Một Phát Một Mạng
Chương 29
Franklin đẩy lui chiếc ghế để trống chỗ cho mọi người vây quanh màn hình. Reacher và Helen đứng kề vai bên nhau. Không còn thù địch. Chỉ có niềm hào hứng của sự truy đuổi.
Phần lớn tài liệu bao gồm phần mở đầu được mã hóa và thông tin nguồn. Chữ, số, thời gian, nguồn gốc. Thông điệp chính rất ngắn. Hai tháng trước, bà Oline Anne Archer đã nộp một bản báo cáo về người mất tích liên quan đến chồng bà. Tên của ông là Edward Stratton Archer. Ông đã rời ngôi nhà họ sống với nhau để đi làm sớm trong một ngày thứ Hai bình thường, và vẫn chưa trở về ở thời điểm cuối ngày thứ Tư, là khi bản báo cáo được viết.
Helen hỏi, “Ông ta vẫn đang mất tích à?”
Franklin nói, “Đúng vậy.” Ông chỉ vào một chữ A nằm giữa mớ mã số trên đầu màn hình. “Nó vẫn còn hiệu lực.”
Reacher nói, “Vậy chúng ta đi hỏi chuyện những người bạn của Oline. Chúng ta cần thêm thông tin ở họ.”
Franklin hỏi, “Ngay bây giờ à?”
Reacher nói, “Chúng ta chỉ có mười hai giờ thôi. Không có thời gian để bỏ phí đâu.”
Franklin ghi lại tên và địa chỉ của người đồng nghiệp và người hàng xóm của Oline. Ông chuyền mảnh giấy cho Ann Yanni vì cô là người trả lương cho ông.
Ông nói, “Tôi sẽ ở lại đây. Tôi sẽ xem xem ông chồng có xuất hiện trong các cơ sở dữ liệu không. Chuyện này có thể là một sự tình cờ. Có thể ông ta có một bà vợ ở mỗi tiểu bang. Chuyện này không phải là lần đầu.”
Reacher nói, “Tôi không tin vào những chuyện tình cờ. Do đó đừng phí thì giờ. Thay vì vậy anh hãy tìm giúp tôi một số điện thoại. Hắn tên là Cash. Cựu Thủy quân. Hắn làm chủ cái trường bắn mà James Barr đến. Ở dưới Kentucky. Gọi hắn cho tôi.”
“Nhắn gì?”
“Nói tên của tôi. Bảo hắn vác xác ngay lên chiếc Humvee. Bảo hắn lái lên đây ngay tối nay. Bảo hắn là có một giải Invitational mới đang diễn ra.”
“Giải Invitational ư?”
“Hắn sẽ hiểu. Bảo hắn mang theo khẩu M24. Và ống ngắm ban đêm. Và bất cứ thứ gì khác mà hắn vớ được quanh đó.”
Reacher đi theo Ann Yanni và Helen Rodin xuống cầu thang. Họ cùng vào chiếc xe Saturn của Helen, hai người phụ nữ ngồi trước, Reacher ngồi ghế sau. Reacher nghĩ chắc mọi người đều thích chiếc Mustang hơn, nhưng nó chỉ có hai chỗ.
Helen hỏi, “Đi đâu trước đây?”
Reacher hỏi lại, “Nơi nào gần hơn?”
“Người đồng nghiệp.”
“OK, tới bà ta trước.”
Lưu thông chậm. Các con đường bị cắt xé và xe thi công ra ra vào vào các khu vực đang xây dựng. Reacher liếc nhìn đồng hồ và nhìn ra cửa sổ. Ánh nắng chiều đang nhạt dần. Chiều tối đang đến. Thời gian đang nhích dần đi.
Người đồng nghiệp sống trong một khu ngoại ô đơn giản ở phía Đông thành phố. Những con đường thẳng tắp trong khu dân cư chạy theo lối bàn cờ. Hai bên đường là những nông trại giản dị. Những ngôi nhà trong các khoảng đất nhỏ, cờ treo trên cột, đai vòng trên cửa nhà để xe, chảo ăng ten trên ống khói bằng gạch. Một số cây trồng trên vỉa hè có những dải ruy băng màu vàng đã bạc phếch buộc quanh. Reacher đoán rằng chúng biểu trưng cho tình đoàn kết với những người lính đang phục vụ ở nước ngoài. Trong cuộc xung đột nào đó, ông không biết chắc. Làm thế thì được gì, ông không hiểu. Ông đã phục vụ ở nước ngoài trong gần mười ba năm và chưa từng thấy ai quan tâm đến những thứ được buộc lên cây ở quê nhà. Chỉ cần có người trả lương, cung cấp thực phẩm, nước nôi, đạn dược, và các bà vợ ở nhà vẫn chung thủy, là đủ cho hầu hết bọn lính tráng hạnh phúc rồi.
Mặt trời đang hạ xuống sau lưng họ và Helen lái chậm, đầu cô chúi tới trước để dễ nhìn thấy trước số nhà. Cô thấy được địa chỉ cô cần và tạt vào lối dành cho xe vào rồi đậu lại sau một chiếc xe con. Chiếc xe còn mới. Reacher nhận ra hiệu xe đã thấy lúc đi bộ trên con đường bốn làn: Bảo đảm tốt nhất nước Mỹ!
Người đồng nghiệp là một người đàn bà mệt mỏi và phiền muộn độ ba mươi lăm tuổi. Chị ta mở cửa rồi bước ra ngoài hiên nhà, rồi kéo cánh cửa đóng lại sau lưng để ngăn tiếng động nghe như cả chục đứa trẻ đang đùa phá bên trong. Chị ta nhận ra Ann Yanni ngay lập tức. Thậm chí còn nhìn ra sau cô xem có đoàn quay phim không.
Chị ta hỏi, “Vâng?”
Helen Rodin nói, “Chúng tôi cần hỏi chuyện về Oline Archer.”
Người đàn bà không nói gì. Chị ta có vẻ muốn phản đối, như thể biết mình nên nghĩ rằng trò chuyện về những nạn nhân của thảm họa với các nhà báo là một điều vô vị. Nhưng rõ ràng tiếng tăm của Ann Yanni đã thắng được sự ngại ngùng của chị ta.
Chị ta nói, “Vâng. Quý vị cần biết điều gì nào? Oline là một người đáng quý và tất cả nhân viên trong văn phòng chúng tôi đều nhớ chị ấy vô cùng.”
Reacher nghĩ, Bản chất của sự ngẫu nhiên. Những cuộc xả súng bừa bãi luôn luôn trúng vào những người về sau được mô tả là họ rất đáng quý. Chẳng bao giờ có ai nói, Bà ta là đồ con chuột khốn khiếp và tôi mừng vì bà ta đã ngủm. Dù là ai làm thịt bà ta đi nữa thì kẻ đó đã làm ơn cho chúng tôi. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra.
Helen nói, “Chúng tôi cần biết đôi điều về chồng của bà ấy.”
Người đàn bà nói, “Tôi chưa bao giờ gặp chồng chị ấy.”
“Oline có kể về ông ấy không?”
“Chỉ chút ít, tôi nghĩ vậy. Thỉnh thoảng thôi. Tên ông ấy là Ted, tôi nghĩ vậy.”
“Ông ấy làm nghề gì?”
“Ông ấy kinh doanh. Tôi không rõ kinh doanh về ngành gì.”
“Oline có kể điều gì về chuyện ông ta mất tích không?”
“Mất tích?”
“Oline báo ông ta bị mất tích từ hai tháng trước.”
“Tôi biết chị ấy có vẻ lo lắng ghê lắm. Tôi nghĩ rằng ông ta gặp khó khăn trong việc làm ăn. Thật ra, tôi nghĩ ông ta đã gặp khó khăn trong vòng một hai năm nay. Đó là lý do vì sao Oline đi làm lại.”
“Không phải trước bà ấy vẫn đi làm sao?”
“Ô, không, thưa cô. Tôi nghĩ ngày xưa chị ấy có đi làm, rồi chị ấy nghỉ việc. Nhưng chị ấy phải đi làm trở lại. Do hoàn cảnh. Đi ngược hoàn toàn với con đường lên voi.”
Reacher nói, “Nghĩa là xuống chó.”
Người đàn bà nói, “Vâng, đại loại thế. Chị ấy cần công việc, vì lý do tài chính. Tôi nghĩ chị ấy cảm thấy ngượng ngùng về việc ấy.”
Ann Yanni hỏi, “Nhưng bà ấy không kể gì kỹ hơn sao?”
Người đàn bà nói, “Chị ấy là người rất kín đáo.”
“Điều này quan trọng lắm.”
“Chị ấy hay lơ đãng. Trước đây chị ấy không như thế. Khoảng một tuần trước khi chết, chị ấy đã đi đâu biệt tăm gần cả một buổi chiều. Trước đây chị ấy cũng không làm như thế bao giờ.”
“Chị có biết bà ấy đang làm gì không?”
“Không, tôi thật sự không biết.”
“Bất cứ điều gì mà chị nhớ được về chồng của bà ấy đều rất có ích đối với chúng tôi.”
Người đàn bà lắc đầu. “Tên ông ấy là Ted. Đó là tất cả những gì tôi có thể biết chắc.”
Helen nói, “Vâng, cám ơn chị.”
Cô quay đi và bước trở lại xe. Yanni và Reacher đi theo. Người đàn bà ở ngoài hiên nhìn chằm chằm theo họ, thất vọng, như thể chị ta vừa trượt một cuộc thử giọng.
* * *
Ann Yanni nói, “Gạch bỏ số một. Nhưng đừng lo. Đời luôn như vậy. Nhiều lúc tôi nghĩ chúng ta nên cứ thế bỏ qua người đầu tiên trên danh sách. Họ chẳng bao giờ biết chuyện gì cả.”
Reacher cảm thấy không thoải mái ở ghế sau xe. Chiếc túi quần kẹt bên dưới mông và cạnh của một đồng xu đâm vào đùi ông. Ông xoay qua xoay lại rồi lấy nó ra. Đó là một đồng hai mươi lăm xu, mới toanh và sáng giới. Ông ngắm nhìn nó trong một phút rồi bỏ nó vào túi kia.
Ông nói, “Tôi đồng ý. Lẽ ra chúng ta nên bỏ qua bà ta. Lỗi của tôi. Theo lôgic một đồng nghiệp sẽ không biết gì nhiều. Người ta thường kín đáo với các đồng nghiệp. Nhất là những người giàu gặp phải lúc khó khăn.”
Yanni nói, “Người hàng xóm sẽ biết nhiều hơn.”
Helen nói, “Chúng ta hy vọng vậy.”
Họ bị kẹt trong dòng xe đi ngang thị trấn. Họ đi từ vùng ngoại thành hướng Đông qua ngoại thành hướng Tây, di chuyển thật chậm. Reacher nhìn đồng hồ rồi lại nhìn qua cửa sổ. Mặt trời đã xuống rất thấp ở đường chân trời trước mặt họ. Phía sau họ trời đã chạng vạng tối.
Thời gian đang nhích đi.
Rosemary nhúc nhích trên ghế và cố vùng khỏi lớp băng keo quấn quanh hai cổ tay cô.
Cô nói, “Chúng tôi biết Charlie là kẻ làm vụ này.”
The Zec lặp lại, “Charlie?”
“Người được xem là bạn của anh tôi.”
The Zec nói, “Chenko. Tên hắn là Chenko. Đúng vậy, hắn làm đấy. Nói về chiến thuật thì đó là kế hoạch của hắn. Hắn thực hiện rất tốt. Tất nhiên, vóc dáng của hắn rất có lợi. Hắn có thể mang giày của mình bên trong giày của anh cô. Hắn phải xắn quần và ống tay áo mưa lên.”
Rosemary nói, “Nhưng chúng tôi biết.”
“Nhưng ai biết? Và chính xác là họ góp được phần gì đây?”
“Helen Rodin biết.”
“Cô sẽ cho cô ta thôi làm luật sư cho mình. Cô sẽ chấm dứt quyền đại diện của cô ta. Cô Rodin sẽ không thể lặp lại bất cứ điều gì cô ta biết bởi mối quan hệ của hai người được bảo mật. Linsky, ta nói thế có đúng không?”
Linsky gật đầu. Hắn ngồi trên sofa cách đó hai mét, dựa người trong một tư thế kỳ quặc để thư giãn cái lưng.
Hắn nói, “Đó là luật. Ở Mỹ này.”
Rosemary nói, “Franklin biết. Và Ann Yanni nữa.”
The Zec nói, “Tin đồn, các giả thuyết, sự suy đoán, lời ám chỉ. Hai người đó không có chứng cứ thuyết phục. Và cũng không có uy tín. Các thám tử tư và nhà báo chính xác là loại người bán rao các giải thích kỳ quặc cho những sự kiện như thế này. Người ta có thể lường trước việc đó. Không có nó mới là bất bình thường. Rõ ràng là có một vị tổng thống ở xứ sở này đã bị giết hơn bốn mươi năm trước, và những người như họ vẫn khăng khăng rằng sự thật vẫn chưa được khám phá.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Lời khai của cô sẽ là tối hậu. Cô sẽ đến chỗ Rodin và sẽ tuyên thệ để khai về việc anh của cô đã lên kế hoạch như thế nào. Về việc hắn đã kể với cô những gì hắn dự định. Một cách chi tiết. Thời gian, địa điểm, mọi thứ. Cô sẽ nói rằng cô đã không coi những chuyện đó là nghiêm túc, và khiến cô giờ đây ân hận một cách thành thực và vĩnh viễn. Rồi một lý do không đáng kể nào đó để tay luật sư công ngó đến bằng chứng của cô một cái, và tuyên bố anh cô có tội, rồi mọi chuyện sẽ chấm dứt.”
Rosemary nói, “Tôi sẽ không làm chuyện đó.”
The Zec nhìn thẳng vào cô.
Lão nói, “Cô sẽ làm. Tôi hứa với cô điều đó. Hai mươi bốn giờ nữa cô sẽ van xin được làm thế. Cô sẽ phát rồ vì sợ rằng chúng tôi có thể đổi ý mà không để cho cô làm.”
Căn phòng trở nên im lặng. Rosemary liếc nhìn The Zec như thể cô có điều gì đó muốn nói. Rồi cô nhìn lảng đi nơi khác. Nhưng dù sao The Zec cũng trả lời cô. Lão đã nghe thấy thông điệp của cô rất lớn và rõ ràng.
Lão nói, “Không, chúng tôi sẽ không có mặt ở đó với cô khi cô cung khai. Nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ biết những gì cô nói với họ. Chỉ trong vài phút. Và đừng nghĩ đến chuyện rảo một vòng qua bến xe buýt. Thứ nhất là, chúng tôi sẽ giết anh cô ngay. Và thêm nữa, không có nơi nào trên thế giới này mà chúng tôi không thể tìm thấy cô.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Dù thế nào đi nữa, đừng tranh cãi. Không ích lợi gì. Và vô nghĩa. Cô sẽ nói với họ những gì chúng tôi bảo cô nói. Cô sẽ nói, cô biết mà. Cô sẽ thấy. Cô sẽ tha thiết được nói. Cô sẽ ao ước chúng tôi đã sắp xếp một cuộc hẹn sớm hơn cho cô. Ở tòa án. Cô sẽ dùng thời gian chờ đợi để quỳ xuống van xin một cơ hội để chứng tỏ cho chúng tôi thấy cô thuộc bài giỏi như thế nào. Chuyện thường sẽ xảy ra như thế. Chúng tôi rất giỏi trong những chuyện này. Chúng tôi đã được chân truyền từ các bậc sư phụ.”
Rosemary nói, “Anh của tôi bị chứng Parkinson.”
The Zec hỏi, “Đã khám khi nào?” vì lão đã biết câu trả lời.
“Nó đang phát triển.”
The Zec lắc đầu. “Chủ quan đến thế làm sao có ích được. Ai đảm bảo rằng nó không phải là một tình trạng tương tự giống do chấn thương mới đây gây ra? Nếu không, thì ai đảm bảo rằng tình trạng đó được tính là một cản trở thực sự? Khi bắn từ khoảng cách gần đến thế? Nếu tay luật sư bào chữa mang đến một tay chuyên viên, thì Rodin sẽ mang đến ba tay như thế. Ông ta sẽ tìm thấy những bác sĩ sẵn sàng tuyên thệ rằng Annie Oakley [38] nhỏ nhắn bị chứng Parkinson hành hạ từ ngày bà ấy mới ra đời kìa.”
[38]: Một tay thiện xạ nổi tiếng ở bang Ohio. Bà tên thật là Phoebe Moses, sinh năm 1860, một trong những ngôi sao trong đoàn Wild West Show của Buffalo Bill.
Rosemary nói, “Reacher biết.”
“Thằng lính ấy à? Thằng lính sẽ chết vào sáng mai. Chết hay bỏ chạy.”
“Ông ấy sẽ không bỏ chạy.”
“Vậy thì hắn sẽ chết. Hắn sẽ tới để giải thoát cho cô tối nay. Chúng tôi sẽ sẵn sàng chào đón hắn.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Trước đây từng có những kẻ tìm đến chúng tôi vào ban đêm. Nhiều lúc, nhiều nơi. Và cho tới nay thì chúng tôi vẫn ở đây. Da [39], Linsky?”
[39]: Tiếng Nga: Đúng không.
Linsky lại gật đầu.
Hắn nói, “Chúng ta vẫn ở đây.”
The Zec hỏi, “Khi nào thì hắn sẽ đến?”
Rosemary đáp, “Tôi không biết.”
Linsky nói, “Bốn giờ sáng. Hắn là người Mỹ. Chúng được huấn luyện rằng bốn giờ sáng là thời gian tốt nhất cho một cuộc tấn công bất ngờ.”
“Theo hướng nào?”
“Tấn công từ hướng Bắc là hợp lý nhất. Nhà máy nghiền đá sẽ che chắn cho việc chuẩn bị của hắn và chỉ bắt hắn vượt qua một khoảng trống hai trăm thước. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ lừa chúng ta ở đó. Hắn sẽ tránh hướng Bắc, bởi vì hắn biết đó là hướng tốt nhất.”
The Zec nói, “Không phải từ hướng Tây.”
Linsky lúc lắc đầu. “Tôi đồng ý. Không thể đi thẳng theo lối xe vào. Hướng đó quá thẳng và trống trải. Hắn sẽ đến từ hướng Nam hay hướng Đông.”
The Zec nói với hắn, “Điều Vladimir vào với Sokolov. Bảo chúng nó quan sát hướng Nam và hướng Đông thật cẩn thận. Nhưng nói chúng để ý hướng Bắc và hướng Tây luôn. Cả bốn hướng phải được giám sát liên tục để đề phòng. Rồi điều Chenko mang súng lên hành lang tầng trên. Hắn có thể sẵn sàng triển khai đến bất cứ cửa sổ nào cần thiết. Với Chenko, chỉ cần một phát là đủ.”
Rồi lão quay lại với Rosemary Barr.
Lão nói với cô, “Trong lúc này chúng tôi sẽ để cô ở một nơi an toàn. Bài phụ đạo của cô sẽ bắt đầu ngay khi thằng lính được chôn xong.”
Những khu ngoại ô phía Tây là nơi sinh sống của những người làm việc trong thành phố, do đó lưu thông suốt lối ra rất tệ. Những ngôi nhà đẹp đẽ hơn nhiều so với hướng Đông. Chúng đều hai tầng, đều khác nhau, đều được bảo trì tốt. Chúng đều thuộc những khu đất lớn, có hồ bơi và cảnh trí cây xanh khoảng khoát. Với những tia nắng cuối cùng sáng lên phía sau, chúng trông giống như các bức hình trong một tờ quảng cáo.
Reacher nói, “Đám tư sản keo kiệt.”
Yanni nói, “Thứ mà tất cả chúng ta đều ao ước.”
Reacher nói, “Họ sẽ không muốn nói. Không phải kiểu của họ.”
Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói với tôi.”
Họ từ từ lái qua nhà của Archer. Có một tấm biển đúc bằng kim loại treo trên dây xích mảnh ở dưới hộp thư: Ted và Oline Archer. Đằng xa phía sau nó, ngang qua một sân cỏ thoáng rộng, ngôi nhà trông khép kín, tối và im lặng. Nó là một ngôi nhà lớn kiểu Tudor [40]. Những thanh xà nhà màu nâu u ám, vữa màu kem. Nhà để xe đủ cho ba chiếc. Reacher nghĩ, Không có ai ở nhà.
[40]: Tên một vương triều của nước Anh.
Người hàng xóm mà họ đang tìm hiện sống ở bên kia đường, cách một lô đất về hướng Bắc. Nhà của bà ta khoảng cùng cỡ với nhà của Archer nhưng được dựng theo kiểu Ý. Những điểm nhấn bằng đá, những ngọn tháp nhỏ có lỗ châu mai, những mái hiên che nắng mờ tối trên các cửa sổ tầng trệt quay về hướng Nam. Ánh nắng chiều đang nhòa dần vào tối và đèn đang thắp lên phía sau các cửa sổ phủ rèm. Cả con phố trông ấm cúng, ngơi nghỉ, yên vắng, và rất thỏa mãn với chính mình. Reacher nói, “Họ ngủ bình yên trên giường vì những tay dữ tợn luôn túc trực trong đêm để giáng vũ lực vào những kẻ muốn làm hại họ.”
Yanni hỏi, “Anh cũng đọc George Orwell [41] à?”
[41]: Nhà văn người Anh, “Họ ngủ bình yên trên giường...” là biến thể của một câu thường được gán cho Orwell.
Reacher đáp, “Tôi có học đại học. Theo đúng định nghĩa thì West Point là một trường đại học.”
Yanni nói, “Cái trật tự xã hội đang hiện hữu là một sự bịp bợm và những niềm tin được nó ca tụng phần lớn là ảo tưởng.”
Reacher nói, “Không một kẻ biết suy nghĩ nào sống trong một xã hội như xã hội của chúng ta mà không muốn thay đổi nó.”
Helen nói, “Tôi tin rằng những người này hoàn toàn là những người tốt.”
“Nhưng liệu họ có nói với chúng ta không?”
Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói.”
Helen lái xe vào một lối đi dài trải đá vôi và đỗ lại khoảng hai mươi bộ phía sau một chiếc xe thể thao đa dụng ngoại nhập có những bánh lớn bằng crôm. Cánh cửa trước của ngôi nhà làm bằng gỗ sồi xám rất cổ, có đai sắt với những đầu đinh to như những trái bóng chơi gôn. Nó tạo cảm giác đi qua nó là có thể bước thẳng vào thời Phục hưng.
Reacher nói, “Tư hữu là trộm cắp.”
“Proudhon [42]. Tư hữu đáng được khát khao, là một điều thiện tích cực trên trần thế.”
Reacher nói, “Abraham Lincoln. Trong bản Thông điệp liên bang đầu tiên khi ông làm Tổng thống.”
[42]: “Tư hữu là trộm cắp”: câu trích trong “Tư hữu là gì?” (1840) của Oierre-Joshep Proudhon.
Trên cửa có một chiếc vòng gõ cửa bằng sắt nằm trong miệng một con sư tử. Helen nâng nó lên đập vào cánh cửa. Rồi cô thấy một nút chuông điện ẩn, cô cũng bấm chuông luôn. Họ không nghe tiếng trả lời nào từ bên trong. Cánh cửa thì nặng, tường thì dày. Helen bấm chuông thêm lần nữa, và khi cô còn chưa nhấc ngón tay ra khỏi nút thì cánh cửa tách ra khỏi những dải chống gió bằng đồng dưới sàn và nâng lên như một hầm mộ. Một người đàn ông đang đứng sau cánh cửa, tay để trên nắm cửa bên trong.
Ông ta hỏi, “Vâng?” Ông trạc trên dưới bốn mươi, chắc nịch, thành đạt, chắc hẳn là thành viên của một câu lạc bộ chơi gôn, có thể là Elk, có thể là Rotary. Ông mặc quần nhung và áo len có nhiều hoa văn. Ông ta thuộc loại người vừa về đến nhà thì thay đồ ngay lập tức như một thói quen.
Helen hỏi, “Vợ ông có nhà không? Chúng tôi muốn nói chuyện với bà ấy về Oline Archer.”
Ông ta hỏi, “Về Oline?” Ông đang nhìn Ann Yanni.
Helen nói, “Tôi là luật sư.”
“Có chuyện gì để nói về Oline?”
Yanni nói, “Có thể có nhiều chuyện để nói hơn là ông nghĩ.”
“Cô không phải là luật sư.”
Yanni nói, “Tôi đến đây với tư cách một nhà báo. Nhưng không phải để kiếm một câu chuyện bên lề lâm ly. Không có gì là màu mè cả. Có thể có một vụ án oan. Vấn đề ở đây là thế.”
“Một vụ án oan theo kiểu nào?”
“Họ có thể đã bắt nhầm người trong vụ bắn tỉa. Đó là lý do tôi đến đây. Đó là lý do tất cả chúng tôi đến đây.”
Reacher quan sát người đàn ông. Ông ta đứng đó, giữ lấy cánh cửa, cố quyết định. Sau cùng ông ta chỉ thở dài và bước lui.
Ông ta nói, “Mời mọi người vào.”
Ai cũng sẽ nói.
Ông ta dẫn mọi người đi qua một hành lang sơn vàng im ắng đến một phòng khách. Căn phòng thật rộng và sạch bóng. Ghế bọc nhung, những chiếc bàn gỗ gụ nhỏ, lò sưởi bằng đá. Không có ti vi. Hẳn phải có một phòng riêng để xem ti vi. Một phòng nhỏ, hay một phòng chiếu phim riêng kiểu gia đình. Hay có lẽ họ không xem ti vi. Reacher thấy Ann Yanni đang cân nhắc tính toán các khả năng.
Người đàn ông nói, “Tôi đi gọi nhà tôi.”
Một phút sau ông ta quay lại với một người phụ nữ xinh xắn, trẻ hơn ông ta một chút. Bà ta mặc quần jeans ủi thẳng nếp và áo đan cùng màu vàng như trên các bức tường. Chân đi giày nhẹ. Không tất. Bà có kiểu tóc rất đắt tiền để trông như buông tự nhiên và rối tung vì gió. Bà ta có chiều cao trung bình và thân hình mảnh mai cho ta biết về những quyển sách ăn kiêng và khoảng thời gian đã bỏ ra trong các lớp aerobic.
Bà hỏi, “Chuyện gì đây?”
Helen nói, “Chuyện Ted Archer.”
“Ted? Tôi tưởng quý vị nói với ông nhà tôi là về Oline.”
“Chúng tôi nghĩ có thể có một sự liên hệ. Giữa tình cảnh của ông ấy và bà ấy.”
“Làm sao mà có sự liên hệ được? Chắc chắn những gì xảy đến cho Oline là hoàn toàn từ trên trời rơi xuống mà.”
“Có thể không phải vậy.”
“Tôi không hiểu.”
“Chúng tôi ngờ rằng Oline có thể là mục tiêu chính, được che đậy nhờ lẫn lộn vào bốn nạn nhân kia.”
“Không phải đó là việc của cảnh sát sao?”
Helen ngưng giây lát, “Ngay lúc này thì có vẻ cảnh sát hài lòng với những gì họ có được.”
Người phụ nữ liếc nhìn chồng.
Ông ta nói, “Vậy thì tôi không nghĩ rằng chúng tôi nên trao đổi gì về chuyện này.”
Yanni hỏi, “Không chút nào cả sao? Hay chỉ với tôi thôi?”
“Tôi không chắc rằng chúng tôi muốn lên ti vi.”
Reacher cười thầm. Mặt bên kia của đồng xu.
Yanni nói, “Đây chỉ là những thông tin bề sâu thôi. Có nêu tên ông bà hay không là hoàn toàn tùy thuộc ở hai người.”
Người phụ nữ ngồi xuống sofa, chồng bà ngồi kế bên, gần sát. Reacher lại cười thầm. Họ đã vô tình phỏng theo tư thế chuẩn cặp vợ chồng ngồi trên sofa luôn luôn sử dụng trong những cuộc phỏng vấn truyền hình. Hai gương mặt sát vào nhau, bố cục lý tưởng cho một cận cảnh. Yanni hiểu ngay điều đó và ngồi vào chiếc ghế bành đối diện với họ, ngồi ngay sát rìa, người ngả tới trước, cùi chỏ chống lên đầu gối, nét biểu cảm thân thiện và cởi mở hiện lên trên gương mặt cô. Helen ngồi xuống một chiếc ghế khác. Reacher bước tránh ra bên cửa sổ. Dùng một ngón tay dịch tấm rèm nhích ra. Bên ngoài trời tối như mực.
Thời gian đang nhích đi.
Yanni hỏi, “Xin kể cho chúng tôi biết về Ted Archer.” Một yêu cầu đơn giản, chỉ chín tiếng, nhưng giọng điệu cô lại nói rằng: Tôi nghĩ rằng ông bà là những người đặc biệt nhất trên đời và tôi rất mong được làm bạn của ông bà. Trong một thoáng, Reacher nghĩ rằng Yanni đã chọn nhầm nghề. Lẽ ra cô đã có thể làm một cảnh sát tuyệt giỏi.
Người phụ nữ nói, “Ted gặp khó khăn trong việc làm ăn.”
Yanni hỏi, “Có phải đó là lý do ông ta biến mất không?”
Bà ta nhún vai, “Đó là giả định ban đầu của Oline.”
“Nhưng?”
“Cuối cùng thì chị ấy từ bỏ cách giải thích đó. Và tôi nghĩ là chị ấy đúng. Ted không phải là loại người đó. Và khó khăn của ông ấy không phải là loại khó khăn đó. Thực tế là ông ấy đang bị rắc rối to và ông ấy điên lên về điều đó và ông ấy đang tranh đấu. Khi người ta tranh đấu thì người ta không lẳng lặng bỏ đi, phải không nào?”
“Ông ấy bị rắc rối như thế nào?”
Bà ta liếc nhìn ông chồng. Ông ta nghiêng tới trước. Chuyện đàn ông. “Khách hàng chính không mua hàng của ông ta nữa. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Thế lực trong thương trường lúc trồi lúc sụt. Thế nên Ted đề nghị thương lượng lại. Đề nghị giảm giá. Không được. Thế nên ông ấy đề nghị giảm thêm nữa. Ông ấy nói với tôi rằng ông ấy đã xuống đến mức cho không. Vẫn không được. Họ không mua nữa, thế thôi.”
Yanni hỏi, “Ông nghĩ rằng điều gì đang xảy ra?”Nói tiếp đi, thưa ngài.
Ông ta nói, “Tham nhũng. Đi cửa sau. Điều này quá hiển nhiên. Một trong những đối thủ cạnh tranh của Ted đang tung tiền lại quả. Một người trung thực làm sao cạnh tranh lại được.”
“Chuyện này bắt đầu từ lúc nào?”
“Khoảng hai năm trước. Nó là một khó khăn rất lớn đối với họ. Họ xuống dốc rất nhanh về mặt tài chính. Không có thu nhập ổn định. Ted bán xe. Oline phải đi làm. Chị ấy chỉ tìm được mỗi công việc ở Sở Đăng kiểm. Họ cho chị làm quản lý sau khoảng một tháng.” Ông ta mím miệng lại trong một nụ cười, có vẻ tự hào về giai cấp của mình. “Thêm một năm nữa, chị ấy chắc sẽ điều hành nơi đó. Chị ấy sẽ là Ủy viên hội đồng.”
“Ted đã làm gì về việc này? Ông ta tranh đấu như thế nào?”
“Ông ấy đang cố tìm xem ai là đối thủ cạnh tranh.”
“Ông ấy có tìm ra không?”
“Chúng tôi không biết. Ông ấy đã cố gắng trong một thời gian dài, rồi biến mất.”
“Oline không nhắc đến điều này trong báo cáo sao?”
Ông ta ngồi lại và người vợ lại ngả người về phía trước. Bà ta lắc đầu, “Oline không muốn. Lúc đó thì không. Không có bằng chứng gì cả. Tất cả chỉ là suy đoán. Chị ấy không muốn đi buộc tội lung tung. Và nó không hẳn liên quan rạch ròi với nhau. Tôi nghĩ chúng tôi kể như thế này khiến nó nghe có vẻ rõ ràng hơn là thực tình lúc đó. Tôi muốn nói là, Ted không nhập vai Sherlock Holmes. Ông ấy không bỏ toàn bộ thời gian theo đuổi vụ đó. Ông ấy vẫn làm những công việc bình thường. Ông ấy chỉ hỏi han mọi người khi có thể, cô biết đó, hỏi thăm, so sánh các ghi chú, so sánh giá, cố sắp xếp các dữ kiện lại với nhau. Việc đó mất hai năm trời. Những cuộc trò chuyện, những cú điện thoại, những thẩm tra lúc có lúc không, đại khái thế. Chắc chắn là không có vẻ gì nguy hiểm cả.”
“Có bao giờ Oline tìm đến bất cứ ai về việc này không? Về sau, chẳng hạn?”
Bà ta gật đầu, “Chị ấy vô cùng hoảng hốt trong hai tháng sau khi ông ấy biến mất. Chúng tôi trò chuyện với nhau. Chị ấy phát rồ lên vì điều đó. Cuối cùng chị ấy cho rằng chắc chắn phải có liên quan giữa hai điều này. Tôi đồng ý với chị ấy. Oline không biết phải làm gì. Tôi khuyên chị ấy nên gọi báo cảnh sát.”
“Và bà ta gọi?”
“Chị ấy không gọi. Chị ấy tự đi đến chỗ họ. Chị ấy cảm thấy nếu nói trực tiếp họ sẽ lắng nghe mình nghiêm túc hơn. Nhưng rõ ràng là họ đã không làm thế. Không có điều gì xảy ra cả. Giống như ném viên đá xuống lòng giếng mà không nghe tiếng nước gì hết.”
“Bà ta đi khi nào?”
“Một tuần trước vụ hôm thứ Sáu vừa qua ở quảng trường.”
Không ai lên tiếng. Rồi Ann Yanni, ngọt ngào, nhỏ nhẹ, nêu ra câu hỏi tất cả đều chờ đợi, “Ông bà không nghi ngờ có một sự liên hệ nào à?”
Bà ta lắc đầu. “Tại sao phải nghi ngờ? Nó hoàn toàn có vẻ là trùng hợp ngẫu nhiên. Những phát súng là ngẫu nhiên, phải không nào? Chính cô cũng nói như vậy. Trên bản tin truyền hình. Chúng tôi nghe cô nói thế. Năm nạn nhân tình cờ, hiện diện nhầm chỗ và nhầm lúc.”
Không một ai nói gì.
Reacher quay khỏi cửa sổ.
Ông hỏi, “Ted Archer làm ăn về ngành gì vậy?”
Người chồng nói, “Xin lỗi, tôi cứ tưởng quý vị biết rồi. Ông ta làm chủ một mỏ đá. Một nơi rất lớn, cách đây khoảng bốn mươi dặm về hướng Bắc. Xi măng, bê tông, đá nghiền. Kết hợp với nhau theo mô hình dọc, rất hữu hiệu.”
“Và ai là khách hàng đã rút lui?”
Ông ta đáp, “Chính quyền thành phố.”
“Khách hàng lớn đấy.”
“Lớn như thần. Tất cả màn xây dựng đang hoạt động hiện nay là thứ bánh thánh từ trên trời rơi xuống cho những người trong ngành này. Thành phố đã bán ra chín mươi triệu đô la trái phiếu miễn thuế chỉ để trả phí tổn cho năm đầu tiên. Cứ cộng thêm những chi phí phát sinh không thể tránh và nó sẽ là miếng bánh bạc tỷ cho ai đó.”
“Ted bán đi chiếc xe gì vậy?”
“Một chiếc Mercedes-Benz.”
“Vậy ông ấy dùng xe gì?”
“Ông ấy dùng một chiếc xe tải ở nơi làm việc.”
Phần lớn tài liệu bao gồm phần mở đầu được mã hóa và thông tin nguồn. Chữ, số, thời gian, nguồn gốc. Thông điệp chính rất ngắn. Hai tháng trước, bà Oline Anne Archer đã nộp một bản báo cáo về người mất tích liên quan đến chồng bà. Tên của ông là Edward Stratton Archer. Ông đã rời ngôi nhà họ sống với nhau để đi làm sớm trong một ngày thứ Hai bình thường, và vẫn chưa trở về ở thời điểm cuối ngày thứ Tư, là khi bản báo cáo được viết.
Helen hỏi, “Ông ta vẫn đang mất tích à?”
Franklin nói, “Đúng vậy.” Ông chỉ vào một chữ A nằm giữa mớ mã số trên đầu màn hình. “Nó vẫn còn hiệu lực.”
Reacher nói, “Vậy chúng ta đi hỏi chuyện những người bạn của Oline. Chúng ta cần thêm thông tin ở họ.”
Franklin hỏi, “Ngay bây giờ à?”
Reacher nói, “Chúng ta chỉ có mười hai giờ thôi. Không có thời gian để bỏ phí đâu.”
Franklin ghi lại tên và địa chỉ của người đồng nghiệp và người hàng xóm của Oline. Ông chuyền mảnh giấy cho Ann Yanni vì cô là người trả lương cho ông.
Ông nói, “Tôi sẽ ở lại đây. Tôi sẽ xem xem ông chồng có xuất hiện trong các cơ sở dữ liệu không. Chuyện này có thể là một sự tình cờ. Có thể ông ta có một bà vợ ở mỗi tiểu bang. Chuyện này không phải là lần đầu.”
Reacher nói, “Tôi không tin vào những chuyện tình cờ. Do đó đừng phí thì giờ. Thay vì vậy anh hãy tìm giúp tôi một số điện thoại. Hắn tên là Cash. Cựu Thủy quân. Hắn làm chủ cái trường bắn mà James Barr đến. Ở dưới Kentucky. Gọi hắn cho tôi.”
“Nhắn gì?”
“Nói tên của tôi. Bảo hắn vác xác ngay lên chiếc Humvee. Bảo hắn lái lên đây ngay tối nay. Bảo hắn là có một giải Invitational mới đang diễn ra.”
“Giải Invitational ư?”
“Hắn sẽ hiểu. Bảo hắn mang theo khẩu M24. Và ống ngắm ban đêm. Và bất cứ thứ gì khác mà hắn vớ được quanh đó.”
Reacher đi theo Ann Yanni và Helen Rodin xuống cầu thang. Họ cùng vào chiếc xe Saturn của Helen, hai người phụ nữ ngồi trước, Reacher ngồi ghế sau. Reacher nghĩ chắc mọi người đều thích chiếc Mustang hơn, nhưng nó chỉ có hai chỗ.
Helen hỏi, “Đi đâu trước đây?”
Reacher hỏi lại, “Nơi nào gần hơn?”
“Người đồng nghiệp.”
“OK, tới bà ta trước.”
Lưu thông chậm. Các con đường bị cắt xé và xe thi công ra ra vào vào các khu vực đang xây dựng. Reacher liếc nhìn đồng hồ và nhìn ra cửa sổ. Ánh nắng chiều đang nhạt dần. Chiều tối đang đến. Thời gian đang nhích dần đi.
Người đồng nghiệp sống trong một khu ngoại ô đơn giản ở phía Đông thành phố. Những con đường thẳng tắp trong khu dân cư chạy theo lối bàn cờ. Hai bên đường là những nông trại giản dị. Những ngôi nhà trong các khoảng đất nhỏ, cờ treo trên cột, đai vòng trên cửa nhà để xe, chảo ăng ten trên ống khói bằng gạch. Một số cây trồng trên vỉa hè có những dải ruy băng màu vàng đã bạc phếch buộc quanh. Reacher đoán rằng chúng biểu trưng cho tình đoàn kết với những người lính đang phục vụ ở nước ngoài. Trong cuộc xung đột nào đó, ông không biết chắc. Làm thế thì được gì, ông không hiểu. Ông đã phục vụ ở nước ngoài trong gần mười ba năm và chưa từng thấy ai quan tâm đến những thứ được buộc lên cây ở quê nhà. Chỉ cần có người trả lương, cung cấp thực phẩm, nước nôi, đạn dược, và các bà vợ ở nhà vẫn chung thủy, là đủ cho hầu hết bọn lính tráng hạnh phúc rồi.
Mặt trời đang hạ xuống sau lưng họ và Helen lái chậm, đầu cô chúi tới trước để dễ nhìn thấy trước số nhà. Cô thấy được địa chỉ cô cần và tạt vào lối dành cho xe vào rồi đậu lại sau một chiếc xe con. Chiếc xe còn mới. Reacher nhận ra hiệu xe đã thấy lúc đi bộ trên con đường bốn làn: Bảo đảm tốt nhất nước Mỹ!
Người đồng nghiệp là một người đàn bà mệt mỏi và phiền muộn độ ba mươi lăm tuổi. Chị ta mở cửa rồi bước ra ngoài hiên nhà, rồi kéo cánh cửa đóng lại sau lưng để ngăn tiếng động nghe như cả chục đứa trẻ đang đùa phá bên trong. Chị ta nhận ra Ann Yanni ngay lập tức. Thậm chí còn nhìn ra sau cô xem có đoàn quay phim không.
Chị ta hỏi, “Vâng?”
Helen Rodin nói, “Chúng tôi cần hỏi chuyện về Oline Archer.”
Người đàn bà không nói gì. Chị ta có vẻ muốn phản đối, như thể biết mình nên nghĩ rằng trò chuyện về những nạn nhân của thảm họa với các nhà báo là một điều vô vị. Nhưng rõ ràng tiếng tăm của Ann Yanni đã thắng được sự ngại ngùng của chị ta.
Chị ta nói, “Vâng. Quý vị cần biết điều gì nào? Oline là một người đáng quý và tất cả nhân viên trong văn phòng chúng tôi đều nhớ chị ấy vô cùng.”
Reacher nghĩ, Bản chất của sự ngẫu nhiên. Những cuộc xả súng bừa bãi luôn luôn trúng vào những người về sau được mô tả là họ rất đáng quý. Chẳng bao giờ có ai nói, Bà ta là đồ con chuột khốn khiếp và tôi mừng vì bà ta đã ngủm. Dù là ai làm thịt bà ta đi nữa thì kẻ đó đã làm ơn cho chúng tôi. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra.
Helen nói, “Chúng tôi cần biết đôi điều về chồng của bà ấy.”
Người đàn bà nói, “Tôi chưa bao giờ gặp chồng chị ấy.”
“Oline có kể về ông ấy không?”
“Chỉ chút ít, tôi nghĩ vậy. Thỉnh thoảng thôi. Tên ông ấy là Ted, tôi nghĩ vậy.”
“Ông ấy làm nghề gì?”
“Ông ấy kinh doanh. Tôi không rõ kinh doanh về ngành gì.”
“Oline có kể điều gì về chuyện ông ta mất tích không?”
“Mất tích?”
“Oline báo ông ta bị mất tích từ hai tháng trước.”
“Tôi biết chị ấy có vẻ lo lắng ghê lắm. Tôi nghĩ rằng ông ta gặp khó khăn trong việc làm ăn. Thật ra, tôi nghĩ ông ta đã gặp khó khăn trong vòng một hai năm nay. Đó là lý do vì sao Oline đi làm lại.”
“Không phải trước bà ấy vẫn đi làm sao?”
“Ô, không, thưa cô. Tôi nghĩ ngày xưa chị ấy có đi làm, rồi chị ấy nghỉ việc. Nhưng chị ấy phải đi làm trở lại. Do hoàn cảnh. Đi ngược hoàn toàn với con đường lên voi.”
Reacher nói, “Nghĩa là xuống chó.”
Người đàn bà nói, “Vâng, đại loại thế. Chị ấy cần công việc, vì lý do tài chính. Tôi nghĩ chị ấy cảm thấy ngượng ngùng về việc ấy.”
Ann Yanni hỏi, “Nhưng bà ấy không kể gì kỹ hơn sao?”
Người đàn bà nói, “Chị ấy là người rất kín đáo.”
“Điều này quan trọng lắm.”
“Chị ấy hay lơ đãng. Trước đây chị ấy không như thế. Khoảng một tuần trước khi chết, chị ấy đã đi đâu biệt tăm gần cả một buổi chiều. Trước đây chị ấy cũng không làm như thế bao giờ.”
“Chị có biết bà ấy đang làm gì không?”
“Không, tôi thật sự không biết.”
“Bất cứ điều gì mà chị nhớ được về chồng của bà ấy đều rất có ích đối với chúng tôi.”
Người đàn bà lắc đầu. “Tên ông ấy là Ted. Đó là tất cả những gì tôi có thể biết chắc.”
Helen nói, “Vâng, cám ơn chị.”
Cô quay đi và bước trở lại xe. Yanni và Reacher đi theo. Người đàn bà ở ngoài hiên nhìn chằm chằm theo họ, thất vọng, như thể chị ta vừa trượt một cuộc thử giọng.
* * *
Ann Yanni nói, “Gạch bỏ số một. Nhưng đừng lo. Đời luôn như vậy. Nhiều lúc tôi nghĩ chúng ta nên cứ thế bỏ qua người đầu tiên trên danh sách. Họ chẳng bao giờ biết chuyện gì cả.”
Reacher cảm thấy không thoải mái ở ghế sau xe. Chiếc túi quần kẹt bên dưới mông và cạnh của một đồng xu đâm vào đùi ông. Ông xoay qua xoay lại rồi lấy nó ra. Đó là một đồng hai mươi lăm xu, mới toanh và sáng giới. Ông ngắm nhìn nó trong một phút rồi bỏ nó vào túi kia.
Ông nói, “Tôi đồng ý. Lẽ ra chúng ta nên bỏ qua bà ta. Lỗi của tôi. Theo lôgic một đồng nghiệp sẽ không biết gì nhiều. Người ta thường kín đáo với các đồng nghiệp. Nhất là những người giàu gặp phải lúc khó khăn.”
Yanni nói, “Người hàng xóm sẽ biết nhiều hơn.”
Helen nói, “Chúng ta hy vọng vậy.”
Họ bị kẹt trong dòng xe đi ngang thị trấn. Họ đi từ vùng ngoại thành hướng Đông qua ngoại thành hướng Tây, di chuyển thật chậm. Reacher nhìn đồng hồ rồi lại nhìn qua cửa sổ. Mặt trời đã xuống rất thấp ở đường chân trời trước mặt họ. Phía sau họ trời đã chạng vạng tối.
Thời gian đang nhích đi.
Rosemary nhúc nhích trên ghế và cố vùng khỏi lớp băng keo quấn quanh hai cổ tay cô.
Cô nói, “Chúng tôi biết Charlie là kẻ làm vụ này.”
The Zec lặp lại, “Charlie?”
“Người được xem là bạn của anh tôi.”
The Zec nói, “Chenko. Tên hắn là Chenko. Đúng vậy, hắn làm đấy. Nói về chiến thuật thì đó là kế hoạch của hắn. Hắn thực hiện rất tốt. Tất nhiên, vóc dáng của hắn rất có lợi. Hắn có thể mang giày của mình bên trong giày của anh cô. Hắn phải xắn quần và ống tay áo mưa lên.”
Rosemary nói, “Nhưng chúng tôi biết.”
“Nhưng ai biết? Và chính xác là họ góp được phần gì đây?”
“Helen Rodin biết.”
“Cô sẽ cho cô ta thôi làm luật sư cho mình. Cô sẽ chấm dứt quyền đại diện của cô ta. Cô Rodin sẽ không thể lặp lại bất cứ điều gì cô ta biết bởi mối quan hệ của hai người được bảo mật. Linsky, ta nói thế có đúng không?”
Linsky gật đầu. Hắn ngồi trên sofa cách đó hai mét, dựa người trong một tư thế kỳ quặc để thư giãn cái lưng.
Hắn nói, “Đó là luật. Ở Mỹ này.”
Rosemary nói, “Franklin biết. Và Ann Yanni nữa.”
The Zec nói, “Tin đồn, các giả thuyết, sự suy đoán, lời ám chỉ. Hai người đó không có chứng cứ thuyết phục. Và cũng không có uy tín. Các thám tử tư và nhà báo chính xác là loại người bán rao các giải thích kỳ quặc cho những sự kiện như thế này. Người ta có thể lường trước việc đó. Không có nó mới là bất bình thường. Rõ ràng là có một vị tổng thống ở xứ sở này đã bị giết hơn bốn mươi năm trước, và những người như họ vẫn khăng khăng rằng sự thật vẫn chưa được khám phá.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Lời khai của cô sẽ là tối hậu. Cô sẽ đến chỗ Rodin và sẽ tuyên thệ để khai về việc anh của cô đã lên kế hoạch như thế nào. Về việc hắn đã kể với cô những gì hắn dự định. Một cách chi tiết. Thời gian, địa điểm, mọi thứ. Cô sẽ nói rằng cô đã không coi những chuyện đó là nghiêm túc, và khiến cô giờ đây ân hận một cách thành thực và vĩnh viễn. Rồi một lý do không đáng kể nào đó để tay luật sư công ngó đến bằng chứng của cô một cái, và tuyên bố anh cô có tội, rồi mọi chuyện sẽ chấm dứt.”
Rosemary nói, “Tôi sẽ không làm chuyện đó.”
The Zec nhìn thẳng vào cô.
Lão nói, “Cô sẽ làm. Tôi hứa với cô điều đó. Hai mươi bốn giờ nữa cô sẽ van xin được làm thế. Cô sẽ phát rồ vì sợ rằng chúng tôi có thể đổi ý mà không để cho cô làm.”
Căn phòng trở nên im lặng. Rosemary liếc nhìn The Zec như thể cô có điều gì đó muốn nói. Rồi cô nhìn lảng đi nơi khác. Nhưng dù sao The Zec cũng trả lời cô. Lão đã nghe thấy thông điệp của cô rất lớn và rõ ràng.
Lão nói, “Không, chúng tôi sẽ không có mặt ở đó với cô khi cô cung khai. Nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ biết những gì cô nói với họ. Chỉ trong vài phút. Và đừng nghĩ đến chuyện rảo một vòng qua bến xe buýt. Thứ nhất là, chúng tôi sẽ giết anh cô ngay. Và thêm nữa, không có nơi nào trên thế giới này mà chúng tôi không thể tìm thấy cô.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Dù thế nào đi nữa, đừng tranh cãi. Không ích lợi gì. Và vô nghĩa. Cô sẽ nói với họ những gì chúng tôi bảo cô nói. Cô sẽ nói, cô biết mà. Cô sẽ thấy. Cô sẽ tha thiết được nói. Cô sẽ ao ước chúng tôi đã sắp xếp một cuộc hẹn sớm hơn cho cô. Ở tòa án. Cô sẽ dùng thời gian chờ đợi để quỳ xuống van xin một cơ hội để chứng tỏ cho chúng tôi thấy cô thuộc bài giỏi như thế nào. Chuyện thường sẽ xảy ra như thế. Chúng tôi rất giỏi trong những chuyện này. Chúng tôi đã được chân truyền từ các bậc sư phụ.”
Rosemary nói, “Anh của tôi bị chứng Parkinson.”
The Zec hỏi, “Đã khám khi nào?” vì lão đã biết câu trả lời.
“Nó đang phát triển.”
The Zec lắc đầu. “Chủ quan đến thế làm sao có ích được. Ai đảm bảo rằng nó không phải là một tình trạng tương tự giống do chấn thương mới đây gây ra? Nếu không, thì ai đảm bảo rằng tình trạng đó được tính là một cản trở thực sự? Khi bắn từ khoảng cách gần đến thế? Nếu tay luật sư bào chữa mang đến một tay chuyên viên, thì Rodin sẽ mang đến ba tay như thế. Ông ta sẽ tìm thấy những bác sĩ sẵn sàng tuyên thệ rằng Annie Oakley [38] nhỏ nhắn bị chứng Parkinson hành hạ từ ngày bà ấy mới ra đời kìa.”
[38]: Một tay thiện xạ nổi tiếng ở bang Ohio. Bà tên thật là Phoebe Moses, sinh năm 1860, một trong những ngôi sao trong đoàn Wild West Show của Buffalo Bill.
Rosemary nói, “Reacher biết.”
“Thằng lính ấy à? Thằng lính sẽ chết vào sáng mai. Chết hay bỏ chạy.”
“Ông ấy sẽ không bỏ chạy.”
“Vậy thì hắn sẽ chết. Hắn sẽ tới để giải thoát cho cô tối nay. Chúng tôi sẽ sẵn sàng chào đón hắn.”
Rosemary không nói gì.
The Zec nói, “Trước đây từng có những kẻ tìm đến chúng tôi vào ban đêm. Nhiều lúc, nhiều nơi. Và cho tới nay thì chúng tôi vẫn ở đây. Da [39], Linsky?”
[39]: Tiếng Nga: Đúng không.
Linsky lại gật đầu.
Hắn nói, “Chúng ta vẫn ở đây.”
The Zec hỏi, “Khi nào thì hắn sẽ đến?”
Rosemary đáp, “Tôi không biết.”
Linsky nói, “Bốn giờ sáng. Hắn là người Mỹ. Chúng được huấn luyện rằng bốn giờ sáng là thời gian tốt nhất cho một cuộc tấn công bất ngờ.”
“Theo hướng nào?”
“Tấn công từ hướng Bắc là hợp lý nhất. Nhà máy nghiền đá sẽ che chắn cho việc chuẩn bị của hắn và chỉ bắt hắn vượt qua một khoảng trống hai trăm thước. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ lừa chúng ta ở đó. Hắn sẽ tránh hướng Bắc, bởi vì hắn biết đó là hướng tốt nhất.”
The Zec nói, “Không phải từ hướng Tây.”
Linsky lúc lắc đầu. “Tôi đồng ý. Không thể đi thẳng theo lối xe vào. Hướng đó quá thẳng và trống trải. Hắn sẽ đến từ hướng Nam hay hướng Đông.”
The Zec nói với hắn, “Điều Vladimir vào với Sokolov. Bảo chúng nó quan sát hướng Nam và hướng Đông thật cẩn thận. Nhưng nói chúng để ý hướng Bắc và hướng Tây luôn. Cả bốn hướng phải được giám sát liên tục để đề phòng. Rồi điều Chenko mang súng lên hành lang tầng trên. Hắn có thể sẵn sàng triển khai đến bất cứ cửa sổ nào cần thiết. Với Chenko, chỉ cần một phát là đủ.”
Rồi lão quay lại với Rosemary Barr.
Lão nói với cô, “Trong lúc này chúng tôi sẽ để cô ở một nơi an toàn. Bài phụ đạo của cô sẽ bắt đầu ngay khi thằng lính được chôn xong.”
Những khu ngoại ô phía Tây là nơi sinh sống của những người làm việc trong thành phố, do đó lưu thông suốt lối ra rất tệ. Những ngôi nhà đẹp đẽ hơn nhiều so với hướng Đông. Chúng đều hai tầng, đều khác nhau, đều được bảo trì tốt. Chúng đều thuộc những khu đất lớn, có hồ bơi và cảnh trí cây xanh khoảng khoát. Với những tia nắng cuối cùng sáng lên phía sau, chúng trông giống như các bức hình trong một tờ quảng cáo.
Reacher nói, “Đám tư sản keo kiệt.”
Yanni nói, “Thứ mà tất cả chúng ta đều ao ước.”
Reacher nói, “Họ sẽ không muốn nói. Không phải kiểu của họ.”
Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói với tôi.”
Họ từ từ lái qua nhà của Archer. Có một tấm biển đúc bằng kim loại treo trên dây xích mảnh ở dưới hộp thư: Ted và Oline Archer. Đằng xa phía sau nó, ngang qua một sân cỏ thoáng rộng, ngôi nhà trông khép kín, tối và im lặng. Nó là một ngôi nhà lớn kiểu Tudor [40]. Những thanh xà nhà màu nâu u ám, vữa màu kem. Nhà để xe đủ cho ba chiếc. Reacher nghĩ, Không có ai ở nhà.
[40]: Tên một vương triều của nước Anh.
Người hàng xóm mà họ đang tìm hiện sống ở bên kia đường, cách một lô đất về hướng Bắc. Nhà của bà ta khoảng cùng cỡ với nhà của Archer nhưng được dựng theo kiểu Ý. Những điểm nhấn bằng đá, những ngọn tháp nhỏ có lỗ châu mai, những mái hiên che nắng mờ tối trên các cửa sổ tầng trệt quay về hướng Nam. Ánh nắng chiều đang nhòa dần vào tối và đèn đang thắp lên phía sau các cửa sổ phủ rèm. Cả con phố trông ấm cúng, ngơi nghỉ, yên vắng, và rất thỏa mãn với chính mình. Reacher nói, “Họ ngủ bình yên trên giường vì những tay dữ tợn luôn túc trực trong đêm để giáng vũ lực vào những kẻ muốn làm hại họ.”
Yanni hỏi, “Anh cũng đọc George Orwell [41] à?”
[41]: Nhà văn người Anh, “Họ ngủ bình yên trên giường...” là biến thể của một câu thường được gán cho Orwell.
Reacher đáp, “Tôi có học đại học. Theo đúng định nghĩa thì West Point là một trường đại học.”
Yanni nói, “Cái trật tự xã hội đang hiện hữu là một sự bịp bợm và những niềm tin được nó ca tụng phần lớn là ảo tưởng.”
Reacher nói, “Không một kẻ biết suy nghĩ nào sống trong một xã hội như xã hội của chúng ta mà không muốn thay đổi nó.”
Helen nói, “Tôi tin rằng những người này hoàn toàn là những người tốt.”
“Nhưng liệu họ có nói với chúng ta không?”
Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói.”
Helen lái xe vào một lối đi dài trải đá vôi và đỗ lại khoảng hai mươi bộ phía sau một chiếc xe thể thao đa dụng ngoại nhập có những bánh lớn bằng crôm. Cánh cửa trước của ngôi nhà làm bằng gỗ sồi xám rất cổ, có đai sắt với những đầu đinh to như những trái bóng chơi gôn. Nó tạo cảm giác đi qua nó là có thể bước thẳng vào thời Phục hưng.
Reacher nói, “Tư hữu là trộm cắp.”
“Proudhon [42]. Tư hữu đáng được khát khao, là một điều thiện tích cực trên trần thế.”
Reacher nói, “Abraham Lincoln. Trong bản Thông điệp liên bang đầu tiên khi ông làm Tổng thống.”
[42]: “Tư hữu là trộm cắp”: câu trích trong “Tư hữu là gì?” (1840) của Oierre-Joshep Proudhon.
Trên cửa có một chiếc vòng gõ cửa bằng sắt nằm trong miệng một con sư tử. Helen nâng nó lên đập vào cánh cửa. Rồi cô thấy một nút chuông điện ẩn, cô cũng bấm chuông luôn. Họ không nghe tiếng trả lời nào từ bên trong. Cánh cửa thì nặng, tường thì dày. Helen bấm chuông thêm lần nữa, và khi cô còn chưa nhấc ngón tay ra khỏi nút thì cánh cửa tách ra khỏi những dải chống gió bằng đồng dưới sàn và nâng lên như một hầm mộ. Một người đàn ông đang đứng sau cánh cửa, tay để trên nắm cửa bên trong.
Ông ta hỏi, “Vâng?” Ông trạc trên dưới bốn mươi, chắc nịch, thành đạt, chắc hẳn là thành viên của một câu lạc bộ chơi gôn, có thể là Elk, có thể là Rotary. Ông mặc quần nhung và áo len có nhiều hoa văn. Ông ta thuộc loại người vừa về đến nhà thì thay đồ ngay lập tức như một thói quen.
Helen hỏi, “Vợ ông có nhà không? Chúng tôi muốn nói chuyện với bà ấy về Oline Archer.”
Ông ta hỏi, “Về Oline?” Ông đang nhìn Ann Yanni.
Helen nói, “Tôi là luật sư.”
“Có chuyện gì để nói về Oline?”
Yanni nói, “Có thể có nhiều chuyện để nói hơn là ông nghĩ.”
“Cô không phải là luật sư.”
Yanni nói, “Tôi đến đây với tư cách một nhà báo. Nhưng không phải để kiếm một câu chuyện bên lề lâm ly. Không có gì là màu mè cả. Có thể có một vụ án oan. Vấn đề ở đây là thế.”
“Một vụ án oan theo kiểu nào?”
“Họ có thể đã bắt nhầm người trong vụ bắn tỉa. Đó là lý do tôi đến đây. Đó là lý do tất cả chúng tôi đến đây.”
Reacher quan sát người đàn ông. Ông ta đứng đó, giữ lấy cánh cửa, cố quyết định. Sau cùng ông ta chỉ thở dài và bước lui.
Ông ta nói, “Mời mọi người vào.”
Ai cũng sẽ nói.
Ông ta dẫn mọi người đi qua một hành lang sơn vàng im ắng đến một phòng khách. Căn phòng thật rộng và sạch bóng. Ghế bọc nhung, những chiếc bàn gỗ gụ nhỏ, lò sưởi bằng đá. Không có ti vi. Hẳn phải có một phòng riêng để xem ti vi. Một phòng nhỏ, hay một phòng chiếu phim riêng kiểu gia đình. Hay có lẽ họ không xem ti vi. Reacher thấy Ann Yanni đang cân nhắc tính toán các khả năng.
Người đàn ông nói, “Tôi đi gọi nhà tôi.”
Một phút sau ông ta quay lại với một người phụ nữ xinh xắn, trẻ hơn ông ta một chút. Bà ta mặc quần jeans ủi thẳng nếp và áo đan cùng màu vàng như trên các bức tường. Chân đi giày nhẹ. Không tất. Bà có kiểu tóc rất đắt tiền để trông như buông tự nhiên và rối tung vì gió. Bà ta có chiều cao trung bình và thân hình mảnh mai cho ta biết về những quyển sách ăn kiêng và khoảng thời gian đã bỏ ra trong các lớp aerobic.
Bà hỏi, “Chuyện gì đây?”
Helen nói, “Chuyện Ted Archer.”
“Ted? Tôi tưởng quý vị nói với ông nhà tôi là về Oline.”
“Chúng tôi nghĩ có thể có một sự liên hệ. Giữa tình cảnh của ông ấy và bà ấy.”
“Làm sao mà có sự liên hệ được? Chắc chắn những gì xảy đến cho Oline là hoàn toàn từ trên trời rơi xuống mà.”
“Có thể không phải vậy.”
“Tôi không hiểu.”
“Chúng tôi ngờ rằng Oline có thể là mục tiêu chính, được che đậy nhờ lẫn lộn vào bốn nạn nhân kia.”
“Không phải đó là việc của cảnh sát sao?”
Helen ngưng giây lát, “Ngay lúc này thì có vẻ cảnh sát hài lòng với những gì họ có được.”
Người phụ nữ liếc nhìn chồng.
Ông ta nói, “Vậy thì tôi không nghĩ rằng chúng tôi nên trao đổi gì về chuyện này.”
Yanni hỏi, “Không chút nào cả sao? Hay chỉ với tôi thôi?”
“Tôi không chắc rằng chúng tôi muốn lên ti vi.”
Reacher cười thầm. Mặt bên kia của đồng xu.
Yanni nói, “Đây chỉ là những thông tin bề sâu thôi. Có nêu tên ông bà hay không là hoàn toàn tùy thuộc ở hai người.”
Người phụ nữ ngồi xuống sofa, chồng bà ngồi kế bên, gần sát. Reacher lại cười thầm. Họ đã vô tình phỏng theo tư thế chuẩn cặp vợ chồng ngồi trên sofa luôn luôn sử dụng trong những cuộc phỏng vấn truyền hình. Hai gương mặt sát vào nhau, bố cục lý tưởng cho một cận cảnh. Yanni hiểu ngay điều đó và ngồi vào chiếc ghế bành đối diện với họ, ngồi ngay sát rìa, người ngả tới trước, cùi chỏ chống lên đầu gối, nét biểu cảm thân thiện và cởi mở hiện lên trên gương mặt cô. Helen ngồi xuống một chiếc ghế khác. Reacher bước tránh ra bên cửa sổ. Dùng một ngón tay dịch tấm rèm nhích ra. Bên ngoài trời tối như mực.
Thời gian đang nhích đi.
Yanni hỏi, “Xin kể cho chúng tôi biết về Ted Archer.” Một yêu cầu đơn giản, chỉ chín tiếng, nhưng giọng điệu cô lại nói rằng: Tôi nghĩ rằng ông bà là những người đặc biệt nhất trên đời và tôi rất mong được làm bạn của ông bà. Trong một thoáng, Reacher nghĩ rằng Yanni đã chọn nhầm nghề. Lẽ ra cô đã có thể làm một cảnh sát tuyệt giỏi.
Người phụ nữ nói, “Ted gặp khó khăn trong việc làm ăn.”
Yanni hỏi, “Có phải đó là lý do ông ta biến mất không?”
Bà ta nhún vai, “Đó là giả định ban đầu của Oline.”
“Nhưng?”
“Cuối cùng thì chị ấy từ bỏ cách giải thích đó. Và tôi nghĩ là chị ấy đúng. Ted không phải là loại người đó. Và khó khăn của ông ấy không phải là loại khó khăn đó. Thực tế là ông ấy đang bị rắc rối to và ông ấy điên lên về điều đó và ông ấy đang tranh đấu. Khi người ta tranh đấu thì người ta không lẳng lặng bỏ đi, phải không nào?”
“Ông ấy bị rắc rối như thế nào?”
Bà ta liếc nhìn ông chồng. Ông ta nghiêng tới trước. Chuyện đàn ông. “Khách hàng chính không mua hàng của ông ta nữa. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Thế lực trong thương trường lúc trồi lúc sụt. Thế nên Ted đề nghị thương lượng lại. Đề nghị giảm giá. Không được. Thế nên ông ấy đề nghị giảm thêm nữa. Ông ấy nói với tôi rằng ông ấy đã xuống đến mức cho không. Vẫn không được. Họ không mua nữa, thế thôi.”
Yanni hỏi, “Ông nghĩ rằng điều gì đang xảy ra?”Nói tiếp đi, thưa ngài.
Ông ta nói, “Tham nhũng. Đi cửa sau. Điều này quá hiển nhiên. Một trong những đối thủ cạnh tranh của Ted đang tung tiền lại quả. Một người trung thực làm sao cạnh tranh lại được.”
“Chuyện này bắt đầu từ lúc nào?”
“Khoảng hai năm trước. Nó là một khó khăn rất lớn đối với họ. Họ xuống dốc rất nhanh về mặt tài chính. Không có thu nhập ổn định. Ted bán xe. Oline phải đi làm. Chị ấy chỉ tìm được mỗi công việc ở Sở Đăng kiểm. Họ cho chị làm quản lý sau khoảng một tháng.” Ông ta mím miệng lại trong một nụ cười, có vẻ tự hào về giai cấp của mình. “Thêm một năm nữa, chị ấy chắc sẽ điều hành nơi đó. Chị ấy sẽ là Ủy viên hội đồng.”
“Ted đã làm gì về việc này? Ông ta tranh đấu như thế nào?”
“Ông ấy đang cố tìm xem ai là đối thủ cạnh tranh.”
“Ông ấy có tìm ra không?”
“Chúng tôi không biết. Ông ấy đã cố gắng trong một thời gian dài, rồi biến mất.”
“Oline không nhắc đến điều này trong báo cáo sao?”
Ông ta ngồi lại và người vợ lại ngả người về phía trước. Bà ta lắc đầu, “Oline không muốn. Lúc đó thì không. Không có bằng chứng gì cả. Tất cả chỉ là suy đoán. Chị ấy không muốn đi buộc tội lung tung. Và nó không hẳn liên quan rạch ròi với nhau. Tôi nghĩ chúng tôi kể như thế này khiến nó nghe có vẻ rõ ràng hơn là thực tình lúc đó. Tôi muốn nói là, Ted không nhập vai Sherlock Holmes. Ông ấy không bỏ toàn bộ thời gian theo đuổi vụ đó. Ông ấy vẫn làm những công việc bình thường. Ông ấy chỉ hỏi han mọi người khi có thể, cô biết đó, hỏi thăm, so sánh các ghi chú, so sánh giá, cố sắp xếp các dữ kiện lại với nhau. Việc đó mất hai năm trời. Những cuộc trò chuyện, những cú điện thoại, những thẩm tra lúc có lúc không, đại khái thế. Chắc chắn là không có vẻ gì nguy hiểm cả.”
“Có bao giờ Oline tìm đến bất cứ ai về việc này không? Về sau, chẳng hạn?”
Bà ta gật đầu, “Chị ấy vô cùng hoảng hốt trong hai tháng sau khi ông ấy biến mất. Chúng tôi trò chuyện với nhau. Chị ấy phát rồ lên vì điều đó. Cuối cùng chị ấy cho rằng chắc chắn phải có liên quan giữa hai điều này. Tôi đồng ý với chị ấy. Oline không biết phải làm gì. Tôi khuyên chị ấy nên gọi báo cảnh sát.”
“Và bà ta gọi?”
“Chị ấy không gọi. Chị ấy tự đi đến chỗ họ. Chị ấy cảm thấy nếu nói trực tiếp họ sẽ lắng nghe mình nghiêm túc hơn. Nhưng rõ ràng là họ đã không làm thế. Không có điều gì xảy ra cả. Giống như ném viên đá xuống lòng giếng mà không nghe tiếng nước gì hết.”
“Bà ta đi khi nào?”
“Một tuần trước vụ hôm thứ Sáu vừa qua ở quảng trường.”
Không ai lên tiếng. Rồi Ann Yanni, ngọt ngào, nhỏ nhẹ, nêu ra câu hỏi tất cả đều chờ đợi, “Ông bà không nghi ngờ có một sự liên hệ nào à?”
Bà ta lắc đầu. “Tại sao phải nghi ngờ? Nó hoàn toàn có vẻ là trùng hợp ngẫu nhiên. Những phát súng là ngẫu nhiên, phải không nào? Chính cô cũng nói như vậy. Trên bản tin truyền hình. Chúng tôi nghe cô nói thế. Năm nạn nhân tình cờ, hiện diện nhầm chỗ và nhầm lúc.”
Không một ai nói gì.
Reacher quay khỏi cửa sổ.
Ông hỏi, “Ted Archer làm ăn về ngành gì vậy?”
Người chồng nói, “Xin lỗi, tôi cứ tưởng quý vị biết rồi. Ông ta làm chủ một mỏ đá. Một nơi rất lớn, cách đây khoảng bốn mươi dặm về hướng Bắc. Xi măng, bê tông, đá nghiền. Kết hợp với nhau theo mô hình dọc, rất hữu hiệu.”
“Và ai là khách hàng đã rút lui?”
Ông ta đáp, “Chính quyền thành phố.”
“Khách hàng lớn đấy.”
“Lớn như thần. Tất cả màn xây dựng đang hoạt động hiện nay là thứ bánh thánh từ trên trời rơi xuống cho những người trong ngành này. Thành phố đã bán ra chín mươi triệu đô la trái phiếu miễn thuế chỉ để trả phí tổn cho năm đầu tiên. Cứ cộng thêm những chi phí phát sinh không thể tránh và nó sẽ là miếng bánh bạc tỷ cho ai đó.”
“Ted bán đi chiếc xe gì vậy?”
“Một chiếc Mercedes-Benz.”
“Vậy ông ấy dùng xe gì?”
“Ông ấy dùng một chiếc xe tải ở nơi làm việc.”
Bình luận truyện