Sơn Hà Bất Dạ Thiên
Chương 46
Mảnh trăng mất hút sau cụm mây dày sụ. Đứng trên lầu Hư Cực, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt. Đến cỏ dại cũng phải oằn mình trước sức gió. Đã sang tháng tư, xuân đà ngót nửa, thế mà Đường Thận vẫn thấy rét buốt tận tim.
Thoạt tiên, những gì Vương Trăn nói khiến Đường Thận hết sức ngỡ ngàng, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, cố ghìm cơn xúc động.
Cậu và Vương Trăn là trò cùng thầy, dù thế nào đi chăng nữa cũng đã là bằng. Nhưng Vương Trăn nói, phải cùng chí hướng mới thành hữu! Chí hướng của Vương Trăn ra sao, Đường Thận làm sao biết? Lẽ nào anh ta hỏi vậy là có ý ép mình theo phe cánh anh ta?
Giờ Đường Thận đã là Thám Hoa, đương nhiên sẽ được giao việc ở viện Hàn lâm. Nếu không có gì bất ngờ, ít nhất cậu sẽ làm việc ở viện Hàn Lâm nửa năm, không hề dính dáng đến Vương Trăn ở bộ Hộ. Tình huống trong triều cậu hết sức mù mờ, mãi đến bữa tiệc hôm nay mới hỏi được Phó Vị và Vương Trăn. Như vậy, cậu có ích lợi gì cho Vương Trăn đây? Chí hướng của Vương Trăn là gì, con người của anh ta trên triều đình ra sao, địa vị của anh ta cao đến mức nào, cậu hoàn toàn không biết dù chỉ một chút!
Sự bình tĩnh ngoài mặt của Đường Thận, chẳng qua là lớp ngụy trang cho mớ bòng bong rối rắm trong lòng.
Bỗng cậu như sực tỉnh: Có đúng là Vương Trăn đang lôi kéo mình về phe anh ta không?
Cậu mới mười sáu tuổi, xuất thân tầm thường, chẳng phải con dòng cháu giống. Nếu không nhờ sự nâng đỡ của Lương Tụng, Đường Thận không bao giờ có được cơ hội bái Phó Vị làm thầy. Suốt một năm qua, cậu được gần gũi, bầu bạn với Vương Trăn. Lúc này đây, Đường Thận bỗng nhớ lại từng chuyện lớn nhỏ đã trải qua, từ những lần Vương Trăn chỉ điểm cho cậu, đến sự giúp đỡ của chàng để cậu thi cử đầu xuôi đuôi lọt, đến cả cái lần Vương Trăn dẫn cậu phóng sinh trước kì thi Hội.
Hít một hơi thật sâu, Đường Thận kết luận: Vương Trăn quả thật chỉ đang hỏi chí hướng của mình thôi! Cũng có thể anh ta có ý khác, nhưng bây giờ mình giả bộ không nắm bắt được cũng không hại gì.
Khi thấy nụ cười của Vương Tử Phong, Đường Thận lại chần chừ trong giây lát rồi mới nói: “Tháng ba năm ngoái đệ đến Thịnh Kinh, được tiên sinh và sư huynh hết lòng chăm nom, coi như có chốn dừng chân ở nơi đất khách quê người xa lạ. Từ lúc rời Cô Tô, đệ chưa bao giờ nghĩ con đường khoa cử của mình lại trôi chảy được đến thế, tất cả là nhờ ơn Tử Phong sư huynh hết lòng dạy dỗ bảo ban. Ơn nghĩa ấy, Cảnh Tắc trọn đời không quên.” Ngưng một lát, cậu mới nói câu cuối cùng: “Trong lòng ta, sư huynh vừa là thầy, vừa là bạn hữu.”
Vương Trăn quan sát bộ dạng căng thẳng, thấp thỏm của Đường Thận hồi lâu, bỗng bật cười khẽ.
“Nhìn sư đệ hôm nay, ta chợt nhớ đến khoảng thời gian chín năm về trước.”
Đường Thận ngẩng lên nhìn chàng: “Chín năm trước?”
Vương Trăn như chìm vào kí ức: “Chín năm trước là thuở ta đỗ Trạng Nguyên, cũng trẻ như sư đệ bây giờ.”
Lần này Đường Thận mới thực là choáng váng.
Vương Trăn năm nay hai mươi sáu tuổi, lớn hơn Đường Thận tròn mười tuổi, song Đường Thận chưa bao giờ có suy nghĩ rằng Vương Trăn đã già. Bởi lẽ, nếu đặt vào bối cảnh hiện đại, Vương Trăn ở độ tuổi này hẵng còn là thanh niên, có khi vẫn đang cặm cụi trên giảng đường chứ chưa đi làm nữa. Ở thời hiện đại, chẳng ai bảo hai mươi sáu tuổi là già! Nhưng đây là thời cổ đại kia! Vương Trăn nói mình không còn trẻ, Đường Thận cũng không thể phủ nhận được.
Cậu ngắm khuôn mặt Vương Trăn, chợt nhớ tới Lưu Phóng mình quen ở Quốc Tử Giám hình như cũng hai mươi sáu tuổi, nhưng trông già gấp mấy lần Vương Trăn. Nhìn Vương Trăn cùng lắm chỉ như hai mươi tuổi. Chàng mang dáng vẻ của một thế gia công tử vừa cập quan, rạng ngời nét phong lưu như hòn ngọc quý.
Đường Thận nói: “Sư huynh hẵng còn trẻ lắm mà.” Hiếm hoi mới có một nhận xét thật lòng.
Vương Trăn ngoái nhìn Đường Thận, nói: “Về đêm gió lớn, xuống lầu thôi.”
Hai người cùng nhau xuống khỏi lầu Hư Cực.
Trước khi đi, Vương Trăn bỗng hỏi: “À, tiểu sư đệ đã biết phủ Thám Hoa của mình ở đâu chưa?”
Đường Thận: “Chưa ạ, đệ nghe nói tháng sau mới thông báo.”
Vương Trăn trỏ về một khu ở phía Đông, ngay sát hoàng thành, vừa hay cũng gần Phó phủ và phủ Thượng thư. Chàng nói: “Cứ mỗi dịp thi Đình, tam khôi luôn được Thánh thượng ban dinh thự, việc này thường do bộ Hộ phụ trách. Tiểu sư đệ thấy chỗ kia thế nào?”
Chỗ ấy đương nhiên là đất lành, phong thủy tốt, cả Phó Vị và Vương Trăn đều ở khu đấy, Đường Thận có gì để phàn nàn?
Oái oăm thay, viện Hàn Lâm nằm ở phía Tây kinh thành, hai nơi cách nhau cả nửa Thịnh Kinh.
Đường Thận thật thà đáp: “Chỗ đó tuyệt lắm ạ, mỗi tội hơi xa viện Hàn Lâm.”
Vương Trăn: “Ừ, báo cho đệ một tiếng ấy mà. Khu đất ấy được chọn từ cách đây ba hôm rồi.”
Ý rằng: Thông báo cho mà biết thôi nhé, không phải để hỏi ý kiến đâu.
Đường Thận: “…”
Đã vậy huynh còn hỏi làm chi!
Sau khi sư huynh đệ hai người cùng nhau xuống lầu, Vương Trăn chủ động đề nghị đưa Đường Thận về nhà, Đường Thận cũng không từ chối. Xe ngựa của Vương Trăn rộng ơi là rộng, ghế ngồi lót da hổ thượng hạng, nước lông bóng mượt, trong tủ trên xe chứa đầy các loại đồ ăn vặt và thư tịch. Vương Trăn đúng là người biết hưởng thụ, xe chạy trên đường phố Thịnh Kinh bằng phẳng, êm ru không xóc nảy tí nào.
Chiếc xe ngựa treo đèn Thượng thư thong thả dừng lại trước ngõ nhà Đường Thận. Đường Thận nhảy xuống xe, quay lại thưa: “Đa tạ Tử Phong sư huynh đã tiễn đệ.”
Vương Trăn vén rèm xe, nói với Đường Thận: “Đêm khuya rồi, tiểu sư đệ đi cẩn thận.”
Đường Thận: “Sư huynh cũng thế ạ.”
Hai người khách sáo xong, Đường Thận định về nhà, Vương Trăn bỗng nói thêm: “Mấy hôm trước đọc sách có câu này, hôm nay ngẫm lại thấy rất chí lí. Tiểu sư đệ, có đôi khi cần biết mình có thể làm gì, nhưng cũng nên biết việc gì không thể làm được.”
Đường Thận ngẩn ra, ngẩng lên nhìn Vương Trăn trong xe ngựa.
Một lúc sau, cậu phì cười: “Câu này chẳng phải là câu ‘tri kỳ bất khả nhi vi chi’ trong Luận Ngữ sao, huynh sửa lại khéo thật!”
Vương Trăn cũng cười theo, không nói nữa. Bánh xe ngựa lăn lộc cộc trên nền đường đá. Đường Thận đứng ở đầu hẻm, nhìn Vương Trăn đi xa dần, nụ cười trên môi cũng nhạt mất.
Về đến nhà, Đường Thận vào thư phòng ngồi, Phụng Bút dâng một chén canh nóng cho cậu, nhưng cậu không có tâm trạng nào để ăn.
Luận ngữ có câu: tri kỳ bất khả nhi vi chi, ý rằng “Khổng Tử biết rõ việc bất khả thi, nhưng vẫn muốn thực hiện.” Ban nãy tự dưng Vương Trăn lại sửa câu ấy, nói với cậu rằng “Nên biết điều gì có thể làm và điều gì là không thể.”
“Rốt cuộc anh ta muốn nói gì đây?” Đường Thận suy tư mãi, đột nhiên siết hai nắm tay: “Chẳng lẽ anh ta biết mình đến Thịnh Kinh với ý đồ gì?”
Song, Đường Thận gạt đi ngay: “Không thể có chuyện đó. Suốt năm vừa qua, từ khi trở thành môn sinh của Phó Vị, mình không hề có hành động nào khả nghi hết. Nếu Vương Tử Phong thần thông quảng đại hơn nữa, có khi còn biết mình đã thẳng thừng chỉ trích đảng Tùng Thanh trước mặt thánh thượng ở Quốc Tử Giám.”
Quả thật chuyện này Đường Thận đoán không sai. Vương Trăn với Đại thái giám Quý Phúc như sói săn theo bầy, hợp tác cực kì khăng khít với nhau, chàng đúng là đã nắm được tin ấy.
Đường Thận lại nghĩ: “Không có sơ suất nào ở đây cả. Ngay sau khi Lương tiên sinh mất, mình đã cắt đứt quan hệ với thầy, thậm chí rất ít khi nhắc đến thầy trước mặt Phó tiên sinh. Huống hồ, hiện giờ mình mới mười sáu tuổi, chỉ có thể coi là trẻ con. Hẳn là mình đã lo lắng thái quá rồi.”
“Nhưng ngộ nhỡ…mình không nghĩ quá lên thì sao nhỉ?”
“Lẽ nào Vương Tử Phong thực sự đang nhắc nhở mình rằng, nhiệm vụ mà mình tưởng là khả thi thực ra là bất khả thi, khuyên mình nên suy nghĩ cho thật chín rồi hẵng quyết định?”
Trong thư phòng, bấc nến nổ lách tách.
Trăn trở hồi lâu, Đường Thận vẫn hạ quyết tâm. Ánh mắt cậu kiên định rực lửa, không gì lay chuyển được: “Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!”
Đả thông tư tưởng xong, Đường Thận như trút được một gánh nặng. Cậu không để bụng những gì Vương Trăn nói nữa, tránh cho đầu óc mệt mỏi thêm. Bưng bát canh thịt nên định húp một miếng, Đường Thận chợt phát hiện canh đã nguội ngắt, thịt trắng nổi lềnh phềnh, trông đến là mất khẩu vị. Đường Thận cụt hứng, để bát canh dịch ra. Nghĩ ngợi giây lát, cậu trải giấy Tuyên, mài mực viết chữ, luyện một lượt bảng chữ mẫu Vương Trăn cho. Cậu lấy con dao tước1, đóng những tờ tập viết của mình thành một quyển.
Hôm sau, Đường Thận nhờ Diêu Tam làm hộ một ít thanh đoàn tử2.
[2] Bánh viên tròn làm từ gạo nếp và nước rau ngải cứu. Vỏ xanh, nhân ngọt hoặc mặn.Tên bánh là “bánh tròn màu xanh” nếu hiểu theo nghĩa đen
Tiết Thanh Minh rơi vào tháng Tư, song người dân Thịnh Kinh không có phong tục ăn bánh thanh đoàn tử như người Giang Nam. Chạng vạng, Đường Thận xách giỏ thanh đoàn tử nóng hổi, cầm theo cuốn tập viết chữ của mình, đi đến phủ Thượng thư.
Đợi ở phòng khách nửa canh giờ, cuối cùng Vương Trăn cũng trở về từ bộ Hộ.
Vương Trăn thấy cậu đến thì ngạc nhiên lắm.
Đường Thận nói: “Hôm trước sư huynh có nói rằng đã lâu đệ không đến phủ Thượng thư, nên hôm nay đệ lại ghé chơi. Tiện thể bữa nay nhà đệ làm bánh thanh đoàn tử, tuy hơi vụng, nhưng cũng xin mời sư huynh nếm thử. À, còn có chữ đệ luyện theo bảng mẫu tháng trước nữa. Chữ của sư huynh đẹp quá, đệ viết đi viết lại mà chỉ bắt chước được hình dạng chứ không tài nào học nổi ý. Mong sư huynh chỉ điểm thêm.”
Vương Trăn nhìn Đường Thận, nở nụ cười dịu dàng: “Chi bằng, tối nay đệ hãy ngủ lại phủ Thượng thư. Hai hôm nữa đệ sẽ nhậm chức ở viện Hàn Lâm, nơi ấy tuy nhàn hạ, nhưng cũng không thể rảnh rang được như bây giờ. Hôm nay sư huynh đệ chúng ta chong đèn đàm đạo, để ta xem đệ viết như thế nào, được không?”
Đường Thận không định ở lại phủ Thượng thư qua đêm, nhưng cậu vẫn để tâm đến những lời Vương Trăn nói giữa đêm khuya hôm nọ. Chí ít hiện giờ, nếu muốn trở thành quan to, có quyền thế trong tay, thì lợi dụng con đường tắt Vương Tử Phong vẫn là lựa chọn tốt nhất của cậu.
Đường Thận nói: “Tuyệt quá, đệ cũng có ý định đấy từ đầu, chỉ ngại quấy rầy sư huynh.”
Vương Trăn: “Thật thế ư?”
Đường Thận dằn lương tâm, thành thực đáp: “Thật ạ!”
Vương Trăn: “Thế từ giờ cứ chăm qua đây mà ngủ, phủ Thám Hoa cách có mấy bước chân thôi!”
Đường Thận: “…”
Nghe cứ là lạ thế nào ấy nhỉ?
Dùng bữa tối xong, Đường Thận lấy bài tập viết của mình ra, bốc phét trắng trợn là bài luyện từ tháng trước. Vương Trăn cầm quyển luyện chữ lên xem rất tỉ mỉ, rồi bảo Đường Thận viết thử cho mình quan sát lần nữa. Chàng chỉ điểm đôi ba chỗ, Đường Thận bèn viết lại hai chữ.
Thình lình, một bàn tay từ đằng sau phủ lên tay cậu. Vương Trăn nắm tay Đường Thận, hướng dẫn cậu đưa nét bút.
“Sắc sảo là tốt, nhưng nét móc này, nên mềm mại hơn.”
Trong ánh nến lung linh, Đường Thận chậm rãi ngước mắt nhìn người đang đứng sau lưng.
Vương Trăn buông tay, cười hỏi: “Tiểu sư đệ?”
Đường Thận quay đầu lại: “Nên viết thế này đúng không hả sư huynh?”
“Ừ, đúng rồi.”
Dưới ánh sáng vàng nhạt của ngọn nến, một bàn tay nắm lấy tay cậu, dạy cậu nắn nót từng nét bút. Một năm rưỡi về trước, đã từng có người làm như thế.
Đường Thận học viết nghiêm túc, Vương Trăn cũng kiên nhẫn chỉ bảo. Đến khi học xong, hai người tạm biệt nhau, Đường Thận ngủ lại ở phòng dành cho khách trong phủ Thượng thư. Nằm trên giường, cậu giơ tay, nương ánh trăng ngắm nghía bàn tay phải. Trên bàn tay ấy, hơi ấm da thịt khi Vương Trăn chạm vào hẵng còn chưa phai, nhưng cảm giác khi Lương Tụng dạy cậu tập viết đã không cách nào tái hiện nổi nữa.
Bàn tay Lương Tụng hình như lạnh hơn một chút, còn tay Vương Tử Phong thì ấm áp vô cùng.
Nhưng đối mặt với Vương Tử Phong cũng giống như bước đi trên mặt băng mỏng dính. Còn trước mặt Lương Tụng, điều gì Đường Thận cũng dám làm, cái gì Đường Thận cũng dám nói, cậu chính là cậu, là Đường Thận, không phải Đường Cảnh Tắc.
Với Vương Tử Phong, cậu vừa là Đường Thận, vừa là Đường Cảnh Tắc, nhưng phần nhiều thời gian, cậu là Đường Cảnh Tắc.
Chỉ có ở bên Lương tiên sinh, cậu mới chỉ là Đường Thận, luôn luôn chỉ là Đường Thận mà thôi!
“Thầy ơi…”
Con nhớ thầy xiết bao!
Đường Thận mất ngủ trắng đêm, thức tới tận khi bình minh ló rặng. Khi cậu xuống giường, Vương Trăn đã lên triều. Quản gia giữ Đường Thận ở lại phủ Thượng thư ăn sáng, Đường Thận không từ chối, dùng bữa sáng xong mới về nhà. Lúc cậu về chưa tới giờ Mão; trưa nay, ở lầu Thiên Lý, cậu có hẹn với Triệu Quỳnh.
Có việc thì chớ dềnh dàng. Đường Thận rửa mặt chải đầu, ăn vận tịnh tươm rồi đến lầu Thiên Lý.
Thoạt tiên, những gì Vương Trăn nói khiến Đường Thận hết sức ngỡ ngàng, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, cố ghìm cơn xúc động.
Cậu và Vương Trăn là trò cùng thầy, dù thế nào đi chăng nữa cũng đã là bằng. Nhưng Vương Trăn nói, phải cùng chí hướng mới thành hữu! Chí hướng của Vương Trăn ra sao, Đường Thận làm sao biết? Lẽ nào anh ta hỏi vậy là có ý ép mình theo phe cánh anh ta?
Giờ Đường Thận đã là Thám Hoa, đương nhiên sẽ được giao việc ở viện Hàn lâm. Nếu không có gì bất ngờ, ít nhất cậu sẽ làm việc ở viện Hàn Lâm nửa năm, không hề dính dáng đến Vương Trăn ở bộ Hộ. Tình huống trong triều cậu hết sức mù mờ, mãi đến bữa tiệc hôm nay mới hỏi được Phó Vị và Vương Trăn. Như vậy, cậu có ích lợi gì cho Vương Trăn đây? Chí hướng của Vương Trăn là gì, con người của anh ta trên triều đình ra sao, địa vị của anh ta cao đến mức nào, cậu hoàn toàn không biết dù chỉ một chút!
Sự bình tĩnh ngoài mặt của Đường Thận, chẳng qua là lớp ngụy trang cho mớ bòng bong rối rắm trong lòng.
Bỗng cậu như sực tỉnh: Có đúng là Vương Trăn đang lôi kéo mình về phe anh ta không?
Cậu mới mười sáu tuổi, xuất thân tầm thường, chẳng phải con dòng cháu giống. Nếu không nhờ sự nâng đỡ của Lương Tụng, Đường Thận không bao giờ có được cơ hội bái Phó Vị làm thầy. Suốt một năm qua, cậu được gần gũi, bầu bạn với Vương Trăn. Lúc này đây, Đường Thận bỗng nhớ lại từng chuyện lớn nhỏ đã trải qua, từ những lần Vương Trăn chỉ điểm cho cậu, đến sự giúp đỡ của chàng để cậu thi cử đầu xuôi đuôi lọt, đến cả cái lần Vương Trăn dẫn cậu phóng sinh trước kì thi Hội.
Hít một hơi thật sâu, Đường Thận kết luận: Vương Trăn quả thật chỉ đang hỏi chí hướng của mình thôi! Cũng có thể anh ta có ý khác, nhưng bây giờ mình giả bộ không nắm bắt được cũng không hại gì.
Khi thấy nụ cười của Vương Tử Phong, Đường Thận lại chần chừ trong giây lát rồi mới nói: “Tháng ba năm ngoái đệ đến Thịnh Kinh, được tiên sinh và sư huynh hết lòng chăm nom, coi như có chốn dừng chân ở nơi đất khách quê người xa lạ. Từ lúc rời Cô Tô, đệ chưa bao giờ nghĩ con đường khoa cử của mình lại trôi chảy được đến thế, tất cả là nhờ ơn Tử Phong sư huynh hết lòng dạy dỗ bảo ban. Ơn nghĩa ấy, Cảnh Tắc trọn đời không quên.” Ngưng một lát, cậu mới nói câu cuối cùng: “Trong lòng ta, sư huynh vừa là thầy, vừa là bạn hữu.”
Vương Trăn quan sát bộ dạng căng thẳng, thấp thỏm của Đường Thận hồi lâu, bỗng bật cười khẽ.
“Nhìn sư đệ hôm nay, ta chợt nhớ đến khoảng thời gian chín năm về trước.”
Đường Thận ngẩng lên nhìn chàng: “Chín năm trước?”
Vương Trăn như chìm vào kí ức: “Chín năm trước là thuở ta đỗ Trạng Nguyên, cũng trẻ như sư đệ bây giờ.”
Lần này Đường Thận mới thực là choáng váng.
Vương Trăn năm nay hai mươi sáu tuổi, lớn hơn Đường Thận tròn mười tuổi, song Đường Thận chưa bao giờ có suy nghĩ rằng Vương Trăn đã già. Bởi lẽ, nếu đặt vào bối cảnh hiện đại, Vương Trăn ở độ tuổi này hẵng còn là thanh niên, có khi vẫn đang cặm cụi trên giảng đường chứ chưa đi làm nữa. Ở thời hiện đại, chẳng ai bảo hai mươi sáu tuổi là già! Nhưng đây là thời cổ đại kia! Vương Trăn nói mình không còn trẻ, Đường Thận cũng không thể phủ nhận được.
Cậu ngắm khuôn mặt Vương Trăn, chợt nhớ tới Lưu Phóng mình quen ở Quốc Tử Giám hình như cũng hai mươi sáu tuổi, nhưng trông già gấp mấy lần Vương Trăn. Nhìn Vương Trăn cùng lắm chỉ như hai mươi tuổi. Chàng mang dáng vẻ của một thế gia công tử vừa cập quan, rạng ngời nét phong lưu như hòn ngọc quý.
Đường Thận nói: “Sư huynh hẵng còn trẻ lắm mà.” Hiếm hoi mới có một nhận xét thật lòng.
Vương Trăn ngoái nhìn Đường Thận, nói: “Về đêm gió lớn, xuống lầu thôi.”
Hai người cùng nhau xuống khỏi lầu Hư Cực.
Trước khi đi, Vương Trăn bỗng hỏi: “À, tiểu sư đệ đã biết phủ Thám Hoa của mình ở đâu chưa?”
Đường Thận: “Chưa ạ, đệ nghe nói tháng sau mới thông báo.”
Vương Trăn trỏ về một khu ở phía Đông, ngay sát hoàng thành, vừa hay cũng gần Phó phủ và phủ Thượng thư. Chàng nói: “Cứ mỗi dịp thi Đình, tam khôi luôn được Thánh thượng ban dinh thự, việc này thường do bộ Hộ phụ trách. Tiểu sư đệ thấy chỗ kia thế nào?”
Chỗ ấy đương nhiên là đất lành, phong thủy tốt, cả Phó Vị và Vương Trăn đều ở khu đấy, Đường Thận có gì để phàn nàn?
Oái oăm thay, viện Hàn Lâm nằm ở phía Tây kinh thành, hai nơi cách nhau cả nửa Thịnh Kinh.
Đường Thận thật thà đáp: “Chỗ đó tuyệt lắm ạ, mỗi tội hơi xa viện Hàn Lâm.”
Vương Trăn: “Ừ, báo cho đệ một tiếng ấy mà. Khu đất ấy được chọn từ cách đây ba hôm rồi.”
Ý rằng: Thông báo cho mà biết thôi nhé, không phải để hỏi ý kiến đâu.
Đường Thận: “…”
Đã vậy huynh còn hỏi làm chi!
Sau khi sư huynh đệ hai người cùng nhau xuống lầu, Vương Trăn chủ động đề nghị đưa Đường Thận về nhà, Đường Thận cũng không từ chối. Xe ngựa của Vương Trăn rộng ơi là rộng, ghế ngồi lót da hổ thượng hạng, nước lông bóng mượt, trong tủ trên xe chứa đầy các loại đồ ăn vặt và thư tịch. Vương Trăn đúng là người biết hưởng thụ, xe chạy trên đường phố Thịnh Kinh bằng phẳng, êm ru không xóc nảy tí nào.
Chiếc xe ngựa treo đèn Thượng thư thong thả dừng lại trước ngõ nhà Đường Thận. Đường Thận nhảy xuống xe, quay lại thưa: “Đa tạ Tử Phong sư huynh đã tiễn đệ.”
Vương Trăn vén rèm xe, nói với Đường Thận: “Đêm khuya rồi, tiểu sư đệ đi cẩn thận.”
Đường Thận: “Sư huynh cũng thế ạ.”
Hai người khách sáo xong, Đường Thận định về nhà, Vương Trăn bỗng nói thêm: “Mấy hôm trước đọc sách có câu này, hôm nay ngẫm lại thấy rất chí lí. Tiểu sư đệ, có đôi khi cần biết mình có thể làm gì, nhưng cũng nên biết việc gì không thể làm được.”
Đường Thận ngẩn ra, ngẩng lên nhìn Vương Trăn trong xe ngựa.
Một lúc sau, cậu phì cười: “Câu này chẳng phải là câu ‘tri kỳ bất khả nhi vi chi’ trong Luận Ngữ sao, huynh sửa lại khéo thật!”
Vương Trăn cũng cười theo, không nói nữa. Bánh xe ngựa lăn lộc cộc trên nền đường đá. Đường Thận đứng ở đầu hẻm, nhìn Vương Trăn đi xa dần, nụ cười trên môi cũng nhạt mất.
Về đến nhà, Đường Thận vào thư phòng ngồi, Phụng Bút dâng một chén canh nóng cho cậu, nhưng cậu không có tâm trạng nào để ăn.
Luận ngữ có câu: tri kỳ bất khả nhi vi chi, ý rằng “Khổng Tử biết rõ việc bất khả thi, nhưng vẫn muốn thực hiện.” Ban nãy tự dưng Vương Trăn lại sửa câu ấy, nói với cậu rằng “Nên biết điều gì có thể làm và điều gì là không thể.”
“Rốt cuộc anh ta muốn nói gì đây?” Đường Thận suy tư mãi, đột nhiên siết hai nắm tay: “Chẳng lẽ anh ta biết mình đến Thịnh Kinh với ý đồ gì?”
Song, Đường Thận gạt đi ngay: “Không thể có chuyện đó. Suốt năm vừa qua, từ khi trở thành môn sinh của Phó Vị, mình không hề có hành động nào khả nghi hết. Nếu Vương Tử Phong thần thông quảng đại hơn nữa, có khi còn biết mình đã thẳng thừng chỉ trích đảng Tùng Thanh trước mặt thánh thượng ở Quốc Tử Giám.”
Quả thật chuyện này Đường Thận đoán không sai. Vương Trăn với Đại thái giám Quý Phúc như sói săn theo bầy, hợp tác cực kì khăng khít với nhau, chàng đúng là đã nắm được tin ấy.
Đường Thận lại nghĩ: “Không có sơ suất nào ở đây cả. Ngay sau khi Lương tiên sinh mất, mình đã cắt đứt quan hệ với thầy, thậm chí rất ít khi nhắc đến thầy trước mặt Phó tiên sinh. Huống hồ, hiện giờ mình mới mười sáu tuổi, chỉ có thể coi là trẻ con. Hẳn là mình đã lo lắng thái quá rồi.”
“Nhưng ngộ nhỡ…mình không nghĩ quá lên thì sao nhỉ?”
“Lẽ nào Vương Tử Phong thực sự đang nhắc nhở mình rằng, nhiệm vụ mà mình tưởng là khả thi thực ra là bất khả thi, khuyên mình nên suy nghĩ cho thật chín rồi hẵng quyết định?”
Trong thư phòng, bấc nến nổ lách tách.
Trăn trở hồi lâu, Đường Thận vẫn hạ quyết tâm. Ánh mắt cậu kiên định rực lửa, không gì lay chuyển được: “Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!”
Đả thông tư tưởng xong, Đường Thận như trút được một gánh nặng. Cậu không để bụng những gì Vương Trăn nói nữa, tránh cho đầu óc mệt mỏi thêm. Bưng bát canh thịt nên định húp một miếng, Đường Thận chợt phát hiện canh đã nguội ngắt, thịt trắng nổi lềnh phềnh, trông đến là mất khẩu vị. Đường Thận cụt hứng, để bát canh dịch ra. Nghĩ ngợi giây lát, cậu trải giấy Tuyên, mài mực viết chữ, luyện một lượt bảng chữ mẫu Vương Trăn cho. Cậu lấy con dao tước1, đóng những tờ tập viết của mình thành một quyển.
Hôm sau, Đường Thận nhờ Diêu Tam làm hộ một ít thanh đoàn tử2.
[2] Bánh viên tròn làm từ gạo nếp và nước rau ngải cứu. Vỏ xanh, nhân ngọt hoặc mặn.Tên bánh là “bánh tròn màu xanh” nếu hiểu theo nghĩa đen
Tiết Thanh Minh rơi vào tháng Tư, song người dân Thịnh Kinh không có phong tục ăn bánh thanh đoàn tử như người Giang Nam. Chạng vạng, Đường Thận xách giỏ thanh đoàn tử nóng hổi, cầm theo cuốn tập viết chữ của mình, đi đến phủ Thượng thư.
Đợi ở phòng khách nửa canh giờ, cuối cùng Vương Trăn cũng trở về từ bộ Hộ.
Vương Trăn thấy cậu đến thì ngạc nhiên lắm.
Đường Thận nói: “Hôm trước sư huynh có nói rằng đã lâu đệ không đến phủ Thượng thư, nên hôm nay đệ lại ghé chơi. Tiện thể bữa nay nhà đệ làm bánh thanh đoàn tử, tuy hơi vụng, nhưng cũng xin mời sư huynh nếm thử. À, còn có chữ đệ luyện theo bảng mẫu tháng trước nữa. Chữ của sư huynh đẹp quá, đệ viết đi viết lại mà chỉ bắt chước được hình dạng chứ không tài nào học nổi ý. Mong sư huynh chỉ điểm thêm.”
Vương Trăn nhìn Đường Thận, nở nụ cười dịu dàng: “Chi bằng, tối nay đệ hãy ngủ lại phủ Thượng thư. Hai hôm nữa đệ sẽ nhậm chức ở viện Hàn Lâm, nơi ấy tuy nhàn hạ, nhưng cũng không thể rảnh rang được như bây giờ. Hôm nay sư huynh đệ chúng ta chong đèn đàm đạo, để ta xem đệ viết như thế nào, được không?”
Đường Thận không định ở lại phủ Thượng thư qua đêm, nhưng cậu vẫn để tâm đến những lời Vương Trăn nói giữa đêm khuya hôm nọ. Chí ít hiện giờ, nếu muốn trở thành quan to, có quyền thế trong tay, thì lợi dụng con đường tắt Vương Tử Phong vẫn là lựa chọn tốt nhất của cậu.
Đường Thận nói: “Tuyệt quá, đệ cũng có ý định đấy từ đầu, chỉ ngại quấy rầy sư huynh.”
Vương Trăn: “Thật thế ư?”
Đường Thận dằn lương tâm, thành thực đáp: “Thật ạ!”
Vương Trăn: “Thế từ giờ cứ chăm qua đây mà ngủ, phủ Thám Hoa cách có mấy bước chân thôi!”
Đường Thận: “…”
Nghe cứ là lạ thế nào ấy nhỉ?
Dùng bữa tối xong, Đường Thận lấy bài tập viết của mình ra, bốc phét trắng trợn là bài luyện từ tháng trước. Vương Trăn cầm quyển luyện chữ lên xem rất tỉ mỉ, rồi bảo Đường Thận viết thử cho mình quan sát lần nữa. Chàng chỉ điểm đôi ba chỗ, Đường Thận bèn viết lại hai chữ.
Thình lình, một bàn tay từ đằng sau phủ lên tay cậu. Vương Trăn nắm tay Đường Thận, hướng dẫn cậu đưa nét bút.
“Sắc sảo là tốt, nhưng nét móc này, nên mềm mại hơn.”
Trong ánh nến lung linh, Đường Thận chậm rãi ngước mắt nhìn người đang đứng sau lưng.
Vương Trăn buông tay, cười hỏi: “Tiểu sư đệ?”
Đường Thận quay đầu lại: “Nên viết thế này đúng không hả sư huynh?”
“Ừ, đúng rồi.”
Dưới ánh sáng vàng nhạt của ngọn nến, một bàn tay nắm lấy tay cậu, dạy cậu nắn nót từng nét bút. Một năm rưỡi về trước, đã từng có người làm như thế.
Đường Thận học viết nghiêm túc, Vương Trăn cũng kiên nhẫn chỉ bảo. Đến khi học xong, hai người tạm biệt nhau, Đường Thận ngủ lại ở phòng dành cho khách trong phủ Thượng thư. Nằm trên giường, cậu giơ tay, nương ánh trăng ngắm nghía bàn tay phải. Trên bàn tay ấy, hơi ấm da thịt khi Vương Trăn chạm vào hẵng còn chưa phai, nhưng cảm giác khi Lương Tụng dạy cậu tập viết đã không cách nào tái hiện nổi nữa.
Bàn tay Lương Tụng hình như lạnh hơn một chút, còn tay Vương Tử Phong thì ấm áp vô cùng.
Nhưng đối mặt với Vương Tử Phong cũng giống như bước đi trên mặt băng mỏng dính. Còn trước mặt Lương Tụng, điều gì Đường Thận cũng dám làm, cái gì Đường Thận cũng dám nói, cậu chính là cậu, là Đường Thận, không phải Đường Cảnh Tắc.
Với Vương Tử Phong, cậu vừa là Đường Thận, vừa là Đường Cảnh Tắc, nhưng phần nhiều thời gian, cậu là Đường Cảnh Tắc.
Chỉ có ở bên Lương tiên sinh, cậu mới chỉ là Đường Thận, luôn luôn chỉ là Đường Thận mà thôi!
“Thầy ơi…”
Con nhớ thầy xiết bao!
Đường Thận mất ngủ trắng đêm, thức tới tận khi bình minh ló rặng. Khi cậu xuống giường, Vương Trăn đã lên triều. Quản gia giữ Đường Thận ở lại phủ Thượng thư ăn sáng, Đường Thận không từ chối, dùng bữa sáng xong mới về nhà. Lúc cậu về chưa tới giờ Mão; trưa nay, ở lầu Thiên Lý, cậu có hẹn với Triệu Quỳnh.
Có việc thì chớ dềnh dàng. Đường Thận rửa mặt chải đầu, ăn vận tịnh tươm rồi đến lầu Thiên Lý.
Bình luận truyện