dối bản thân. Dùng người hiến tế cho sơn thần, ít ra cảm giác tội lỗi trong lòng sẽ ít hơn so với hiến cho yêu quái.
“Vì sao trên đường ta đến đây, chỉ thấy toàn phụ nữ và trẻ con, không thấy có nam đinh?”
“Mùa màng thất bát, không thu hoạch được gì nên không có lương thực. Trời lại đổ tuyết lớn, không còn cái ăn nên hai ngày trước bọn họ đã tập trung lại thành một đội, đến sườn núi săn xem có thể kiếm chút thức ăn không, chứ cũng không dám đi sâu vào trong núi.”
Mạnh Đại Duyên ngẩng đầu nhìn Hoa Khai, ánh mắt bà tỏ rõ áy náy. “Con à, con không nên quay về đây! Nếu đã đi rồi sao không đi cho thật xa? Vì sao lại còn quay về làm chi!”
Hoa Khai không nói gì, nhưng trong lòng lại nghĩ đến một câu: nhân quả tuần hoàn, báo ứng không sai một ly.
Nàng cũng không muốn nấn ná lâu trong nhà nên liền cầm kiếm rời đi. Trước khi đi, Hoa Khai nói với vợ chồng Mạnh Đại Duyên nàng muốn vào trong núi. Sau này yêu quái kia sẽ không đả thương ai nữa, còn nàng cũng sẽ không quay lại nơi này.
Mãi đến khi Hoa Khai sắp ra khỏi cổng, Trần Tú Trinh mới như vừa tỉnh từ trong giấc mộng, hoàn hồn đuổi theo. Bà kéo tay áo Hoa Khai, chần chừ hỏi nàng: “Con à, con muốn đi đâu?”
“Lúc ta rời khỏi đây, được theo một vị đạo sĩ học đạo. Trảm yêu trừ ma là việc ta nên làm.”
Bà lão hơi khó xử. Bà luôn mong thôn làng có thể được an bình như ngày xưa, nhưng bà cũng không muốn đứa con gái mà bà nuôi dưỡng đi nộp mạng. Cuối cùng bà do dự nói: “Nguy hiểm lắm… Con đừng đi.”
Hoa Khai cười nhẹ, “Ta sẽ không sao. Giết con yêu quái kia xong ta sẽ rời khỏi đây, đến một nơi khác tu hành. Ta sẽ không chết đâu.”
Lúc này bà lão mới do dự thả tay nàng ra. “Vậy… con nhớ phải cẩn thận. Con yêu quái đó lợi hại lắm.”
Hoa Khai nhẹ nhàng vỗ vỗ bàn tay nhăn nheo của bà lão, nói: “Bảo trọng.” Rồi lập tức lên đường.
Ra gần tới đầu thôn, có một đứa bé rụt rè nhút nhát, lại đang đứng ở giữa lộ, chặn đường Hoa Khai.
Đứa bé gầy yếu, người nhỏ xíu như mới có mấy tuổi, tóc cột thành một chỏm trên đầu, sắc mặt vàng vọt, nhưng ánh mắt rất sáng. Nó hỏi: “Tỷ là thần tiên phải không?”
Hoa Khai hơi sửng sốt, nhưng thấy trong đôi mắt long lanh của đứa bé chứa đầy hy vọng, nàng không đành lòng dập tắt, liền gật nhẹ đầu.
Hai mắt đứa bé sáng lên, lập tức ngoác miệng cười. Nó hưng phấn hỏi nàng: “Vậy tỷ tới cứu mọi người phải không? Tỷ sẽ dẫn dân làng đi khỏi nơi này đúng không?”
Hoa Khai không nói gì, chỉ ngồi xuống ôm lấy đứa bé. Nàng lấy toàn bộ lương khô mang theo nhét vào lòng nó, xoa xoa đầu nó rồi buông ra, xoay người rời đi.
Đứa bé tay bưng mớ lương khô, ngây người dõi theo bóng thần tiên tỷ tỷ càng lúc càng xa.
Qua một lúc lâu, đứa bé kia mới hồi phục tinh thần, líu ríu chạy theo Hoa Khai. Nó cố gắng chạy mãi, lương khô trong lòng rớt xuống hết cũng không thèm nhặt lên.
Hoa Khai cảm giác được có người đi theo mình, liền dừng bước xoay người lại. Đứa bé đuổi tới, nó vội vàng nắm chặt lấy góc váy của Hoa Khai. Gương mặt đầy nước mắt, nó sợ hãi khóc: “Thần tiên tỷ tỷ, xin tỷ hãy mang đệ và mọi người cùng đi với… Nơi này có yêu quái ăn thịt người…”
Ngực Hoa Khai hơi khó chịu. Từ trên người đứa trẻ này, nàng nhìn thấy bóng dáng của Bạch Thảo, và cả chính mình ngày xưa. Hoa Khai ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng vuốt đầu đứa trẻ, nói: “Đừng sợ, thần tiên tỷ tỷ sẽ đuổi yêu quái đi chỗ khác, không để nó hại người nữa.”
“Thật sao?” Đứa bé ngừng khóc, nhưng vẫn còn thút thít, hai mắt rưng rưng.
Đúng lúc đó, từ xa xa truyền đến tiếng gọi lo lắng, vội vã, là giọng của một nữ nhân.
Hoa Khai dùng tay áo lau gương mặt lấm lem của đứa bé, sờ sờ đầu nó nói: “Thật mà, không phải sợ. Trở về đi, mẫu thân đệ còn đang chờ đệ đó.” Nói xong, nàng xoay người đứa trẻ về hướng nó vừa chạy tới, nhẹ nhàng vỗ vỗ vào lưng, giục nó: “Đi nhanh đi.”
Lúc này đứa trẻ mới luyến tiếc bước đi, chậm chạp từng bước một, thấy thần tiên tỷ tỷ vẫn đứng đó nhìn nó, mới đi tiếp hai bước nữa. Trên đường bắt gặp lương khô vừa bị rớt mất, nó liền cúi xuống nhặt lên, phủi phủi mấy cái rồi bỏ vào miệng cắn một cái.
Hoa Khai cũng vừa xoay người rời đi.
Đứa bé cứ ngậm lương khô trong miệng, nhìn theo bóng thần tiên tỷ tỷ đi về phía núi sâu. Mãi đến lúc mẫu thân nó hớt ha hớt hải chạy đến, mắng hai câu rồi túm chặt tay nó kéo về nhà.
Nó nói: “Mẹ, có thần tiên.”
“Yêu quái thì có. Lần sau không được chạy lung tung! Con có biết vừa rồi mẹ lo lắng biết bao nhiêu không?”
“Có thần tiên thật mà mẹ! Mẹ xem…” Đứa bé giơ lên bánh lương khô đã bị nó ăn mất một góc: “Cái này là thần tiên tỷ tỷ cho con.”
Nữ nhân cầm lấy lương khô, rồi lại quay đầu nhìn theo bóng dáng thấp thoáng trắng như tuyết sắp mất hút vào núi sâu u ám. “Chắc là có thần tiên thật.”
Hoa Khai vào trong núi, cứ mỗi bước tiến về phía trước thì quang cảnh đáng sợ như ma quỷ liền theo sau nàng, không ngừng nhảy múa trong đầu, nhắc nhở tội lỗi của nàng. Ngay cả bàn tay đang cầm trường kiếm cũng run rẩy.
Hoa Khai vẫn còn nhớ nơi nàng đã chôn thi hài Bạch Thảo. Nàng từng nói, nhất định nàng sẽ trở về dẫn hắn đi.
Cổ thụ cao lớn, thân cành thô to hướng thẳng lên trời đều bị tuyết trắng vùi lấp, một màu xám trắng trải dài ngút tầm mắt. Tuyết bị đạp dưới chân lạo xạo vang lên. Ở cái nơi trống trải bát ngát thế này, thật khiến người ta cảm thấy cô đơn, bất lực.
Đi không biết bao lâu, Hoa Khai dừng lại ở một nơi, gương mặt đã nhuốm đầy nước mắt. Nàng run run người, vô lực quỳ xuống, dù làm cách nào cũng không ngăn được dòng lệ tuôn tràn. Ngực như bị ai bóp chặt, nói không thành lời, kêu không ra tiếng. Trong miệng thì thào một cái tên, không ngừng lặp đi lặp lại, âm thanh càng lúc càng lớn. Cuối cùng, dường như nàng dùng hết sức lực toàn thân, hướng về phía chân trời thăm thẳm vừa gào khóc vừa gọi tên người kia, đau đến xé lòng. Âm thanh vang vọng khắp chín tầng mây đều là tên người nọ, rồi mới từ từ tan biến vào thinh không.
Một con quạ đen không biết từ đâu bay tới, xẹt qua trên đầu kêu “Yaa.a.a” một tiếng, bay về phương xa.
Nó từ đâu bay đến?
Bình luận truyện