Một Phát Một Mạng
Chương 30
“Ông có thấy chiếc xe đó không?”
“Trong hai năm ngày nào cũng thấy.”
“Nó là xe gì?”
“Một chiếc xe tải nhẹ. Hiệu Chevy, tôi nghĩ vậy.”
“Một chiếc Silverado cũ, màu nâu? Bánh bằng thép?”
Ông ta tròn xoe mắt, “Làm sao mà ông biết được?”
Reacher nói, “Thêm một câu hỏi nữa thôi. Cho vợ ông.”
Bà ta nhìn ông.
“Sau khi Oline đến gặp cảnh sát, bà ta có kể với bà là mình đã nói chuyện với ai không? Có phải là một thanh tra tên là Emerson không?”
Bà ta lắc đầu. “Tôi nói với Oline rằng nếu không muốn gọi điện thoại thì chị ấy nên đến sở cảnh sát, nhưng chị ấy nói nó ở xa quá, vì chị ấy không có giờ nghỉ trưa lâu như thế. Chị ấy nói sẽ đến gặp ông công tố viên quận. Văn phòng của ông ta gần Sở Đăng kiểm hơn nhiều. Và dù sao đi nữa, tính Oline là như thế. Chị ấy thích đi thẳng đến nơi cao cấp nhất. Do đó chị ấy đến trình bày với chính Alex Rodin.”
Helen Rodin hoàn toàn im lặng trên suốt quãng đường trở về thị trấn. Im lặng đến mức cả người cô bần bật run lên. Môi cô mím lại, hai má hóp vào và mắt thì mở lớn. Sự im lặng của cô làm cho Reacher và Yanni không thể nói năng gì. Như thể toàn bộ không khí đã bị hút khỏi xe và tất cả những gì còn lại là sự im lặng giống như một lỗ đen quá ồn ào đến mức làm người ta đau đớn.
Cô lái xe như một người máy, thành thạo, không nhanh, không chậm, máy móc tuân theo những vạch chia làn đường, đèn xanh đèn đỏ và biển báo nhường đường. Cô đậu lại trên thềm bên dưới văn phòng của Franklin, cứ để xe nổ máy, và nói, “Hai người cứ tiếp tục công việc. Tôi không thể làm gì nữa.”
Ann Yanni bước xuống và đi đến cầu thang. Reacher ngồi lại trong xe, ngả người lên trước qua ghế.
Ông nói, “Rồi sẽ ổn thôi mà.”
“Không đâu.”
“Helen, rút chìa khóa ra và đi lên trên kia ngay lập tức. Cô là nhân viên tòa án và cô đang có một thân chủ gặp khó khăn.” Rồi ông mở cửa, leo xuống xe, và lúc ông đi vòng quanh cốp xe thì cô đã đứng chờ ông ở chân cầu thang.
Như thường lệ, Franklin đang ngồi trước máy vi tính. Ông cho Reacher biết rằng Cash từ Kentucky đang trên đường đến đây, không thắc mắc gì cả. Rằng Ted Archer chưa xuất hiện ở bất cứ đâu trên các cơ sở dữ liệu. Rồi ông nhận ra sự im lặng và căng thẳng.
Ông hỏi, “Chuyện gì vậy?”
Reacher nói, “Chúng ta chỉ còn cách có một bước thôi. Ted Archer làm ăn trong ngành bê tông, và ông ta bị gạt ra khỏi tất cả những hợp đồng xây dựng mới của thành phố bởi có một kẻ cạnh tranh đưa hối lộ. Ông ta cố gắng chứng minh điều đó và hẳn sắp sửa thành công, bởi vì kẻ cạnh tranh đã hạ ông.”
“Ông có thể chứng minh điều đó không?”
“Chỉ bằng cách suy luận thôi. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra xác của ông ấy nếu không đào đường số Một lên. Nhưng tôi biết chiếc xe tải của ông ấy hiện đang ở đâu. Nó ở trong nhà kho của Jeb Oliver.”
“Tại sao ở đó?”
“Chúng sử dụng Oliver cho những việc mà chúng không thể tự làm. Những khi chúng không muốn chường mặt ra, hay không thể chường mặt ra được. Có lẽ Archer biết chúng và không đời nào đến gần chúng. Nhưng Oliver chỉ là một thằng bé trong vùng. Có thể hắn dàn cảnh một vụ bể bánh xe hay xin đi nhờ xe. Archer sẽ dính bẫy ngay. Rồi bọn côn đồ giấu cái xác và Oliver thì giấu chiếc xe tải.”
“Oline Archer không nghi ngờ gì sao?”
Reacher nói, “Sau cùng thì bà ta cũng nghi. Bà ta loay hoay với chuyện này suốt hai tháng, rồi có lẽ đã kết nối các dữ kiện lại với nhau đủ để suy ra một điều gì đó. Rồi bà ta bắt đầu mang nó ra công khai, và hẳn tất cả các chuông báo động bí mật đều đã réo lên, vì một tuần sau đó thì bà ta bị giết. Mọi chuyện được dàn cảnh như vậy, bởi vì một ông chồng bị mất tích và rồi hai tháng sau thì đến bà vợ bị giết sẽ đặt ra rất nhiều dấu hỏi. Nhưng chừng nào mà sự việc còn có vẻ tình cờ thì nó sẽ được xem là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”
“Oline báo sự việc với ai? Emerson à?”
Reacher không đáp.
Helen Rodin nói, “Bà ta báo với cha tôi.”
Im lặng một lúc lâu.
Franklin nói, “Giờ thì làm gì đây?”
Reacher đáp, “Anh lại phải gõ bàn phím thôi. Kẻ nào có được hợp đồng của thành phố thì kẻ đó nói chung đã xác định chính mình là phe xấu. Do đó chúng ta cần phải biết hắn là ai. Và công ty của hắn ở đâu.”
Franklin nói, “Có trong kho dữ liệu công khai.”
“Vậy thì anh tìm đi.”
Franklin quay đi giữa cảnh im lặng và bắt đầu lướt ngón tay trên bàn phím. Ông di rồi nhấp chuột mất chừng một phút. Rồi có được kết quả.
Ông nói, “Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Họ nhận được tất cả những hợp đồng hiện thời của thành phố về xi măng, bê tông, và đá nghiền. Nhiều triệu đô la.”
“Chúng ở đâu?”
“Đó mới là tin tốt.”
“Còn tin xấu là gì?”
“Không có tư liệu gì cả. Chúng là một quỹ tín thác đặt trụ sở tại Bermuda. Chúng không phải làm hồ sơ gì cả.”
“Hệ thống kiểu quái gì vậy?”
Franklin không trả lời.
“Một quỹ tín thác ở Bermuda cần có một luật sư địa phương.” Giọng của Helen thấp, lặng lẽ, và kìm nén. Reacher nhớ lại tấm biển bên ngoài văn phòng của A.A Rodin: tên họ, theo sau là những chữ cái biểu thị bằng cấp luật.
Franklin bấm qua hai màn hình nữa.
Ông nói, “Có một số điện thoại. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có được.”
Helen hỏi, “Số bao nhiêu?”
Franklin đọc con số.
Helen nói, “Đó không phải là số của cha tôi.”
Franklin bấm vào một thư mục tra ngược. Gõ con số vào, màn hình thay đổi và hiện ra một cái tên và một địa chỉ công ty.
Ông nói, “John Mistrov.”
Reacher nói, “Tên Nga.”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Anh có biết hắn không?”
“Sơ sơ. Hắn là một tay chuyên làm về di chúc và ủy thác. Công ty một thành viên. Tôi chưa từng làm việc cho hắn.”
Reacher nhìn đồng hồ, “Anh có thể tìm được địa chỉ nhà không?”
Franklin vào một thư mục bình thường. Gõ cái tên vào và hiện ra một địa chỉ thuộc vùng này.
Ông hỏi, “Tôi có nên gọi cho hắn không?”
Reacher lắc đầu, “Chúng ta sẽ đến viếng hắn. Gặp trực tiếp thì tốt hơn khi không có nhiều thời gian.”
Vladimir xuống phòng giám sát ở tầng trệt. Sokolov đang ngồi trên một chiếc ghế có bánh lăn trước một dãy bàn dài đặt bốn màn hình ti vi. Từ trái qua phải chúng được dán nhãn Bắc, Đông, Nam, và Tây. Cách xếp đặt này rất hợp lý nếu người ta quan sát thế giới theo chiều kim đồng hồ. Sokolov đang trượt chiếc ghế chầm chậm theo dãy màn hình, xem xét từng hình ảnh, tiếp tục quay lại, từ Tây trở về Bắc nhờ một cú đẩy mạnh vào bức tường. Cả bốn màn hình đều nhiễu và phát hình màu xanh lá cây, vì bên ngoài trời tối và bộ ghi hình tầm nhiệt đã khởi động. Thỉnh thoảng có thể thấy một đốm sáng đang di chuyển nhanh ngoài xa. Một con thú. Ăn đêm. Cáo, chồn hôi, gấu trúc, hay một con mèo nhà, hay một con chó lạc mất đường về. Trên màn hình hướng Bắc hình ảnh từ khu nghiền đá sáng lòa. Nó sẽ nhòa đi khi những chiếc máy đã nguội đi. Ngoài ra, tất cả phần hậu cảnh chìm trong một màu ôliu sậm, bởi vì không có gì ở ngoài đó ngoại trừ nhiều dặm đồng cỏ nối tiếp nhau, phủ đầy sương mù lạnh phun ra từ những trụ tưới quay mải miết.
Vladimir kéo chiếc ghế có bánh lăn thứ hai và ngồi xuống bên trái Sokolov. Hắn sẽ xem chừng hướng Bắc và hướng Đông. Sokolov sẽ tập trung vào hướng Nam và hướng Tây. Theo cách đó, mỗi tên chịu trách nhiệm một hướng có khả năng có chuyện và một hướng ít khả năng. Phân công lao động thế là công bằng.
Trên hành lang tầng ba, Chenko nạp đạn vào khẩu Super Match của mình. Mười viên, loại Lake City.308. Một trong những thứ người Mỹ làm tốt là đạn dược. Hắn mở tất cả các cửa phòng ngủ để dễ dàng di chuyển các hướng khi cần. Hắn bước đến một cửa sổ và mở ống ngắm ban đêm. Đặt nó ở phạm vi bảy mươi lăm thước. Hắn cho rằng sẽ được cảnh báo khi thằng lính ở cách một trăm năm mươi thước. Đó là khoảng giới hạn hoạt động của các máy quay. Hắn sẽ bước đến cửa sổ cần thiết và ngắm vào mục tiêu khi nó vẫn còn xa hơn một trăm thước. Hắn sẽ theo dõi sự di chuyển của mục tiêu. Hắn sẽ đợi nó tiến đến mình. Khi nó cách bảy mươi lăm thước, hắn sẽ hạ nó.
Hắn nâng khẩu súng lên. Xem xét hình ảnh trong ống ngắm. Rất sáng và rõ. Hắn quan sát một con cáo băng ngang khoảng đất trống từ Đông qua Tây. Săn tốt nhé, chú bạn nhỏ. Hắn quay trở lại hành lang, dựng khẩu súng dựa vào tường và ngồi xuống đợi trên một chiếc ghế lưng thẳng.
Helen Rodin khăng khăng ở lại trong văn phòng của Franklin. Do đó chỉ có Reacher và Yanni đi với nhau, trong chiếc Mustang. Đường phố tối và vắng. Yanni lái xe. Cô biết đường quanh đây. Địa chỉ mà họ tìm là một tòa chung cư lớn, cải biến từ một nhà kho cũ nằm giữa đoạn đường từ cầu tàu đến ga dỡ hàng. Yanni nói rằng nó là một phần của quy hoạch thành phố mới. SoHo[43] đến miệt trong. Cô nói cô từng tính đến chuyện mua nhà trong chính tòa nhà đó.
[43]: Một khu phố nhộn nhịp ở vùng Mahattan của thành phốNew York.
Rồi cô nói, “Chúng ta nên coi chừng Helen tự tử.”
Reacher nói, “Cô ấy sẽ ổn thôi.”
“Anh nghĩ vậy à?”
“Tôi tin chắc như thế.”
“Nếu là cha của anh thì sao?”
Reacher không trả lời. Yanni chạy chậm lại khi một tòa nhà gạch thật to lù lù hiện ra trong bóng tối.
Reacher nói, “Cô cứ hỏi trước. Nếu hắn không trả lời, tới phiên tôi sẽ hỏi.”
Yanni nói, “Hắn sẽ trả lời. Tất cả mọi người đều trả lời.”
Nhưng John Mistrov thì không. Hắn là một tay gầy gò, khoảng bốn mươi lăm tuổi. Hắn ăn vận như thể đang chịu đựng cơn khủng hoảng vào tuổi trung niên của một người đã ly dị. Quần jeans quá chật tẩy bằng a-xit, áo phông đen, không mang giày. Họ gặp hắn đang ở một mình trong căn hộ sơn trắng khá lớn, đang ăn đồ ăn Tàu trong những hộp giấy. Ban đầu, hắn rất vui khi gặp Yanni. Có lẽ giao du với những người nổi tiếng cũng nằm trong lối sống đầy quyến rũ mà sự phát triển mới hứa hẹn. Nhưng nhiệt tình ban đầu của hắn phai đi rất nhanh. Nó biến mất hoàn toàn khi Yanni lược qua những mối nghi ngờ của cô và đòi hỏi được biết những cái tên nằm sau quỹ tín thác.
Hắn nói, “Tôi không thể nói với cô. Chắc chắn cô hiểu đây là những thông tin bảo mật. Chắc chắn cô hiểu điều đó.”
Yanni nói, “Tôi hiểu rằng những tội ác nghiêm trọng đã xảy ra. Đó là những gì tôi hiểu. Và ông cũng cần hiểu điều đó nữa. Ông cần phải chọn đứng về bên nào, ngay bây giờ, nhanh lên, trước khi chuyện này được công khai.”
Hắn nói, “Tôi không có gì để nói.”
Yanni nhỏ nhẹ, “Ở đây không có gì xấu hết. Những cái tên chúng tôi muốn, ngày mai chúng sẽ vào tù hết. Không đường trở lại.”
“Tôi không có gì để nói.”
“Ông thích chìm xuồng cùng chúng không?” Yanni hỏi. Đanh thép. “Như là một kẻ đồng lõa? Hay ông thích xoay xở thoát ra khi đã muộn? Tùy ông chọn. Nhưng thế nào đi nữa thì ông cũng sẽ lên bản tin tối mai. Hoặc diễu hành với đôi tay còng hoặc đứng đó làm dáng, kiểu như ôi Chúa ơi, tôi không biết chút gì, tôi quá sốt sắng muốn giúp đỡ họ.”
“Tôi không có gì để nói.” Hắn lặp lại lần thứ ba.
Lớn tiếng, rõ ràng và kênh kiệu.
Yanni chào thua. Nhún vai và đưa mắt nhìn Reacher. Reacher xem đồng hồ. Thời gian đang nhích đi. Ông bước gần lại.
Ông hỏi, “Mày có bảo hiểm y tế không?”
Hắn gật đầu.
“Bảo hiểm nha khoa?”
Hắn lại gật đầu.
Reacher đấm hắn trúng miệng. Đấm bằng tay phải, đường vung ngắn, khá mạnh.
Ông nói, “Nhớ chữa cả cái đó nữa.”
Hắn bật lui một bước, gập người lại, rồi nhổm lên ho, máu chảy ra khắp cằm. Môi rách, những chiếc răng lung lay nhuộm đỏ lòm.
Reacher nói, “Tên gì, nói ngay. Hay tao xé xác mày ra từng miếng một.”
Hắn ngần ngại. Sai lầm. Reacher đấm hắn lần nữa. Rồi hắn phun ra những cái tên, sáu cái, mô tả hình dáng, và một cái địa chỉ, tất cả đều từ vị trí thẳng cẳng trên sàn nhà và đều trong một giọng nói lúng búng và đặc lại với từng bụm máu trong miệng.
Reacher nhìn Yanni.
Ông nói, “Tất cả mọi người đều trả lời.”
Trong bóng tối khoang lái chiếc Mustang trên đường về, Ann Yanni nói, “Hắn sẽ gọi điện báo cho chúng.”
Reacher nói, “Hắn sẽ không gọi đâu. Hắn vừa phản bội chúng. Vậy nên tôi đoán hắn sẽ chuồn đi nghỉ một chuyến dài hạn vào ngày mai.”
“Anh hy vọng thế.”
“Chẳng quan trọng gì nữa. Chúng đã biết rằng tôi đang đến tìm chúng. Thêm một lời cảnh báo cũng không thay đổi gì.”
“Anh có một phong cách rất thẳng thắn. Kiểu mà người ta không nhắc đến trong Đại cương về nghề báo.”
“Tôi có thể dạy cho cô. Thật ra, quan trọng là ở chỗ bất ngờ. Nếu có thể làm cho chúng bất ngờ thì không cần phải đấm chúng quá mạnh tay.”
Yanni đọc cho Franklin những cái tên mà John Mistrov vừa thú. Bốn tên khớp với những cái tên mà Reacher đã nghe: Charlie Smith, Konstantin Raskin, Vladimir Shumilov, và Pavel Sokolov. Tên thứ năm là Grigor Linsky, Reacher nghĩ đó hẳn phải là gã đàn ông tàn tật mặc đồ vest, bởi vì cái tên thứ sáu đơn giản là Zec Chelovek.
Franklin nói, “Tôi nghĩ ông nói Zec là một từ.”
Reacher nói, “Đúng vậy. Và Chelovek cũng vậy. Nó là phiên âm của từ tiếng Nga có nghĩa là “con người“. Zec Chelovek có nghĩa là Con Người Tù. Như là Tù Nhân vậy.”
“Những kẻ khác không dùng tên mã hóa.”
“Chắc hẳn The Zec cũng không dùng. Có lẽ đó là tất cả những gì mà hắn còn lại. Có lẽ hắn đã quên tên thật của mình. Có thể tất cả chúng ta cũng sẽ quên, nếu chúng ta ở Gulag.”
Yanni nói, “Anh có vẻ thương cảm hắn.”
Reacher đáp, “Tôi không thương cảm gì cả. Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu hắn.”
Helen nói, “Không lời nào nhắc đến cha tôi.”
Reacher gật đầu, “The Zec là kẻ giật dây. Gã là cấp cao nhất.”
“Có nghĩa cha tôi chỉ là một người làm thuê.”
“Đừng lo về chuyện đó lúc này. Hãy tập trung vào Rosemary.”
Franklin vào một bản đồ trên mạng và khám phá ra cái địa chỉ mà John Mistrov khai ra là một cơ sở nghiền đá được xây dựng kế bên một mỏ đá cách tám dặm về hướng Tây Bắc của thành phố. Rồi ông tìm trong hồ sơ khai thuế và xác định rằng Dịch vụ chuyên dụng của Indiana là chủ sở hữu có đăng ký của nó. Rồi ông xem lại các hồ sơ lần nữa và phát hiện rằng ngoài ra chỉ còn một bất động sản duy nhất đăng ký cho quỹ tín thác, đó là ngôi nhà trên khu đất kề sát bên nhà máy nghiền đá. Yanni nói rằng cô rất rành khu vực này.
Reacher hỏi cô, “Có cái gì khác ở ngoài đó không?”
Cô lắc đầu. “Không có gì cả ngoài đất nông nghiệp dài hàng dặm.”
Reacher nói, “OK. Đúng rồi đấy. Đó là nơi Rosemary có mặt.”
Ông xem đồng hồ. Mười giờ tối.
Yanni hỏi, “Giờ thì làm gì đây?”
Reacher đáp, “Giờ chúng ta chờ.”
“Chờ cái gì?”
“Chờ Cash đến đây từ Kentucky. Rồi chúng ta sẽ chờ thêm một lúc.”
“Chờ cái gì?”
Reacher mỉm cười.
Ông nói, “Chờ màn đêm nuốt đi tất cả.”
Họ cùng chờ đợi. Franklin pha cà phê. Yanni kể những câu chuyện truyền hình, về những người cô quen biết, về những chuyện cô từng thấy, về các bạn gái của thống đốc, người tình của vợ các chính khách, những vụ bỏ phiếu kín gian lận, những công đoàn bị mua chuộc, về hàng mẫu cần sa trồng phía sau những luống ngô cao quây tròn thành rào chắn trên rìa những cánh đồng Indiana. Rồi Franklin kể về những năm tháng ông còn là cảnh sát. Rồi Reacher kể về cuộc sống của ông từ khi rời quân đội, về chuyện lãng du, thám hiểm, đời sống vô hình không bắt rễ của mình.
Helen không nói một điều gì.
Đúng mười một giờ, họ nghe tiếng phành phạch của máy nổ chạy dầu diesel dội vào tường gạch bên ngoài. Reacher bước lại cửa sổ, thấy chiếc Humvee của Cash đang chúi mũi vào thềm đậu xe. Ông nghĩ, Ồn quá. Không thể dùng nó được.
Hay có lẽ là được đấy.
Ông nói, “Đội Thủy quân lục chiến đã đến.”
Họ nghe tiếng chân của Cash trên cầu thang bên ngoài. Nghe tiếng ông ta gõ cửa. Reacher bước ra hành lang để mở cửa. Cash bước vào, nhanh nhẹn, rắn chắc, tự tin. Ông ta mặc toàn đồ màu đen. Quần vải thô đen, áo khoác vải đen. Reacher giới thiệu mọi người với ông. Yanni, Franklin, Helen Rodin. Mọi người bắt tay và Cash ngồi xuống ghế. Trong vòng hai mươi phút là ông đã nắm được mọi chi tiết và sẵn sàng hành động.
“Chúng bịt miệng một cô nhỏ mười chín tuổi ư?” ông hỏi.
“Nếu gặp, ông sẽ ưa cô ta đấy,“ Reacher đáp.
“Chúng ta có kế hoạch chưa?”
Reacher đáp, “Chúng ta sắp tính một kế hoạch.” Yanni ra ngoài xe lấy mớ bản đồ. Franklin dẹp những tách cà phê cho trống bàn. Yanni chọn ra tấm cần thiết. Trải phẳng nó ra.
Cô nói, “Ngoài đó giống như là một cái bàn cờ khổng lồ. Mỗi ô vuông là một khoảnh ruộng bề ngang một trăm thước. Những con đường vạch thành các ô, từ Bắc đến Nam, Tây qua Đông, khoảng hai mươi khoảnh ruộng riêng rẽ nhau.” Rồi cô chỉ. Ngón tay thanh mảnh, móng sơn. “Nhưng ngay tại đây chúng ta có hai con đường gặp nhau, và ở phía Đông Nam giao điểm của hai con đường đó ta có một khoảng trống rộng bằng ba khoảnh ruộng và dài bằng năm khoảnh ruộng. Không có trồng trọt gì ở đó. Nửa Bắc khu đó là nhà máy nghiền đá và ngôi nhà nằm ở phía Nam. Tôi đã thấy nó, nó cách đường cái khoảng hai trăm thước, nằm một mình ở giữa khoảng trống tuyệt đối. Không cảnh vật, không hoa màu. Cũng không có hàng rào luôn.”
Reacher hỏi, “Bằng phẳng?”
Yanni nói, “Phẳng như mặt bàn bi-a.”
Cash nói, “Ngoài đó tối om.”
Reacher nói, “Tối đen như áo chẽn của Diêm vương. Và tôi đoán rằng nếu không có hàng rào có nghĩa là chúng dùng máy quay phim. Với một bộ tầm nhiệt vào ban đêm. Dùng tia hồng ngoại hay gì đó.”
Cash hỏi, “Anh chạy qua hai trăm thước mất bao lâu?”
Reacher nói, “Tôi ư? Đủ chậm để chúng có thể đặt hàng qua thư mua một khẩu súng để hạ tôi.”
“Cách tiếp cận tốt nhất là gì?”
Reacher nói, “Bước vào từ hướng Bắc. Không nghi ngờ gì cả. Chúng ta có thể thâm nhập thẳng vào khu vực nghiền đá từ đường cái và đi xuyên qua nó. Rồi chúng ta có thể nghỉ lại đó lâu chừng nào cũng được. Chỗ ẩn nấp khá tốt cho tới phút cuối.”
“Không thể bước vào từ bất cứ nơi đâu nếu chúng có máy quay phim tầm nhiệt.”
“Chúng ta sẽ lo chuyện đó sau.”
“OK, nhưng chúng sẽ lường trước hướng Bắc.”
Reacher gật đầu. “Chúng ta sẽ bỏ qua hướng Bắc luôn. Quá dễ bị phát hiện.”
“Hướng Nam hay hướng Đông sẽ khá hơn. Bởi vì có lẽ lối xe vào là hướng Tây. Chắc chắn là quá thẳng và trống trải.”
“Chúng cũng sẽ nghĩ như vậy.”
“Thì hai chúng ta cùng đúng.”
Reacher nói, “Tôi thích cái lối xe vào đấy. Nó như thế nào nhỉ? Có lát đá không?”
Yanni nói, “Đá vôi nghiền. Thứ này thì chúng có tha hồ.”
Cash nói, “Ồn lắm.”
Reacher nói, “Nó sẽ giữ lại một ít hơi nóng ban ngày. Nó sẽ ấm hơn đất. Nó sẽ vạch xuống hình ảnh hấp nhiệt một vệt màu. Nếu độ tương phản không tốt lắm thì nó sẽ tạo thêm một khoảng mờ cả hai bên.”
Cash nói, “Anh đùa đấy à? Anh sẽ nóng hơn nhiệt độ chung quanh từ năm đến mười độ. Anh sẽ sáng như một ngọn đuốc báo hiệu trên đường.”
“Chúng sẽ quan tâm đến hướng Nam và hướng Đông.”
“Không chỉ có thế.”
“Anh có ý kiến gì hay hơn không?”
“Tấn công thẳng vào mặt trước thì thế nào? Ta dùng xe?”
Reacher mỉm cười, “Nếu nó tuyệt đối và hoàn toàn phải bị tiêu diệt vào sáng mai, hãy gọi cho quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.”
Cash nói, “Rõ.”
Reacher nói, “Quá nguy hiểm. Chúng ta không thể cho chúng biết trước một giây nào và chúng ta không thể biến nơi đó thành một khu vực oanh kích tự do. Chúng ta phải nghĩ đến Rosemary nữa.”
Không ai lên tiếng.
Reacher lặp lại, “Tôi thích cái lối xe vào.”
Cash liếc nhìn Helen Rodin.
Ông nói, “Chúng ta có thể gọi cảnh sát. Các bạn biết đó, nếu viên công tố là kẻ xấu. Chỉ vài đội đặc nhiệm hành động là có thể làm việc này rồi.”
Reacher nói, “Cũng vậy thôi. Rosemary sẽ bị giết trước khi họ tiến vào đến cửa.”
“Vậy cắt dây điện? Triệt hạ máy quay?”
“Cũng vậy thôi. Nó cũng là báo động sớm cho chúng.”
“Ý của anh.”
Reacher nói, “Lối xe vào. Tôi thích cái lối xe vào.”
“Nhưng những chiếc máy quay phim thì thế nào đây?”
Reacher nói, “Tôi sẽ nghĩ ra điều gì đó.” Ông bước lại bàn. Nhìn đăm đăm xuống tấm bản đồ. Rồi ông quay lại với Cash. “Xe anh có máy CD không?”
Cash gật đầu. “Một phần của các trang bị tiện nghi trong xe.”
“Anh có phiền không nếu giao xe cho Franklin lái?”
“Franklin có thể lấy luôn nó. Tôi thích một chiếc xe con hơn.”
“OK, chiếc Humvee của anh là xe dùng để tiếp cận của chúng ta. Franklin có thể chở chúng ta đến đó, thả chúng ta xuống, rồi chạy thẳng về lại đây.”
Yanni nói, “Chúng ta? Tất cả chúng ta cùng đi à?”
Reacher nói, “Dĩ nhiên. Bốn người chúng ta sẽ ở đó, với Franklin ở lại đây làm trung tâm liên lạc.”
Yanni nói, “Tuyệt.”
Reacher nói, “Chúng ta cần điện thoại di động.”
Yanni nói, “Tôi có một cái.”
Cash nói, “Tôi cũng vậy.”
Helen nói, “Tôi cũng vậy.”
Reacher nói, “Tôi không có.”
Franklin lấy một chiếc Nokia nhỏ trong túi ra.
Ông nói, “Dùng cái của tôi này.”
Reacher nhận lấy. “Anh có thể cài đặt một cuộc gọi hội nghị không? Bốn chiếc điện thoại di động và điện thoại bàn của anh? Ngay khi anh về lại đây?”
Franklin gật đầu, “Được. Cho tôi số của các bạn.”
Reacher nói, “Và tắt chuông đi.”
Cash hỏi, “Khi nào thì chúng ta sẽ hành động đây?”
Reacher nói, “Bốn giờ sáng là giờ tôi ưa nhất. Nhưng chúng chắc đã lường trước điều này. Chúng ta học từ bên đó mà. Bốn giờ sáng là lúc KGB đi gõ cửa nhà. Ít kháng cự nhất. Nó là yếu tố thuộc nhịp sinh học. Do đó chúng ta sẽ làm chúng ngạc nhiên. Chúng ta sẽ hành động vào lúc hai giờ rưỡi.”
Yanni nói, “Nếu anh làm cho chúng ngạc nhiên thì anh không cần phải ra đòn mạnh tay, phải không?”
Reacher lắc đầu, “Trong tình huống này, nếu chúng ta làm chúng ngạc nhiên chúng sẽ không ra đòn mạnh tay với tôi.”
Cash hỏi, “Tôi sẽ ở đâu?”
Reacher nói, “Góc Tây Nam của nhà máy nghiền đá. Quan sát ngôi nhà nằm ở hướng Đông Nam. Anh có thể kiểm soát các mặt hướng Tây và hướng Bắc của ngôi nhà cùng lúc, với khẩu súng của mình.”
“OK.”
“Anh mang cho tôi thứ gì vậy?”
Cash lục trong túi áo khoác rồi lấy ra một lưỡi dao trong vỏ. Ông thảy nó ngang qua căn phòng. Reacher bắt lấy. Nó là loại dao tiêu chuẩn của hải quân đặc nhiệm. Loại dao cứu sinh của họ. Bằng thép, nhựa epoxi đen, lưỡi dài bảy inch. Không còn mới.
Reacher hỏi, “Cái này ấy à?”
Cash nói, “Tôi chỉ có thế. Tất cả vũ khí mà tôi có là khẩu súng và con dao đó.”
“Anh đùa.”
“Tôi là dân làm ăn, chứ không phải là kẻ nghiện bắn giết.”
“Chúa ơi, anh trung sĩ. Tôi sẽ mang con dao này đi đấu súng à? Chẳng phải lẽ ra phải ngược lại sao?”
Cash lặp lại, “Tôi chỉ có thế thôi.”
“Nhất rồi còn gì!”
“Anh có thể đoạt khẩu súng của thằng đầu tiên mà anh thịt được. Thực tế đi, nếu anh không đến gần đủ để thịt một thằng trong bọn chúng thì đằng nào anh cũng không thắng được.”
Reacher không nói gì.
Họ chờ. Nửa đêm. Mười hai giờ ba mươi. Yanni nghịch chiếc điện thoại di động rồi gọi cho ai đó. Reacher rà soát lại kế hoạch một lần nữa. Trước tiên ông nhẩm trong đầu, sau đó nói ra, cho đến khi mọi người hiểu rõ. Các chi tiết, cách bố trí, uốn nắn, chỉnh sửa.
Ông nói, “Nhưng chúng ta vẫn có thể thay đổi mọi chuyện. Khi chúng ta đến đó. Không gì bằng xem xét địa hình thật.”
Họ chờ. Một giờ. Một giờ ba mươi. Reacher bắt đầu cho phép mình nghĩ về kết thúc. Về điều gì sẽ đến sau khi chiến thắng. Ông quay qua Franklin.
Ông hỏi, “Ai là phó của Emerson?”
“Một bà tên là Donna Bianca.”
“Bà ta có giỏi không?”
“Bà ta là phó của ông ấy.”
“Bà ta cần có mặt ở đó. Sau đó ấy. Nó sẽ là một cảnh quân hồi vô phèng thực sự. Chỉ có chúng ta thì không đủ. Tôi muốn anh đưa Emerson và Donna Bianca tới đó. Và dĩ nhiên, Alex Rodin nữa. Sau khi chúng ta thắng.”
“Họ sẽ còn ngủ.”
“Thì đánh thức họ dậy.”
Franklin nói, “Nếu chúng ta thắng.”
Vào lúc một giờ bốn mươi lăm mọi người bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Helen bước lại và ngồi xổm xuống bên Reacher. Nhặt con dao lên nhìn. Rồi lại bỏ nó xuống.
Cô hỏi, “Vì sao ông làm chuyện này?”
“Vì tôi có thể làm. Và vì cô gái.”
“Ông sẽ tự giết mình.”
Reacher nói, “Chưa chắc. Bọn chúng là các lão già và những thằng ngu. Tôi đã sống sót được qua những thằng khá hơn.”
“Ông chỉ nói thế thôi.”
“Nếu tôi đột nhập vào ổn thỏa, tôi sẽ khá an toàn. Tiến từ phòng này sang phòng khác không phải là khó. Người ta rất hoảng sợ khi có một kẻ săn mồi được thả lỏng trong nhà. Chúng ngán lắm.”
“Nhưng ông sẽ không vào được ổn thỏa. Chúng sẽ phát hiện ra ông.”
Reacher lục trong túi bên trái lấy ra đồng hai mươi lăm xu mới tinh đã làm cấn ông trong xe. Đưa nó cho cô.
Ông nói, “Cho cô đấy.”
Cô nhìn đồng xu. “Một món để nhớ đến ông à?”
“Một món để nhớ đến tối nay.”
Rồi ông xem đồng hồ. Đứng dậy.
Ông nói, “Hãy ra tay nào.”
“Trong hai năm ngày nào cũng thấy.”
“Nó là xe gì?”
“Một chiếc xe tải nhẹ. Hiệu Chevy, tôi nghĩ vậy.”
“Một chiếc Silverado cũ, màu nâu? Bánh bằng thép?”
Ông ta tròn xoe mắt, “Làm sao mà ông biết được?”
Reacher nói, “Thêm một câu hỏi nữa thôi. Cho vợ ông.”
Bà ta nhìn ông.
“Sau khi Oline đến gặp cảnh sát, bà ta có kể với bà là mình đã nói chuyện với ai không? Có phải là một thanh tra tên là Emerson không?”
Bà ta lắc đầu. “Tôi nói với Oline rằng nếu không muốn gọi điện thoại thì chị ấy nên đến sở cảnh sát, nhưng chị ấy nói nó ở xa quá, vì chị ấy không có giờ nghỉ trưa lâu như thế. Chị ấy nói sẽ đến gặp ông công tố viên quận. Văn phòng của ông ta gần Sở Đăng kiểm hơn nhiều. Và dù sao đi nữa, tính Oline là như thế. Chị ấy thích đi thẳng đến nơi cao cấp nhất. Do đó chị ấy đến trình bày với chính Alex Rodin.”
Helen Rodin hoàn toàn im lặng trên suốt quãng đường trở về thị trấn. Im lặng đến mức cả người cô bần bật run lên. Môi cô mím lại, hai má hóp vào và mắt thì mở lớn. Sự im lặng của cô làm cho Reacher và Yanni không thể nói năng gì. Như thể toàn bộ không khí đã bị hút khỏi xe và tất cả những gì còn lại là sự im lặng giống như một lỗ đen quá ồn ào đến mức làm người ta đau đớn.
Cô lái xe như một người máy, thành thạo, không nhanh, không chậm, máy móc tuân theo những vạch chia làn đường, đèn xanh đèn đỏ và biển báo nhường đường. Cô đậu lại trên thềm bên dưới văn phòng của Franklin, cứ để xe nổ máy, và nói, “Hai người cứ tiếp tục công việc. Tôi không thể làm gì nữa.”
Ann Yanni bước xuống và đi đến cầu thang. Reacher ngồi lại trong xe, ngả người lên trước qua ghế.
Ông nói, “Rồi sẽ ổn thôi mà.”
“Không đâu.”
“Helen, rút chìa khóa ra và đi lên trên kia ngay lập tức. Cô là nhân viên tòa án và cô đang có một thân chủ gặp khó khăn.” Rồi ông mở cửa, leo xuống xe, và lúc ông đi vòng quanh cốp xe thì cô đã đứng chờ ông ở chân cầu thang.
Như thường lệ, Franklin đang ngồi trước máy vi tính. Ông cho Reacher biết rằng Cash từ Kentucky đang trên đường đến đây, không thắc mắc gì cả. Rằng Ted Archer chưa xuất hiện ở bất cứ đâu trên các cơ sở dữ liệu. Rồi ông nhận ra sự im lặng và căng thẳng.
Ông hỏi, “Chuyện gì vậy?”
Reacher nói, “Chúng ta chỉ còn cách có một bước thôi. Ted Archer làm ăn trong ngành bê tông, và ông ta bị gạt ra khỏi tất cả những hợp đồng xây dựng mới của thành phố bởi có một kẻ cạnh tranh đưa hối lộ. Ông ta cố gắng chứng minh điều đó và hẳn sắp sửa thành công, bởi vì kẻ cạnh tranh đã hạ ông.”
“Ông có thể chứng minh điều đó không?”
“Chỉ bằng cách suy luận thôi. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra xác của ông ấy nếu không đào đường số Một lên. Nhưng tôi biết chiếc xe tải của ông ấy hiện đang ở đâu. Nó ở trong nhà kho của Jeb Oliver.”
“Tại sao ở đó?”
“Chúng sử dụng Oliver cho những việc mà chúng không thể tự làm. Những khi chúng không muốn chường mặt ra, hay không thể chường mặt ra được. Có lẽ Archer biết chúng và không đời nào đến gần chúng. Nhưng Oliver chỉ là một thằng bé trong vùng. Có thể hắn dàn cảnh một vụ bể bánh xe hay xin đi nhờ xe. Archer sẽ dính bẫy ngay. Rồi bọn côn đồ giấu cái xác và Oliver thì giấu chiếc xe tải.”
“Oline Archer không nghi ngờ gì sao?”
Reacher nói, “Sau cùng thì bà ta cũng nghi. Bà ta loay hoay với chuyện này suốt hai tháng, rồi có lẽ đã kết nối các dữ kiện lại với nhau đủ để suy ra một điều gì đó. Rồi bà ta bắt đầu mang nó ra công khai, và hẳn tất cả các chuông báo động bí mật đều đã réo lên, vì một tuần sau đó thì bà ta bị giết. Mọi chuyện được dàn cảnh như vậy, bởi vì một ông chồng bị mất tích và rồi hai tháng sau thì đến bà vợ bị giết sẽ đặt ra rất nhiều dấu hỏi. Nhưng chừng nào mà sự việc còn có vẻ tình cờ thì nó sẽ được xem là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”
“Oline báo sự việc với ai? Emerson à?”
Reacher không đáp.
Helen Rodin nói, “Bà ta báo với cha tôi.”
Im lặng một lúc lâu.
Franklin nói, “Giờ thì làm gì đây?”
Reacher đáp, “Anh lại phải gõ bàn phím thôi. Kẻ nào có được hợp đồng của thành phố thì kẻ đó nói chung đã xác định chính mình là phe xấu. Do đó chúng ta cần phải biết hắn là ai. Và công ty của hắn ở đâu.”
Franklin nói, “Có trong kho dữ liệu công khai.”
“Vậy thì anh tìm đi.”
Franklin quay đi giữa cảnh im lặng và bắt đầu lướt ngón tay trên bàn phím. Ông di rồi nhấp chuột mất chừng một phút. Rồi có được kết quả.
Ông nói, “Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Họ nhận được tất cả những hợp đồng hiện thời của thành phố về xi măng, bê tông, và đá nghiền. Nhiều triệu đô la.”
“Chúng ở đâu?”
“Đó mới là tin tốt.”
“Còn tin xấu là gì?”
“Không có tư liệu gì cả. Chúng là một quỹ tín thác đặt trụ sở tại Bermuda. Chúng không phải làm hồ sơ gì cả.”
“Hệ thống kiểu quái gì vậy?”
Franklin không trả lời.
“Một quỹ tín thác ở Bermuda cần có một luật sư địa phương.” Giọng của Helen thấp, lặng lẽ, và kìm nén. Reacher nhớ lại tấm biển bên ngoài văn phòng của A.A Rodin: tên họ, theo sau là những chữ cái biểu thị bằng cấp luật.
Franklin bấm qua hai màn hình nữa.
Ông nói, “Có một số điện thoại. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có được.”
Helen hỏi, “Số bao nhiêu?”
Franklin đọc con số.
Helen nói, “Đó không phải là số của cha tôi.”
Franklin bấm vào một thư mục tra ngược. Gõ con số vào, màn hình thay đổi và hiện ra một cái tên và một địa chỉ công ty.
Ông nói, “John Mistrov.”
Reacher nói, “Tên Nga.”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Anh có biết hắn không?”
“Sơ sơ. Hắn là một tay chuyên làm về di chúc và ủy thác. Công ty một thành viên. Tôi chưa từng làm việc cho hắn.”
Reacher nhìn đồng hồ, “Anh có thể tìm được địa chỉ nhà không?”
Franklin vào một thư mục bình thường. Gõ cái tên vào và hiện ra một địa chỉ thuộc vùng này.
Ông hỏi, “Tôi có nên gọi cho hắn không?”
Reacher lắc đầu, “Chúng ta sẽ đến viếng hắn. Gặp trực tiếp thì tốt hơn khi không có nhiều thời gian.”
Vladimir xuống phòng giám sát ở tầng trệt. Sokolov đang ngồi trên một chiếc ghế có bánh lăn trước một dãy bàn dài đặt bốn màn hình ti vi. Từ trái qua phải chúng được dán nhãn Bắc, Đông, Nam, và Tây. Cách xếp đặt này rất hợp lý nếu người ta quan sát thế giới theo chiều kim đồng hồ. Sokolov đang trượt chiếc ghế chầm chậm theo dãy màn hình, xem xét từng hình ảnh, tiếp tục quay lại, từ Tây trở về Bắc nhờ một cú đẩy mạnh vào bức tường. Cả bốn màn hình đều nhiễu và phát hình màu xanh lá cây, vì bên ngoài trời tối và bộ ghi hình tầm nhiệt đã khởi động. Thỉnh thoảng có thể thấy một đốm sáng đang di chuyển nhanh ngoài xa. Một con thú. Ăn đêm. Cáo, chồn hôi, gấu trúc, hay một con mèo nhà, hay một con chó lạc mất đường về. Trên màn hình hướng Bắc hình ảnh từ khu nghiền đá sáng lòa. Nó sẽ nhòa đi khi những chiếc máy đã nguội đi. Ngoài ra, tất cả phần hậu cảnh chìm trong một màu ôliu sậm, bởi vì không có gì ở ngoài đó ngoại trừ nhiều dặm đồng cỏ nối tiếp nhau, phủ đầy sương mù lạnh phun ra từ những trụ tưới quay mải miết.
Vladimir kéo chiếc ghế có bánh lăn thứ hai và ngồi xuống bên trái Sokolov. Hắn sẽ xem chừng hướng Bắc và hướng Đông. Sokolov sẽ tập trung vào hướng Nam và hướng Tây. Theo cách đó, mỗi tên chịu trách nhiệm một hướng có khả năng có chuyện và một hướng ít khả năng. Phân công lao động thế là công bằng.
Trên hành lang tầng ba, Chenko nạp đạn vào khẩu Super Match của mình. Mười viên, loại Lake City.308. Một trong những thứ người Mỹ làm tốt là đạn dược. Hắn mở tất cả các cửa phòng ngủ để dễ dàng di chuyển các hướng khi cần. Hắn bước đến một cửa sổ và mở ống ngắm ban đêm. Đặt nó ở phạm vi bảy mươi lăm thước. Hắn cho rằng sẽ được cảnh báo khi thằng lính ở cách một trăm năm mươi thước. Đó là khoảng giới hạn hoạt động của các máy quay. Hắn sẽ bước đến cửa sổ cần thiết và ngắm vào mục tiêu khi nó vẫn còn xa hơn một trăm thước. Hắn sẽ theo dõi sự di chuyển của mục tiêu. Hắn sẽ đợi nó tiến đến mình. Khi nó cách bảy mươi lăm thước, hắn sẽ hạ nó.
Hắn nâng khẩu súng lên. Xem xét hình ảnh trong ống ngắm. Rất sáng và rõ. Hắn quan sát một con cáo băng ngang khoảng đất trống từ Đông qua Tây. Săn tốt nhé, chú bạn nhỏ. Hắn quay trở lại hành lang, dựng khẩu súng dựa vào tường và ngồi xuống đợi trên một chiếc ghế lưng thẳng.
Helen Rodin khăng khăng ở lại trong văn phòng của Franklin. Do đó chỉ có Reacher và Yanni đi với nhau, trong chiếc Mustang. Đường phố tối và vắng. Yanni lái xe. Cô biết đường quanh đây. Địa chỉ mà họ tìm là một tòa chung cư lớn, cải biến từ một nhà kho cũ nằm giữa đoạn đường từ cầu tàu đến ga dỡ hàng. Yanni nói rằng nó là một phần của quy hoạch thành phố mới. SoHo[43] đến miệt trong. Cô nói cô từng tính đến chuyện mua nhà trong chính tòa nhà đó.
[43]: Một khu phố nhộn nhịp ở vùng Mahattan của thành phốNew York.
Rồi cô nói, “Chúng ta nên coi chừng Helen tự tử.”
Reacher nói, “Cô ấy sẽ ổn thôi.”
“Anh nghĩ vậy à?”
“Tôi tin chắc như thế.”
“Nếu là cha của anh thì sao?”
Reacher không trả lời. Yanni chạy chậm lại khi một tòa nhà gạch thật to lù lù hiện ra trong bóng tối.
Reacher nói, “Cô cứ hỏi trước. Nếu hắn không trả lời, tới phiên tôi sẽ hỏi.”
Yanni nói, “Hắn sẽ trả lời. Tất cả mọi người đều trả lời.”
Nhưng John Mistrov thì không. Hắn là một tay gầy gò, khoảng bốn mươi lăm tuổi. Hắn ăn vận như thể đang chịu đựng cơn khủng hoảng vào tuổi trung niên của một người đã ly dị. Quần jeans quá chật tẩy bằng a-xit, áo phông đen, không mang giày. Họ gặp hắn đang ở một mình trong căn hộ sơn trắng khá lớn, đang ăn đồ ăn Tàu trong những hộp giấy. Ban đầu, hắn rất vui khi gặp Yanni. Có lẽ giao du với những người nổi tiếng cũng nằm trong lối sống đầy quyến rũ mà sự phát triển mới hứa hẹn. Nhưng nhiệt tình ban đầu của hắn phai đi rất nhanh. Nó biến mất hoàn toàn khi Yanni lược qua những mối nghi ngờ của cô và đòi hỏi được biết những cái tên nằm sau quỹ tín thác.
Hắn nói, “Tôi không thể nói với cô. Chắc chắn cô hiểu đây là những thông tin bảo mật. Chắc chắn cô hiểu điều đó.”
Yanni nói, “Tôi hiểu rằng những tội ác nghiêm trọng đã xảy ra. Đó là những gì tôi hiểu. Và ông cũng cần hiểu điều đó nữa. Ông cần phải chọn đứng về bên nào, ngay bây giờ, nhanh lên, trước khi chuyện này được công khai.”
Hắn nói, “Tôi không có gì để nói.”
Yanni nhỏ nhẹ, “Ở đây không có gì xấu hết. Những cái tên chúng tôi muốn, ngày mai chúng sẽ vào tù hết. Không đường trở lại.”
“Tôi không có gì để nói.”
“Ông thích chìm xuồng cùng chúng không?” Yanni hỏi. Đanh thép. “Như là một kẻ đồng lõa? Hay ông thích xoay xở thoát ra khi đã muộn? Tùy ông chọn. Nhưng thế nào đi nữa thì ông cũng sẽ lên bản tin tối mai. Hoặc diễu hành với đôi tay còng hoặc đứng đó làm dáng, kiểu như ôi Chúa ơi, tôi không biết chút gì, tôi quá sốt sắng muốn giúp đỡ họ.”
“Tôi không có gì để nói.” Hắn lặp lại lần thứ ba.
Lớn tiếng, rõ ràng và kênh kiệu.
Yanni chào thua. Nhún vai và đưa mắt nhìn Reacher. Reacher xem đồng hồ. Thời gian đang nhích đi. Ông bước gần lại.
Ông hỏi, “Mày có bảo hiểm y tế không?”
Hắn gật đầu.
“Bảo hiểm nha khoa?”
Hắn lại gật đầu.
Reacher đấm hắn trúng miệng. Đấm bằng tay phải, đường vung ngắn, khá mạnh.
Ông nói, “Nhớ chữa cả cái đó nữa.”
Hắn bật lui một bước, gập người lại, rồi nhổm lên ho, máu chảy ra khắp cằm. Môi rách, những chiếc răng lung lay nhuộm đỏ lòm.
Reacher nói, “Tên gì, nói ngay. Hay tao xé xác mày ra từng miếng một.”
Hắn ngần ngại. Sai lầm. Reacher đấm hắn lần nữa. Rồi hắn phun ra những cái tên, sáu cái, mô tả hình dáng, và một cái địa chỉ, tất cả đều từ vị trí thẳng cẳng trên sàn nhà và đều trong một giọng nói lúng búng và đặc lại với từng bụm máu trong miệng.
Reacher nhìn Yanni.
Ông nói, “Tất cả mọi người đều trả lời.”
Trong bóng tối khoang lái chiếc Mustang trên đường về, Ann Yanni nói, “Hắn sẽ gọi điện báo cho chúng.”
Reacher nói, “Hắn sẽ không gọi đâu. Hắn vừa phản bội chúng. Vậy nên tôi đoán hắn sẽ chuồn đi nghỉ một chuyến dài hạn vào ngày mai.”
“Anh hy vọng thế.”
“Chẳng quan trọng gì nữa. Chúng đã biết rằng tôi đang đến tìm chúng. Thêm một lời cảnh báo cũng không thay đổi gì.”
“Anh có một phong cách rất thẳng thắn. Kiểu mà người ta không nhắc đến trong Đại cương về nghề báo.”
“Tôi có thể dạy cho cô. Thật ra, quan trọng là ở chỗ bất ngờ. Nếu có thể làm cho chúng bất ngờ thì không cần phải đấm chúng quá mạnh tay.”
Yanni đọc cho Franklin những cái tên mà John Mistrov vừa thú. Bốn tên khớp với những cái tên mà Reacher đã nghe: Charlie Smith, Konstantin Raskin, Vladimir Shumilov, và Pavel Sokolov. Tên thứ năm là Grigor Linsky, Reacher nghĩ đó hẳn phải là gã đàn ông tàn tật mặc đồ vest, bởi vì cái tên thứ sáu đơn giản là Zec Chelovek.
Franklin nói, “Tôi nghĩ ông nói Zec là một từ.”
Reacher nói, “Đúng vậy. Và Chelovek cũng vậy. Nó là phiên âm của từ tiếng Nga có nghĩa là “con người“. Zec Chelovek có nghĩa là Con Người Tù. Như là Tù Nhân vậy.”
“Những kẻ khác không dùng tên mã hóa.”
“Chắc hẳn The Zec cũng không dùng. Có lẽ đó là tất cả những gì mà hắn còn lại. Có lẽ hắn đã quên tên thật của mình. Có thể tất cả chúng ta cũng sẽ quên, nếu chúng ta ở Gulag.”
Yanni nói, “Anh có vẻ thương cảm hắn.”
Reacher đáp, “Tôi không thương cảm gì cả. Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu hắn.”
Helen nói, “Không lời nào nhắc đến cha tôi.”
Reacher gật đầu, “The Zec là kẻ giật dây. Gã là cấp cao nhất.”
“Có nghĩa cha tôi chỉ là một người làm thuê.”
“Đừng lo về chuyện đó lúc này. Hãy tập trung vào Rosemary.”
Franklin vào một bản đồ trên mạng và khám phá ra cái địa chỉ mà John Mistrov khai ra là một cơ sở nghiền đá được xây dựng kế bên một mỏ đá cách tám dặm về hướng Tây Bắc của thành phố. Rồi ông tìm trong hồ sơ khai thuế và xác định rằng Dịch vụ chuyên dụng của Indiana là chủ sở hữu có đăng ký của nó. Rồi ông xem lại các hồ sơ lần nữa và phát hiện rằng ngoài ra chỉ còn một bất động sản duy nhất đăng ký cho quỹ tín thác, đó là ngôi nhà trên khu đất kề sát bên nhà máy nghiền đá. Yanni nói rằng cô rất rành khu vực này.
Reacher hỏi cô, “Có cái gì khác ở ngoài đó không?”
Cô lắc đầu. “Không có gì cả ngoài đất nông nghiệp dài hàng dặm.”
Reacher nói, “OK. Đúng rồi đấy. Đó là nơi Rosemary có mặt.”
Ông xem đồng hồ. Mười giờ tối.
Yanni hỏi, “Giờ thì làm gì đây?”
Reacher đáp, “Giờ chúng ta chờ.”
“Chờ cái gì?”
“Chờ Cash đến đây từ Kentucky. Rồi chúng ta sẽ chờ thêm một lúc.”
“Chờ cái gì?”
Reacher mỉm cười.
Ông nói, “Chờ màn đêm nuốt đi tất cả.”
Họ cùng chờ đợi. Franklin pha cà phê. Yanni kể những câu chuyện truyền hình, về những người cô quen biết, về những chuyện cô từng thấy, về các bạn gái của thống đốc, người tình của vợ các chính khách, những vụ bỏ phiếu kín gian lận, những công đoàn bị mua chuộc, về hàng mẫu cần sa trồng phía sau những luống ngô cao quây tròn thành rào chắn trên rìa những cánh đồng Indiana. Rồi Franklin kể về những năm tháng ông còn là cảnh sát. Rồi Reacher kể về cuộc sống của ông từ khi rời quân đội, về chuyện lãng du, thám hiểm, đời sống vô hình không bắt rễ của mình.
Helen không nói một điều gì.
Đúng mười một giờ, họ nghe tiếng phành phạch của máy nổ chạy dầu diesel dội vào tường gạch bên ngoài. Reacher bước lại cửa sổ, thấy chiếc Humvee của Cash đang chúi mũi vào thềm đậu xe. Ông nghĩ, Ồn quá. Không thể dùng nó được.
Hay có lẽ là được đấy.
Ông nói, “Đội Thủy quân lục chiến đã đến.”
Họ nghe tiếng chân của Cash trên cầu thang bên ngoài. Nghe tiếng ông ta gõ cửa. Reacher bước ra hành lang để mở cửa. Cash bước vào, nhanh nhẹn, rắn chắc, tự tin. Ông ta mặc toàn đồ màu đen. Quần vải thô đen, áo khoác vải đen. Reacher giới thiệu mọi người với ông. Yanni, Franklin, Helen Rodin. Mọi người bắt tay và Cash ngồi xuống ghế. Trong vòng hai mươi phút là ông đã nắm được mọi chi tiết và sẵn sàng hành động.
“Chúng bịt miệng một cô nhỏ mười chín tuổi ư?” ông hỏi.
“Nếu gặp, ông sẽ ưa cô ta đấy,“ Reacher đáp.
“Chúng ta có kế hoạch chưa?”
Reacher đáp, “Chúng ta sắp tính một kế hoạch.” Yanni ra ngoài xe lấy mớ bản đồ. Franklin dẹp những tách cà phê cho trống bàn. Yanni chọn ra tấm cần thiết. Trải phẳng nó ra.
Cô nói, “Ngoài đó giống như là một cái bàn cờ khổng lồ. Mỗi ô vuông là một khoảnh ruộng bề ngang một trăm thước. Những con đường vạch thành các ô, từ Bắc đến Nam, Tây qua Đông, khoảng hai mươi khoảnh ruộng riêng rẽ nhau.” Rồi cô chỉ. Ngón tay thanh mảnh, móng sơn. “Nhưng ngay tại đây chúng ta có hai con đường gặp nhau, và ở phía Đông Nam giao điểm của hai con đường đó ta có một khoảng trống rộng bằng ba khoảnh ruộng và dài bằng năm khoảnh ruộng. Không có trồng trọt gì ở đó. Nửa Bắc khu đó là nhà máy nghiền đá và ngôi nhà nằm ở phía Nam. Tôi đã thấy nó, nó cách đường cái khoảng hai trăm thước, nằm một mình ở giữa khoảng trống tuyệt đối. Không cảnh vật, không hoa màu. Cũng không có hàng rào luôn.”
Reacher hỏi, “Bằng phẳng?”
Yanni nói, “Phẳng như mặt bàn bi-a.”
Cash nói, “Ngoài đó tối om.”
Reacher nói, “Tối đen như áo chẽn của Diêm vương. Và tôi đoán rằng nếu không có hàng rào có nghĩa là chúng dùng máy quay phim. Với một bộ tầm nhiệt vào ban đêm. Dùng tia hồng ngoại hay gì đó.”
Cash hỏi, “Anh chạy qua hai trăm thước mất bao lâu?”
Reacher nói, “Tôi ư? Đủ chậm để chúng có thể đặt hàng qua thư mua một khẩu súng để hạ tôi.”
“Cách tiếp cận tốt nhất là gì?”
Reacher nói, “Bước vào từ hướng Bắc. Không nghi ngờ gì cả. Chúng ta có thể thâm nhập thẳng vào khu vực nghiền đá từ đường cái và đi xuyên qua nó. Rồi chúng ta có thể nghỉ lại đó lâu chừng nào cũng được. Chỗ ẩn nấp khá tốt cho tới phút cuối.”
“Không thể bước vào từ bất cứ nơi đâu nếu chúng có máy quay phim tầm nhiệt.”
“Chúng ta sẽ lo chuyện đó sau.”
“OK, nhưng chúng sẽ lường trước hướng Bắc.”
Reacher gật đầu. “Chúng ta sẽ bỏ qua hướng Bắc luôn. Quá dễ bị phát hiện.”
“Hướng Nam hay hướng Đông sẽ khá hơn. Bởi vì có lẽ lối xe vào là hướng Tây. Chắc chắn là quá thẳng và trống trải.”
“Chúng cũng sẽ nghĩ như vậy.”
“Thì hai chúng ta cùng đúng.”
Reacher nói, “Tôi thích cái lối xe vào đấy. Nó như thế nào nhỉ? Có lát đá không?”
Yanni nói, “Đá vôi nghiền. Thứ này thì chúng có tha hồ.”
Cash nói, “Ồn lắm.”
Reacher nói, “Nó sẽ giữ lại một ít hơi nóng ban ngày. Nó sẽ ấm hơn đất. Nó sẽ vạch xuống hình ảnh hấp nhiệt một vệt màu. Nếu độ tương phản không tốt lắm thì nó sẽ tạo thêm một khoảng mờ cả hai bên.”
Cash nói, “Anh đùa đấy à? Anh sẽ nóng hơn nhiệt độ chung quanh từ năm đến mười độ. Anh sẽ sáng như một ngọn đuốc báo hiệu trên đường.”
“Chúng sẽ quan tâm đến hướng Nam và hướng Đông.”
“Không chỉ có thế.”
“Anh có ý kiến gì hay hơn không?”
“Tấn công thẳng vào mặt trước thì thế nào? Ta dùng xe?”
Reacher mỉm cười, “Nếu nó tuyệt đối và hoàn toàn phải bị tiêu diệt vào sáng mai, hãy gọi cho quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.”
Cash nói, “Rõ.”
Reacher nói, “Quá nguy hiểm. Chúng ta không thể cho chúng biết trước một giây nào và chúng ta không thể biến nơi đó thành một khu vực oanh kích tự do. Chúng ta phải nghĩ đến Rosemary nữa.”
Không ai lên tiếng.
Reacher lặp lại, “Tôi thích cái lối xe vào.”
Cash liếc nhìn Helen Rodin.
Ông nói, “Chúng ta có thể gọi cảnh sát. Các bạn biết đó, nếu viên công tố là kẻ xấu. Chỉ vài đội đặc nhiệm hành động là có thể làm việc này rồi.”
Reacher nói, “Cũng vậy thôi. Rosemary sẽ bị giết trước khi họ tiến vào đến cửa.”
“Vậy cắt dây điện? Triệt hạ máy quay?”
“Cũng vậy thôi. Nó cũng là báo động sớm cho chúng.”
“Ý của anh.”
Reacher nói, “Lối xe vào. Tôi thích cái lối xe vào.”
“Nhưng những chiếc máy quay phim thì thế nào đây?”
Reacher nói, “Tôi sẽ nghĩ ra điều gì đó.” Ông bước lại bàn. Nhìn đăm đăm xuống tấm bản đồ. Rồi ông quay lại với Cash. “Xe anh có máy CD không?”
Cash gật đầu. “Một phần của các trang bị tiện nghi trong xe.”
“Anh có phiền không nếu giao xe cho Franklin lái?”
“Franklin có thể lấy luôn nó. Tôi thích một chiếc xe con hơn.”
“OK, chiếc Humvee của anh là xe dùng để tiếp cận của chúng ta. Franklin có thể chở chúng ta đến đó, thả chúng ta xuống, rồi chạy thẳng về lại đây.”
Yanni nói, “Chúng ta? Tất cả chúng ta cùng đi à?”
Reacher nói, “Dĩ nhiên. Bốn người chúng ta sẽ ở đó, với Franklin ở lại đây làm trung tâm liên lạc.”
Yanni nói, “Tuyệt.”
Reacher nói, “Chúng ta cần điện thoại di động.”
Yanni nói, “Tôi có một cái.”
Cash nói, “Tôi cũng vậy.”
Helen nói, “Tôi cũng vậy.”
Reacher nói, “Tôi không có.”
Franklin lấy một chiếc Nokia nhỏ trong túi ra.
Ông nói, “Dùng cái của tôi này.”
Reacher nhận lấy. “Anh có thể cài đặt một cuộc gọi hội nghị không? Bốn chiếc điện thoại di động và điện thoại bàn của anh? Ngay khi anh về lại đây?”
Franklin gật đầu, “Được. Cho tôi số của các bạn.”
Reacher nói, “Và tắt chuông đi.”
Cash hỏi, “Khi nào thì chúng ta sẽ hành động đây?”
Reacher nói, “Bốn giờ sáng là giờ tôi ưa nhất. Nhưng chúng chắc đã lường trước điều này. Chúng ta học từ bên đó mà. Bốn giờ sáng là lúc KGB đi gõ cửa nhà. Ít kháng cự nhất. Nó là yếu tố thuộc nhịp sinh học. Do đó chúng ta sẽ làm chúng ngạc nhiên. Chúng ta sẽ hành động vào lúc hai giờ rưỡi.”
Yanni nói, “Nếu anh làm cho chúng ngạc nhiên thì anh không cần phải ra đòn mạnh tay, phải không?”
Reacher lắc đầu, “Trong tình huống này, nếu chúng ta làm chúng ngạc nhiên chúng sẽ không ra đòn mạnh tay với tôi.”
Cash hỏi, “Tôi sẽ ở đâu?”
Reacher nói, “Góc Tây Nam của nhà máy nghiền đá. Quan sát ngôi nhà nằm ở hướng Đông Nam. Anh có thể kiểm soát các mặt hướng Tây và hướng Bắc của ngôi nhà cùng lúc, với khẩu súng của mình.”
“OK.”
“Anh mang cho tôi thứ gì vậy?”
Cash lục trong túi áo khoác rồi lấy ra một lưỡi dao trong vỏ. Ông thảy nó ngang qua căn phòng. Reacher bắt lấy. Nó là loại dao tiêu chuẩn của hải quân đặc nhiệm. Loại dao cứu sinh của họ. Bằng thép, nhựa epoxi đen, lưỡi dài bảy inch. Không còn mới.
Reacher hỏi, “Cái này ấy à?”
Cash nói, “Tôi chỉ có thế. Tất cả vũ khí mà tôi có là khẩu súng và con dao đó.”
“Anh đùa.”
“Tôi là dân làm ăn, chứ không phải là kẻ nghiện bắn giết.”
“Chúa ơi, anh trung sĩ. Tôi sẽ mang con dao này đi đấu súng à? Chẳng phải lẽ ra phải ngược lại sao?”
Cash lặp lại, “Tôi chỉ có thế thôi.”
“Nhất rồi còn gì!”
“Anh có thể đoạt khẩu súng của thằng đầu tiên mà anh thịt được. Thực tế đi, nếu anh không đến gần đủ để thịt một thằng trong bọn chúng thì đằng nào anh cũng không thắng được.”
Reacher không nói gì.
Họ chờ. Nửa đêm. Mười hai giờ ba mươi. Yanni nghịch chiếc điện thoại di động rồi gọi cho ai đó. Reacher rà soát lại kế hoạch một lần nữa. Trước tiên ông nhẩm trong đầu, sau đó nói ra, cho đến khi mọi người hiểu rõ. Các chi tiết, cách bố trí, uốn nắn, chỉnh sửa.
Ông nói, “Nhưng chúng ta vẫn có thể thay đổi mọi chuyện. Khi chúng ta đến đó. Không gì bằng xem xét địa hình thật.”
Họ chờ. Một giờ. Một giờ ba mươi. Reacher bắt đầu cho phép mình nghĩ về kết thúc. Về điều gì sẽ đến sau khi chiến thắng. Ông quay qua Franklin.
Ông hỏi, “Ai là phó của Emerson?”
“Một bà tên là Donna Bianca.”
“Bà ta có giỏi không?”
“Bà ta là phó của ông ấy.”
“Bà ta cần có mặt ở đó. Sau đó ấy. Nó sẽ là một cảnh quân hồi vô phèng thực sự. Chỉ có chúng ta thì không đủ. Tôi muốn anh đưa Emerson và Donna Bianca tới đó. Và dĩ nhiên, Alex Rodin nữa. Sau khi chúng ta thắng.”
“Họ sẽ còn ngủ.”
“Thì đánh thức họ dậy.”
Franklin nói, “Nếu chúng ta thắng.”
Vào lúc một giờ bốn mươi lăm mọi người bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Helen bước lại và ngồi xổm xuống bên Reacher. Nhặt con dao lên nhìn. Rồi lại bỏ nó xuống.
Cô hỏi, “Vì sao ông làm chuyện này?”
“Vì tôi có thể làm. Và vì cô gái.”
“Ông sẽ tự giết mình.”
Reacher nói, “Chưa chắc. Bọn chúng là các lão già và những thằng ngu. Tôi đã sống sót được qua những thằng khá hơn.”
“Ông chỉ nói thế thôi.”
“Nếu tôi đột nhập vào ổn thỏa, tôi sẽ khá an toàn. Tiến từ phòng này sang phòng khác không phải là khó. Người ta rất hoảng sợ khi có một kẻ săn mồi được thả lỏng trong nhà. Chúng ngán lắm.”
“Nhưng ông sẽ không vào được ổn thỏa. Chúng sẽ phát hiện ra ông.”
Reacher lục trong túi bên trái lấy ra đồng hai mươi lăm xu mới tinh đã làm cấn ông trong xe. Đưa nó cho cô.
Ông nói, “Cho cô đấy.”
Cô nhìn đồng xu. “Một món để nhớ đến ông à?”
“Một món để nhớ đến tối nay.”
Rồi ông xem đồng hồ. Đứng dậy.
Ông nói, “Hãy ra tay nào.”
Bình luận truyện