Thắt Lưng Hoa
Chương 57: Đừng sợ, anh đây
Lí Mộ vốn định về Tùng An, nhưng vì ngồi quá trạm nên đột nhiên không muốn trở lại đó nữa. Cô mua vé bổ sung, rồi xuống xe ở một thành phố hoàn toàn xa lạ.
Cô đẩy vali hành lí, theo dòng người chen chúc đi ra khỏi nhà ga, sau đó đi lang thang trên đường với tâm trí trống rỗng. Cho đến khi đói bụng, cô mới dừng lại ăn cơm, lấy điện thoại ra đặt phòng khách sạn. Khách sạn cách đó không xa, nhưng vali hành lí lại rất nặng, trong lúc thẫn thờ, cô trượt chân vấp phải một cái hố thế là ngã nhào, chiếc vali liền đổ ập xuống, đè lên người cô, khiến cô không đứng dậy nổi. Lòng bàn tay cọ xuống đất đau rát, cô tức tối đẩy mạnh vali ra.
Lí Mộ vừa cáu vừa khó chịu. Tất cả đều tại Ngụy Tuần, tại sao anh cứ đổi cho cô chiếc vali to đùng này chứ.
Chiếc vali màu đen nằm chỏng chơ ở một bên. Cô nhếch nhác ngồi bệt trên mặt đất giống như bị ai đó bắt nạt. Có người qua đường nhìn cô vài lần, rồi sốt sắng đi tới hỏi: “Cô gái ơi, cô không sao chứ?”
Cô chợt bừng tỉnh, vội đứng dậy, phủi bụi trên người và lắc đầu nói: “Cảm ơn, tôi không sao.”
Cô đang chờ đợi điều gì chứ? Chờ đợi có người bế cô lên, quan tâm hỏi “Em bị ngã ở đâu, có đau không” sao?
Người qua đường tốt bụng rời đi. Lí Mộ nhấc vali lên, lại tiếp tục kéo vali đi. Khi đến khách sạn, cô quẳng nó vào phòng, lê bước chân nặng nhọc ngã xuống giường, vừa nằm xuống thì điện thoại đổ chuông. Là Borge gọi tới.
“Khi nào cô về hả Tiểu Mộ? Tôi và thầy ngày nào cũng phải ăn đồ ăn bên ngoài, sắp ngán lên tận cổ rồi đây nào.”
Lí Mộ đã mệt phờ cả người, giọng nói cũng rất nhỏ. Borge không nghe thấy, bèn hỏi lại: “Cái gì cơ? Tôi không nghe rõ.”
Cô nói to hơn: “Một thời gian nữa tôi sẽ về.”
“À, được rồi. Vậy cô chú ý an toàn nhé.”
Sau khi cúp máy, tay cô yếu ớt buông thõng xuống, điện thoại rơi trên giường. Chỉ nói chuyện điện thoại mà mệt như thể chạy ma-ra-tông. Cô nhắm mặt lại, mơ màng thiếp đi, mơ một giấc mơ lộn xộn và khủng khiếp, chợt bừng tỉnh giấc.
Thức dậy trong một căn phòng trống vắng, với một chiếc vali nằm chỏng chơ trong góc.
Lí Mộ kéo vali hành lí đến bên giường rồi mở ra, một túi tài liệu nằm lặng lẽ bên trong, không biết đã được Ngụy Tuần bỏ vào từ lúc nào. Hai mắt cô đau nhói.
Cô cầm lấy định vứt đi, bàn tay nắm chặt lấy túi văn kiện đến độ nhăn nhúm. Một giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống. Cuối cùng, cô lật đống quần áo lên, nhét túi tài liệu xuống dưới đống quần áo.
Cô ở trong khách sạn ngủ gần một ngày. Điện thoại đổ chuông vài lần, cô cũng không cầm lên xem ngay. Đến khi tỉnh dậy, cô mới trả lời từng người một. Có tin nhắn của Borge, của Tiết Bán Mộng, của A Tranh, nhưng không có tin nhắn của người đáng ghét nhất kia.
Borge hỏi cô gạo để ở đâu, anh ta thực sự không nuốt nổi đồ ăn bên ngoài nữa mà muốn tự tay nấu nướng.
Cô nhắn lại: Gạo ở trong thùng ấy.
Borge: …
Nếu anh ta biết thùng gạo ở đâu thì còn hỏi cô làm gì.
Tiết Bán Mộng hỏi cô đã về Tùng An rồi à.
Cô nhắn lại: Chưa ạ, em đang đi ra ngoài giải khuây.
Khung trò chuyện trên Wechat hiển thị rằng cô ấy đang gõ chữ. Hồi lâu sau, cô ấy mới gửi đến một câu: Đừng làm khó bản thân, hãy nhìn về phía trước.
A Tranh gửi một tin nhắn thoại, giọng nói hờn dỗi: “Tiểu Mộ à, mình buồn chết đi được, mình nhớ các cậu lắm.”
Lí Mộ gọi lại cho cô ấy, nói: “Cậu ngoan nhé, mấy ngày nữa mình sẽ đến thăm cậu.”
A Tranh liền ỉu xìu, cô ấy đã nghe quá nhiều những lời như vậy: “Mấy ngày nữa là mấy ngày?”
“Bốn, năm ngày nữa nhé!”
Lí Mộ nhẩm tính, nếu đi chậm thì khoảng bốn, năm ngày nữa là có thể đến Myanmar. A Tranh ở đầu dây bên kia hớn hở reo lên. Lí Mộ khẽ nở nụ cười.
Cô phải hướng về phía trước, không thể để mình quay đầu lại được.
Lí Mộ không đi máy bay, thứ nhất là vì cô hơi say máy bay, thứ hai là muốn đi chậm để giải tỏa cảm giác bức bối trong lòng.
Cô ngồi tàu cao tốc, rồi chuyển sang xe khách, đi qua hết thành phố xa lạ này đến thành phố xa lạ khác. Năm đó rời khỏi bản Lão An, cô cũng một mình đeo túi hành lí đi rất nhiều nơi như thế này. Cô thích ngồi ở góc sau cùng của xe khách, nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ lùi lại phía sau, cảm giác giống như đang ngồi trên chuyến xe thời gian, có thể vứt bỏ chuyện quá khứ trên đường.
Khi đó, hễ nghĩ đến Ngụy Tuần là lại cảm thấy đau đớn và căm hận. Cô hận anh, nỗi hận đó đã chiếm gần hết hai năm qua. Trong sự hối hận và tự hành hạ bản thân, cô cứ mải miết đi rồi lại nghỉ, nghỉ rồi lại đi, không hề có mục đích, không có cảm xúc, dường như có thể dừng lại ở bất cứ đâu, nhưng có vẻ như lại chẳng thể dừng lại ở nơi nào hết.
Mãi đến khi cô gặp được Nghiêm Hòa Sơn.
Họ gặp nhau ở một thị trấn nhỏ vùng sông nước phương Nam, âu cũng là cái duyên. Hai người cất lời chào hỏi. Lúc đó, Nghiêm Hòa Sơn đang ôm một hũ tro cốt và mỉm cười xởi lởi. Ông chính là ông già thường chơi cờ thắng trong tiệm sách Sơn Hổ năm đó.
Còn hũ tro cốt là của ông già thường xuyên chơi cờ thua. Ông ấy không có gia đình hay người thân. Trước khi ông ấy mất, Nghiêm Hòa Sơn đã hứa với ông ấy rằng sẽ đưa tro cốt của ông ấy về quê và rắc trong cánh rừng mà họ hay chơi đùa hồi nhỏ. Kể ra cũng là người quen cũ, Lí Mộ là người duy nhất chứng kiến nghi thức rắc tro này.
Một người đang sống sờ sờ, cuối cùng lại biến thành từng nắm tro tàn được rải trong rừng sâu yên tĩnh, từ nay không còn ai hay biết.
Lí Mộ đã xúc động rơi nước mắt.
Nghiêm Hòa Sơn rưới một chén rượu trên mặt đất, cười nói: “Lão Trương à, bộ xương già này của tôi về sau sẽ không đến thăm ông nữa đâu.”
Đối với ông, biệt li giống như là một điều hết sức bình thường. Ông biết rằng Lí Mộ không chỉ khóc vì cái chết của ông Trương, mà còn khóc cho người trong lòng đã rời xa. Ông không an ủi cô, cũng chẳng khuyên bảo gì. Sau khi trở lại khách sạn, ông vẽ một bức tranh. Trong bức tranh là hai ông già đang ngồi đánh cờ dưới một gốc cây cổ thụ. Người cau mày là ông già hay chơi cờ thua, qua nét vẽ sống động như thật, ông ấy như thể đang sống trong tranh vậy.
Nhưng thật ra, ông ấy không sống trong tranh, mà là sống trong lòng Nghiêm Hòa Sơn.
“Sinh mệnh một người không kết thúc vào thời khắc họ trút hơi thở cuối cùng, mà là vào khoảnh khắc người luôn nghĩ đến anh ta đã chết đi.”
Sau đó, Lí Mộ dừng chân và đến Tùng An.
Cô không còn hận anh, anh cũng không quấy rầy cô nữa. Đây chẳng phải là kết quả tốt nhất sao? Tại sao cô lại không cảm thấy vui chút nào?
Ba ngày sau, cô đặt chân đến một thành phố nhỏ ở biên giới. Nơi này giáp với Myanmar, với nắng trời chói chang và mang đậm nét văn hóa vùng biên. Trên đường có rất nhiều người Myanmar qua lại, với nước da ngăm đen, mặt bôi một lớp bột màu vàng trắng, nụ cười tươi tắn khoe hàm răng trắng tinh.
Cô trút bỏ quần áo mùa đông nặng nề, khoác lên mình chiếc váy dài. Nơi đây dường như là một thế giới khác hẳn với phương Bắc.
Khi cô đến chân thành phố này thì đã là buổi tối, cô tìm một khách sạn bình dân để nghỉ lại. Bà chủ khách sạn rất nhiệt tình, lại là một nửa đồng hương với Lí Mộ, bèn dặn dò cô: “Buổi tối ở đây loạn lắm, em là con gái một thân một mình, đừng ra ngoài vào buổi tối nhé.”
Cô ghi nhớ trong lòng, tắm rửa xong liền lên giường đi ngủ, nhưng cứ trằn trọc mãi, khuôn mặt trắng bệch vì ánh sáng trên màn hình điện thoại hắt lên. Cô đã xóa hết tất cả thông tin liên lạc của anh, xóa cả tin nhắn, cuộc gọi và Wechat của anh, như thể người này chưa từng xuất hiện trong cuộc đời của cô vậy. Cô lên mạng tra thời tiết của Myanmar, nhưng lại nhận ra trang hiển thị trên điện thoại di động lại là những dòng chữ tiếng Đức. Ở đó có vẻ như đang rất lạnh.
Cô vứt điện thoại về bên kia giường, rồi xoay người, đắp kín chăn, chỉ là không hiểu sao lại cảm thấy ớn lạnh.
Nửa đêm, cô lên cơn sốt.
Có lẽ do chênh lệch nhiệt độ giữa hai miền Nam Bắc quá lớn, cho nên thân thể cô chưa thích ích được. Lí Mộ mơ màng tỉnh lại, trong người cứ hết nóng lại lạnh, liếc nhìn đồng hồ thì thấy mới một giờ sáng. Nhớ ra trong vali có thuốc của Ngụy Tuần bỏ vào, cô gắng gượng đứng dậy, đi xuống giường.
“Cái miệng quạ đen này, chỉ biết nguyền rủa mình.” Cô lẩm bẩm, hai mắt nóng lên.
Lí Mộ rất ít khi bị ốm, vì thế đi ra ngoài cũng không bao giờ mang theo thuốc men. Tất cả là tại anh bỏ thuốc trong hành lí của cô, quả nhiên cô liền bị ốm.
Suy nghĩ này thực sự rất ngang ngược vô lí, nhưng hình như chỉ có nghĩ như vậy mới khiến thân thể và trái tim cô dễ chịu hơn đôi chút. Đầu cô choáng váng, thái dương đau buốt, cô cầm thuốc, gắng đứng lên ngó nghiêng nhìn khắp cả phòng mà không tìm thấy nước. Khách sạn bình dân quá đơn sơ, trong phòng thậm chí không có ấm đun nước. Nghĩ đến việc uống thuốc không có nước sẽ rất đắng, cô bèn khoác thêm áo, đi xuống quầy lễ tân hỏi xin chút nước ấm.
Lí Mộ ở trên tầng hai, đèn hành lang rất tối. Vừa đi ra khỏi cửa phòng liền bắt gặp hai người đàn ông ở phía đối diện. Nghe thấy tiếng mở cửa phòng, họ liếc nhìn cô bằng ánh mắt sáng quắc. Hai người họ có vẻ như là dân địa phương, mặt mày dữ tợn, nom không mấy thân thiện. Họ nhìn cô chòng chọc khiến cô thấy hoảng hốt, vội vàng cúi đầu xuống.
Cô nghĩ bụng đây là khách sạn, xung quanh còn có người ở, trông hai người này chỉ hơi bặm trợn thôi, chắc hẳn sẽ không làm gì cô đâu. Dù sao, chỉ cần cô hô hoán một tiếng là sẽ có người nghe thấy.
Lí Mộ cúi mặt, đánh bạo tiến lên phía trước, đằng sau lập tức có tiếng bước chân. Hai người đàn ông kia đang đuổi theo cô.
Sau đó, cô bị chặn đường. Một gã đàn ông râu ria xồm xoàm nói bằng tiếng phổ thông lơ lớ: “Cô em định đi đâu? Muộn thế này rồi, đi ra ngoài không an toàn đâu. Anh đi cùng em nhé.”
“Không, không cần, chồng tôi đang chờ tôi ở dưới lầu.”
Bàn tay cầm thuốc run lên, Lí Mộ cảm thấy vô cùng sợ hãi.
Gã đàn ông còn lại cười nhe hàm răng ố vàng, nhìn cô từ trên xuống dưới một lượt với ánh mắt thô bỉ: “Bọn anh mới từ dưới lầu đi lên, có thấy ai dưới đó đâu. Ông chồng mà em nói không phải là bọn anh đấy chứ?”
Nói đoạn, gã đưa mắt ra hiệu với đồng bọn. Tên mặt râu cười hiểu ý, vươn tay ra: “Cô em, bọn anh chính là chồng em đây mà.”
Ngay khi tay hắn sắp sửa chạm vào cánh tay cô, một giọng nói lạnh lùng vang lên.
“Tiểu Mộ, anh ở đây.”
Vào giây phút đó, cô chẳng quan tâm gì hết mà đẩy mạnh gã đàn ông mặt râu đáng sững người ra, rồi chạy về phía anh. Một đôi cánh tay rộng lớn đón lấy cô. Cô ôm chặt eo anh, cả người run lẩy bẩy.
Ngụy Tuần nhẹ nhàng vuốt tóc cô, dịu dàng nói: “Đừng sợ, anh đây.”
Dứt lời, anh liếc nhìn hai gã đàn ông kia, trong mắt toát ra vẻ nguy hiểm đáng sợ. Gã mặt râu và gã răng vàng chợt cảm thấy sống lưng ớn lạnh một cách khó hiểu. Rõ ràng là anh chỉ có một mình, nhưng họ lại không dám xông lên. Gã răng vàng nhổ một bãi nước bọt xuống đất để che giấu nỗi sợ hãi, sau đó bỏ đi với vẻ giả vờ như không có chuyện gì.
Tất cả quá trình đó, Lí Mộ đều không mảy may hay biết. Cô chỉ biết ôm chặt lấy anh sẽ an toàn, ác ma khủng khiếp bên ngoài mới không vươn móng vuốt về phía cô, lồ ng ngực anh chính là nơi an toàn nhất trên đời.
Có lẽ cô đang rất sợ hãi, bàn tay cứ ôm rịt lấy thắt lưng Ngụy Tuần, nép vào trước ngực anh. Anh nói với giọng bất đắc dĩ và có phần trách cứ: “Em có biết chạy ra ngoài một mình vào lúc đêm khuya như này là nguy hiểm lắm không?”
Nếu anh không đi theo cô thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi.
Lời trách cứ của anh khiến nỗi tủi thân của cô lập tức sụp đổ. Cô biết như vậy rất nguy hiểm, nhưng cô phải uống thuốc, mà cô lại chỉ có một thân một mình, thậm chí còn không được uống lấy một cốc nước ấm.
Và rồi, cô bất ngờ bất ngờ bật khóc.
Sao cô lại vô dụng thế chứ.
Cô đẩy vali hành lí, theo dòng người chen chúc đi ra khỏi nhà ga, sau đó đi lang thang trên đường với tâm trí trống rỗng. Cho đến khi đói bụng, cô mới dừng lại ăn cơm, lấy điện thoại ra đặt phòng khách sạn. Khách sạn cách đó không xa, nhưng vali hành lí lại rất nặng, trong lúc thẫn thờ, cô trượt chân vấp phải một cái hố thế là ngã nhào, chiếc vali liền đổ ập xuống, đè lên người cô, khiến cô không đứng dậy nổi. Lòng bàn tay cọ xuống đất đau rát, cô tức tối đẩy mạnh vali ra.
Lí Mộ vừa cáu vừa khó chịu. Tất cả đều tại Ngụy Tuần, tại sao anh cứ đổi cho cô chiếc vali to đùng này chứ.
Chiếc vali màu đen nằm chỏng chơ ở một bên. Cô nhếch nhác ngồi bệt trên mặt đất giống như bị ai đó bắt nạt. Có người qua đường nhìn cô vài lần, rồi sốt sắng đi tới hỏi: “Cô gái ơi, cô không sao chứ?”
Cô chợt bừng tỉnh, vội đứng dậy, phủi bụi trên người và lắc đầu nói: “Cảm ơn, tôi không sao.”
Cô đang chờ đợi điều gì chứ? Chờ đợi có người bế cô lên, quan tâm hỏi “Em bị ngã ở đâu, có đau không” sao?
Người qua đường tốt bụng rời đi. Lí Mộ nhấc vali lên, lại tiếp tục kéo vali đi. Khi đến khách sạn, cô quẳng nó vào phòng, lê bước chân nặng nhọc ngã xuống giường, vừa nằm xuống thì điện thoại đổ chuông. Là Borge gọi tới.
“Khi nào cô về hả Tiểu Mộ? Tôi và thầy ngày nào cũng phải ăn đồ ăn bên ngoài, sắp ngán lên tận cổ rồi đây nào.”
Lí Mộ đã mệt phờ cả người, giọng nói cũng rất nhỏ. Borge không nghe thấy, bèn hỏi lại: “Cái gì cơ? Tôi không nghe rõ.”
Cô nói to hơn: “Một thời gian nữa tôi sẽ về.”
“À, được rồi. Vậy cô chú ý an toàn nhé.”
Sau khi cúp máy, tay cô yếu ớt buông thõng xuống, điện thoại rơi trên giường. Chỉ nói chuyện điện thoại mà mệt như thể chạy ma-ra-tông. Cô nhắm mặt lại, mơ màng thiếp đi, mơ một giấc mơ lộn xộn và khủng khiếp, chợt bừng tỉnh giấc.
Thức dậy trong một căn phòng trống vắng, với một chiếc vali nằm chỏng chơ trong góc.
Lí Mộ kéo vali hành lí đến bên giường rồi mở ra, một túi tài liệu nằm lặng lẽ bên trong, không biết đã được Ngụy Tuần bỏ vào từ lúc nào. Hai mắt cô đau nhói.
Cô cầm lấy định vứt đi, bàn tay nắm chặt lấy túi văn kiện đến độ nhăn nhúm. Một giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống. Cuối cùng, cô lật đống quần áo lên, nhét túi tài liệu xuống dưới đống quần áo.
Cô ở trong khách sạn ngủ gần một ngày. Điện thoại đổ chuông vài lần, cô cũng không cầm lên xem ngay. Đến khi tỉnh dậy, cô mới trả lời từng người một. Có tin nhắn của Borge, của Tiết Bán Mộng, của A Tranh, nhưng không có tin nhắn của người đáng ghét nhất kia.
Borge hỏi cô gạo để ở đâu, anh ta thực sự không nuốt nổi đồ ăn bên ngoài nữa mà muốn tự tay nấu nướng.
Cô nhắn lại: Gạo ở trong thùng ấy.
Borge: …
Nếu anh ta biết thùng gạo ở đâu thì còn hỏi cô làm gì.
Tiết Bán Mộng hỏi cô đã về Tùng An rồi à.
Cô nhắn lại: Chưa ạ, em đang đi ra ngoài giải khuây.
Khung trò chuyện trên Wechat hiển thị rằng cô ấy đang gõ chữ. Hồi lâu sau, cô ấy mới gửi đến một câu: Đừng làm khó bản thân, hãy nhìn về phía trước.
A Tranh gửi một tin nhắn thoại, giọng nói hờn dỗi: “Tiểu Mộ à, mình buồn chết đi được, mình nhớ các cậu lắm.”
Lí Mộ gọi lại cho cô ấy, nói: “Cậu ngoan nhé, mấy ngày nữa mình sẽ đến thăm cậu.”
A Tranh liền ỉu xìu, cô ấy đã nghe quá nhiều những lời như vậy: “Mấy ngày nữa là mấy ngày?”
“Bốn, năm ngày nữa nhé!”
Lí Mộ nhẩm tính, nếu đi chậm thì khoảng bốn, năm ngày nữa là có thể đến Myanmar. A Tranh ở đầu dây bên kia hớn hở reo lên. Lí Mộ khẽ nở nụ cười.
Cô phải hướng về phía trước, không thể để mình quay đầu lại được.
Lí Mộ không đi máy bay, thứ nhất là vì cô hơi say máy bay, thứ hai là muốn đi chậm để giải tỏa cảm giác bức bối trong lòng.
Cô ngồi tàu cao tốc, rồi chuyển sang xe khách, đi qua hết thành phố xa lạ này đến thành phố xa lạ khác. Năm đó rời khỏi bản Lão An, cô cũng một mình đeo túi hành lí đi rất nhiều nơi như thế này. Cô thích ngồi ở góc sau cùng của xe khách, nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ lùi lại phía sau, cảm giác giống như đang ngồi trên chuyến xe thời gian, có thể vứt bỏ chuyện quá khứ trên đường.
Khi đó, hễ nghĩ đến Ngụy Tuần là lại cảm thấy đau đớn và căm hận. Cô hận anh, nỗi hận đó đã chiếm gần hết hai năm qua. Trong sự hối hận và tự hành hạ bản thân, cô cứ mải miết đi rồi lại nghỉ, nghỉ rồi lại đi, không hề có mục đích, không có cảm xúc, dường như có thể dừng lại ở bất cứ đâu, nhưng có vẻ như lại chẳng thể dừng lại ở nơi nào hết.
Mãi đến khi cô gặp được Nghiêm Hòa Sơn.
Họ gặp nhau ở một thị trấn nhỏ vùng sông nước phương Nam, âu cũng là cái duyên. Hai người cất lời chào hỏi. Lúc đó, Nghiêm Hòa Sơn đang ôm một hũ tro cốt và mỉm cười xởi lởi. Ông chính là ông già thường chơi cờ thắng trong tiệm sách Sơn Hổ năm đó.
Còn hũ tro cốt là của ông già thường xuyên chơi cờ thua. Ông ấy không có gia đình hay người thân. Trước khi ông ấy mất, Nghiêm Hòa Sơn đã hứa với ông ấy rằng sẽ đưa tro cốt của ông ấy về quê và rắc trong cánh rừng mà họ hay chơi đùa hồi nhỏ. Kể ra cũng là người quen cũ, Lí Mộ là người duy nhất chứng kiến nghi thức rắc tro này.
Một người đang sống sờ sờ, cuối cùng lại biến thành từng nắm tro tàn được rải trong rừng sâu yên tĩnh, từ nay không còn ai hay biết.
Lí Mộ đã xúc động rơi nước mắt.
Nghiêm Hòa Sơn rưới một chén rượu trên mặt đất, cười nói: “Lão Trương à, bộ xương già này của tôi về sau sẽ không đến thăm ông nữa đâu.”
Đối với ông, biệt li giống như là một điều hết sức bình thường. Ông biết rằng Lí Mộ không chỉ khóc vì cái chết của ông Trương, mà còn khóc cho người trong lòng đã rời xa. Ông không an ủi cô, cũng chẳng khuyên bảo gì. Sau khi trở lại khách sạn, ông vẽ một bức tranh. Trong bức tranh là hai ông già đang ngồi đánh cờ dưới một gốc cây cổ thụ. Người cau mày là ông già hay chơi cờ thua, qua nét vẽ sống động như thật, ông ấy như thể đang sống trong tranh vậy.
Nhưng thật ra, ông ấy không sống trong tranh, mà là sống trong lòng Nghiêm Hòa Sơn.
“Sinh mệnh một người không kết thúc vào thời khắc họ trút hơi thở cuối cùng, mà là vào khoảnh khắc người luôn nghĩ đến anh ta đã chết đi.”
Sau đó, Lí Mộ dừng chân và đến Tùng An.
Cô không còn hận anh, anh cũng không quấy rầy cô nữa. Đây chẳng phải là kết quả tốt nhất sao? Tại sao cô lại không cảm thấy vui chút nào?
Ba ngày sau, cô đặt chân đến một thành phố nhỏ ở biên giới. Nơi này giáp với Myanmar, với nắng trời chói chang và mang đậm nét văn hóa vùng biên. Trên đường có rất nhiều người Myanmar qua lại, với nước da ngăm đen, mặt bôi một lớp bột màu vàng trắng, nụ cười tươi tắn khoe hàm răng trắng tinh.
Cô trút bỏ quần áo mùa đông nặng nề, khoác lên mình chiếc váy dài. Nơi đây dường như là một thế giới khác hẳn với phương Bắc.
Khi cô đến chân thành phố này thì đã là buổi tối, cô tìm một khách sạn bình dân để nghỉ lại. Bà chủ khách sạn rất nhiệt tình, lại là một nửa đồng hương với Lí Mộ, bèn dặn dò cô: “Buổi tối ở đây loạn lắm, em là con gái một thân một mình, đừng ra ngoài vào buổi tối nhé.”
Cô ghi nhớ trong lòng, tắm rửa xong liền lên giường đi ngủ, nhưng cứ trằn trọc mãi, khuôn mặt trắng bệch vì ánh sáng trên màn hình điện thoại hắt lên. Cô đã xóa hết tất cả thông tin liên lạc của anh, xóa cả tin nhắn, cuộc gọi và Wechat của anh, như thể người này chưa từng xuất hiện trong cuộc đời của cô vậy. Cô lên mạng tra thời tiết của Myanmar, nhưng lại nhận ra trang hiển thị trên điện thoại di động lại là những dòng chữ tiếng Đức. Ở đó có vẻ như đang rất lạnh.
Cô vứt điện thoại về bên kia giường, rồi xoay người, đắp kín chăn, chỉ là không hiểu sao lại cảm thấy ớn lạnh.
Nửa đêm, cô lên cơn sốt.
Có lẽ do chênh lệch nhiệt độ giữa hai miền Nam Bắc quá lớn, cho nên thân thể cô chưa thích ích được. Lí Mộ mơ màng tỉnh lại, trong người cứ hết nóng lại lạnh, liếc nhìn đồng hồ thì thấy mới một giờ sáng. Nhớ ra trong vali có thuốc của Ngụy Tuần bỏ vào, cô gắng gượng đứng dậy, đi xuống giường.
“Cái miệng quạ đen này, chỉ biết nguyền rủa mình.” Cô lẩm bẩm, hai mắt nóng lên.
Lí Mộ rất ít khi bị ốm, vì thế đi ra ngoài cũng không bao giờ mang theo thuốc men. Tất cả là tại anh bỏ thuốc trong hành lí của cô, quả nhiên cô liền bị ốm.
Suy nghĩ này thực sự rất ngang ngược vô lí, nhưng hình như chỉ có nghĩ như vậy mới khiến thân thể và trái tim cô dễ chịu hơn đôi chút. Đầu cô choáng váng, thái dương đau buốt, cô cầm thuốc, gắng đứng lên ngó nghiêng nhìn khắp cả phòng mà không tìm thấy nước. Khách sạn bình dân quá đơn sơ, trong phòng thậm chí không có ấm đun nước. Nghĩ đến việc uống thuốc không có nước sẽ rất đắng, cô bèn khoác thêm áo, đi xuống quầy lễ tân hỏi xin chút nước ấm.
Lí Mộ ở trên tầng hai, đèn hành lang rất tối. Vừa đi ra khỏi cửa phòng liền bắt gặp hai người đàn ông ở phía đối diện. Nghe thấy tiếng mở cửa phòng, họ liếc nhìn cô bằng ánh mắt sáng quắc. Hai người họ có vẻ như là dân địa phương, mặt mày dữ tợn, nom không mấy thân thiện. Họ nhìn cô chòng chọc khiến cô thấy hoảng hốt, vội vàng cúi đầu xuống.
Cô nghĩ bụng đây là khách sạn, xung quanh còn có người ở, trông hai người này chỉ hơi bặm trợn thôi, chắc hẳn sẽ không làm gì cô đâu. Dù sao, chỉ cần cô hô hoán một tiếng là sẽ có người nghe thấy.
Lí Mộ cúi mặt, đánh bạo tiến lên phía trước, đằng sau lập tức có tiếng bước chân. Hai người đàn ông kia đang đuổi theo cô.
Sau đó, cô bị chặn đường. Một gã đàn ông râu ria xồm xoàm nói bằng tiếng phổ thông lơ lớ: “Cô em định đi đâu? Muộn thế này rồi, đi ra ngoài không an toàn đâu. Anh đi cùng em nhé.”
“Không, không cần, chồng tôi đang chờ tôi ở dưới lầu.”
Bàn tay cầm thuốc run lên, Lí Mộ cảm thấy vô cùng sợ hãi.
Gã đàn ông còn lại cười nhe hàm răng ố vàng, nhìn cô từ trên xuống dưới một lượt với ánh mắt thô bỉ: “Bọn anh mới từ dưới lầu đi lên, có thấy ai dưới đó đâu. Ông chồng mà em nói không phải là bọn anh đấy chứ?”
Nói đoạn, gã đưa mắt ra hiệu với đồng bọn. Tên mặt râu cười hiểu ý, vươn tay ra: “Cô em, bọn anh chính là chồng em đây mà.”
Ngay khi tay hắn sắp sửa chạm vào cánh tay cô, một giọng nói lạnh lùng vang lên.
“Tiểu Mộ, anh ở đây.”
Vào giây phút đó, cô chẳng quan tâm gì hết mà đẩy mạnh gã đàn ông mặt râu đáng sững người ra, rồi chạy về phía anh. Một đôi cánh tay rộng lớn đón lấy cô. Cô ôm chặt eo anh, cả người run lẩy bẩy.
Ngụy Tuần nhẹ nhàng vuốt tóc cô, dịu dàng nói: “Đừng sợ, anh đây.”
Dứt lời, anh liếc nhìn hai gã đàn ông kia, trong mắt toát ra vẻ nguy hiểm đáng sợ. Gã mặt râu và gã răng vàng chợt cảm thấy sống lưng ớn lạnh một cách khó hiểu. Rõ ràng là anh chỉ có một mình, nhưng họ lại không dám xông lên. Gã răng vàng nhổ một bãi nước bọt xuống đất để che giấu nỗi sợ hãi, sau đó bỏ đi với vẻ giả vờ như không có chuyện gì.
Tất cả quá trình đó, Lí Mộ đều không mảy may hay biết. Cô chỉ biết ôm chặt lấy anh sẽ an toàn, ác ma khủng khiếp bên ngoài mới không vươn móng vuốt về phía cô, lồ ng ngực anh chính là nơi an toàn nhất trên đời.
Có lẽ cô đang rất sợ hãi, bàn tay cứ ôm rịt lấy thắt lưng Ngụy Tuần, nép vào trước ngực anh. Anh nói với giọng bất đắc dĩ và có phần trách cứ: “Em có biết chạy ra ngoài một mình vào lúc đêm khuya như này là nguy hiểm lắm không?”
Nếu anh không đi theo cô thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi.
Lời trách cứ của anh khiến nỗi tủi thân của cô lập tức sụp đổ. Cô biết như vậy rất nguy hiểm, nhưng cô phải uống thuốc, mà cô lại chỉ có một thân một mình, thậm chí còn không được uống lấy một cốc nước ấm.
Và rồi, cô bất ngờ bất ngờ bật khóc.
Sao cô lại vô dụng thế chứ.
Bình luận truyện